Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con theo luật HNGĐ việt nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.56 KB, 59 trang )

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất đến GV. TS Nguyễn Văn Cừ - Người đã giúp em hoàn thành
khóa luận này.
Tiếp theo, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong
trường Đại Học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giáo khoa Luật Dân sự đã
giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học tập tại trường.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện
và hết lòng chăm sóc, quan tâm, giúp đỡ để em có thể hoàn thành khóa luận này.
Khóa luận là thành quả sự nỗ lực của cá nhân tác giả trong thời gian qua.
Tuy nhiên, do kiến thức bản thân còn hạn chế nên khóa luận không tránh khỏi
thiếu sót kính mong nhận được sự chỉ bảo của quý thầy cô và sự đóng góp của
các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào, nền tảng vững chắc của xã hội. Chính từ nơi đây, nhân
cách của mỗi con người được hình thành, nuôi dưõng và phát triển. Mối quan hệ
giữa cha mẹ và con là mối quan hệ thiêng liêng nhất, quý giá nhất vì chính nhờ
vào tình thương của cha mẹ mà con cái được sinh ra và lớn khôn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”
(1)
.
Quan hệ đó không chỉ phát sinh dựa trên quan hệ huyết thống mà còn
được phát sinh trên cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi đối với con.
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đã khẳng định: “Để phát triển
đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi
trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm ”.
Bên cạnh vấn đề tình cảm của cha mẹ đối với con thì vấn đề tình cảm của
con đối với cha mẹ cũng là một vấn đề cần phải hướng tới. Ngày nay, vấn đề
“trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ” là một vấn đề tế nhị. Trong xã hội nơi


mà cấu trúc gia đình đang bị suy thoái, nhiều người con đã quên đi nghĩa vụ
nuôi dưỡng cha mẹ.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa
cha mẹ và con là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật về HN&GĐ.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật quy định về điều chỉnh quan hệ giữa
cha mẹ và con, chủ yếu là để bảo vệ quyền trẻ em đã được ban hành. Tuy nhiên,
các quy định của pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập, nhiều quy định còn
chưa rõ ràng, cụ thể vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tế. Từ ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn trên, việc nghiên cứu đề tài: “Nghĩa vụ và quyền
nhân thân giữa cha mẹ và con theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000” là
một yêu cầu cấp thiết, khách quan nhằm hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ
giữa cha mẹ và con.
1. (1) Hồ Chí Minh: toàn tập; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2002; T.9, tr.222.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ
các quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha
mẹ và con, làm rõ những vấn đề còn hạn chế, chưa hoàn thiện của pháp luật.
Đánh giá ưu điểm của việc thực thi Luật HN&GĐ năm 2000 về vấn đề này.
Trên cơ sở đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý
luận của pháp luật về nghĩa vụ và quyền nhân thân của cha mẹ và con, nghiên
cứu, đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ và quyền này ở nước ta qua những
năm gần đây, để thấy được những vấn đề còn tồn tại của pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con thực hiện trên
lãnh thổ Việt Nam, dựa trên quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn
bản hướng dẫn.
5. Phương pháp nhiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ
sở đó, đề tài được nghiên cứu bằng cách kết hợp các phương pháp so sánh, phân
tích, tổng hợp, để xem xét vấn đề được toàn diện và đạt hiệu quả cao.

6. Cơ cấu khóa luận:
Chương 1: Nội dung nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con
theo luật HN&GĐ năm 2000.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về nghĩa vụ và quyền nhân
thân giữa cha mẹ và con theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.
CHƯƠNG 1
NỘI DUNG NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN NHÂN THÂN GIỮA CHA MẸ VÀ
CON THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM.
Thuật ngữ “nghĩa vụ” là khái niệm khoa học chỉ “việc phải làm theo bổn
phận của mình”
(1)
. Theo quy định của Điều 280 BLDS năm 2005 Việt Nam
định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau
đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả
tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện
công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi
chung là bên có quyền)”. Ở đây là mối quan hệ giữa cha mẹ và con.
Thuật ngữ “quyền” là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều
mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức được
hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế
(2)
.
Quyền của cá nhân bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong đó,
quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền dân sự cơ bản của con
người được pháp luật bảo hộ. Điều 24 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền nhân
thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
Pháp luật quy định nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con vừa

dựa trên chuẩn mực đạo đức (yếu tố tình cảm, huyết thống) vừa là yêu cầu của
pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con là
tổng hợp những việc gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người
khác mà pháp luật cho cha mẹ, con được hưởng, được làm, được đỏi hỏi và
(1)

(2)
Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý; Từ điển luật học; NXB từ điển Bách Khoa; NXB Tư pháp;
tr.648, 560.
(
những điều pháp luật buộc cha mẹ, con phải làm vì lợi ích của các chủ thể khác
trong mối quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA
CHA MẸ VÀ CON.
Trong các chế định được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì vấn
đề nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con là một vấn đề quan trọng,
bởi lẽ quy định này là sự dung hòa giữa thực trạng phát triển của xã hội và
truyền thống đạo đức của dân tộc. Vì vậy quy định về nghĩa vụ và quyền nhân
thân giữa cha mẹ và con không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa
sâu sắc về mặt xã hội.
Ý nghĩa về mặt pháp lý: Quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa
cha mẹ và con một cách cụ thể vừa đảm bảo quyền cho các chủ thể, đồng thời
cũng chỉ ra các nghĩa vụ tương ứng mà mỗi chủ thể phải thực hiện. Các quy định
này tạo cơ sở để đảm bảo quyền của các chủ thể trong mối quan hệ giữa cha mẹ
và con. Trước hết đó là cơ sở để đảm bảo các quyền cơ bản của con, đặc biệt là
con chưa đến tuổi thành niên. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em hiện đang chịu sự
điều chỉnh của nhiều ngành luật khác như BLDS, BLHS v.v. và đặc biệt là Công
ước Quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, vì vậy việc quy định
nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con trong Luật HN&GĐ năm 2000 là phù

hợp không những đối với các ngành luật khác mà còn phù hợp với việc nội luật
hóa các quy định của Công ước vào luật quốc gia. Bên cạnh đó, quy định về
nghĩa vụ và quyền nhân thân của cha mẹ đối với con trong Luật HN&GĐ năm
2000 dựa trên nguyên tắc cha mẹ có quyền bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa
vụ và quyền đối với con, điều này đảm bảo được quyền bình đẳng, không phân
biệt tư cách của cha và mẹ trong mối quan hệ với con. Không những thế, việc
quy định nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con còn liên quan đến
nhiều nội dung khác của Luật HN&GĐ như quan hệ cấp dưỡng, nuôi con nuôi
v.v.
Ý nghĩa về mặt xã hội: Có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con là yếu tố
quan trọng tạo nên sự gắn kết và bền vững của gia đình. Vì vậy, việc quy định
nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con, tạo ra các quy tắc xử sự giữa các thành
viên trong gia đình là một biện pháp góp phần ổn định các mối quan hệ trong gia
đình. Gia đình ổn định, tạo nên sự ổn định bền vững của xã hội, bởi lẽ, gia đình
là tế bào của xã hội. Đối với sự phát triển toàn diện của trẻ em, không ai có thể
phủ nhận được vai trò của gia đình, đặc biệt là cha me.
Trẻ em là tương lai của đất nước, bảo vệ tương lai của đất nước là điều vô
cùng quan trọng. Vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về nghĩa vụ và
quyền nhân thân của cha mẹ đối với con dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ
em, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con là cần thiết nhằm nâng cao ý thức
trách nhiệm của cha mẹ đối với con, tạo điều kiện cho việc đảm bảo các quyền
cơ bản của trẻ em.
Ngoài ra, những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và
con trong luật HN&GĐ năm 2000 còn có ý nghĩa trong việc xóa bỏ những tiêu
cực trong xã hội như: trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử giữa các con, bạo
lực gia đình v.v.
1.3. QUY ĐỊNH VỀ NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN NHÂN THÂN GIỮA CHA
MẸ VÀ CON QUA CÁC THỜI KỲ Ở VIỆT NAM.
Trong gia đình, mối quan hệ huyết thống, quá trình nuôi dưỡng, tình
thương và trách nhiệm gắn kết các thành viên với nhau, trong đó, mối quan hệ

giữa cha mẹ và con là lâu bền và thiêng liêng nhất. Trong một xã hội văn minh,
xã hội mà mọi người phải sống và làm việc theo Hiến Pháp và pháp luật thì việc
điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ và con là rất cần thiết. Tuy nhiên, hoàn cảnh xã
hội thay đổi, dẫn đến những quy định của pháp luật cũng thay đổi sao cho phù
hợp với cuộc sống của người dân. Vì vậy, chế định về quan hệ giữa cha mẹ và
con được pháp luật quy định qua từng giai đoạn cũng khác nhau và có những
điểm tiến bộ hơn.
- Quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con trong
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Thời kì này ở Việt Nam tồn
tại ba Bộ luật ở ba miền với những quy định khác nhau, song đã cùng xác lập
một chế độ HN&GĐ theo kiểu nửa phong kiến, nửa thuộc địa ở Việt Nam. Liên
quan đến quan hệ giữa cha mẹ và con, pháp luật thời kì này duy trì quan hệ bất
bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình, nam giới luôn được coi trọng với quan
niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Chế độ HN&GĐ thời kỳ này rấy coi
trọng việc bảo vệ và củng cố quyền của người con trưởng, tạo nên sự phân biệt
đối xử không bình đẳng giữa các con trong gia đình, coi rẻ quyền lợi của con
gái, con ngoài giá thú thì không được truy nhận cha mẹ trước Tòa án.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công. Tại quảng
trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước
Việt Nam dân chủ công hòa. Ngay khi ra đời, Nhà nước ta đã rất qua tâm và coi
trọng việc soạn thảo, ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh (trong đó có
Luật HN&GĐ), nhằm củng cố và bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Năm 1946, bản Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời ghi nhận thành quả cách mạng, quyền dân tộc tự quyết, các quyền và
nghĩa vụ công dân. Tình hình phát triển của xã hội về mặt kinh tế, chính trị,
quân sự trong quá trình đấu tranh cách mạng chống đế quốc và phong kiến, cùng
với sự phát triển của phong trào giải phóng phụ nữ, đòi hỏi phải xóa bỏ một số

chế định trong các Bộ dân luật cũ đối với các quan hệ HN&GĐ đang cản trở
bước tiến của xã hội; nhằm động viên sức người, sức của bảo đảm cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong
kiến trong các quan hệ HN&GĐ, dưới ánh sáng đường lối của Đảng, đối với
mối quan hệ giữa cha mẹ và con Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 97/SL
ngày 22 tháng 5 năm 1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật,
gồm 15 điều trong đó có 8 điều quy định về HN&GĐ với những nội dung:
Xóa bỏ tính cách phong kiến của quyền gia trưởng cũ quá ràng buộc và áp
bức cá nhân, trái với mục đích giải phóng con người của một nền pháp chế dân
chủ. Vì thế người con đã thành niên từ nay có quyền tự chỉ huy mình và quản trị
tài sản riêng. Con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng, không cần phải có sự thỏa
thuận đồng ý của cha mẹ hoặc của một thân trưởng nào khác (Điều 2).
Xóa bỏ quyền “trừng giới” của cha mẹ đối với con, cha mẹ không có
quyền xin giam cầm con cái khi chúng phạm lỗi (Điều 8).
Ngoài ra, pháp luật còn cho phép người con hoang vô thừa nhận được
quyền thưa trước Tòa án để truy nhận cha, mẹ của mình (Điều 9).
- Quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con
trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975.
Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã toàn thắng. Tuy
nhiên đế quốc Mỹ đã thay chân Pháp nhảy vào miền Nam nước ta, thực hiện
mưu đồ xâm lược, chia cắt lâu dài đất nước ta, sự nghiệp cách mạng Việt Nam
thực hiện 2 nhiệm vụ: Miền Bắc hòa bình bước vào thời kì quá độ xây dựng
XHCN; Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Ở Miền Bắc, năm 1957, cuộc cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành,
quan hệ sản xuất phong kiến – cơ sở của chế độ HN&GĐ phong kiến bị xóa bỏ.
Sau các cuộc điều tra khảo sát tình hình thực tế các quan hệ HN&GĐ (được tiến
hành từ năm 1951 đến năm 1958 ở 11 vùng kinh tế khác nhau), lấy ý kiến thảo
luận đóng góp, bổ sung của nhân dân; Dự Luật HN&GĐ đã được Quốc hội khóa
I, kỳ họp thứ 11 chính thức thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1959 và được Chủ

tịch tịch nước kí lệnh công bố ngày 13 tháng 1 năm 1960. Luật HN&GĐ là công
cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ
bản: Xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu; Xây dựng
chế độ HN&GĐ mới.
Quan hệ bình đẳng giữa cha mẹ với con cái được hình thành trên cơ sở
xây dựng chế độ HN&GĐ mới của xã hội chủ nghĩa, xây dựng gia đình hòa
thuận, hạnh phúc và bền vững. Ngay từ Luật HN&GĐ đầu tiên của nước Việt
Nan dân chủ cộng hòa đã chú trọng đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con.
- Quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con trong
giai đoạn từ năm 1976 đến nay.
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày
30 tháng 4 năm 1975, “cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn cả nước độc
lập, thống nhất…tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Việc thực hiện Luật HN&GĐ đã đạt được những thành tựu to lớn góp
phần xóa bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến, chống ảnh
hưởng của tư sản, đồng thời thực hiện chế độ HN&GĐ XHCN ở nước ta. Tình
hình nước ta hiện nay đã thay đổi về căn bản so với những năm 1959, một số
quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 không còn phù hợp. Vì vậy, việc ban
hành luật HN&GĐ mới là một tất yếu khách quan để thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng CNXH trong phạm vi cả nước. Dự Luật HN&GĐ mới đã được Quốc hội
khóa VII, kỳ họp thứ 12 chính thức thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1986 và
được Hội Đồng Nhà nước công bố ngày 3 tháng 1 năm 1987 theo lệnh số 21 –
LCT/HDDNN7 của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con được quy định trong
Luật HN&GĐ năm 1986 đầy đủ hơn so với các quy định trước. Đặc biệt, tại
Điều 26 quy định biện pháp tước quyền của cha mẹ đối với con có thể coi đây là
biện pháp xử lý có ý nghĩa như chế tài của Luật HN&GĐ năm 1986 áp dụng đối
với hành vi của cha mẹ phạm tội như hành hạ, ngược đãi nghiêm trọng con chưa
thành niên, nhằm bảo vệ quyền lợi của con trong gia đình. Điều 27 cũng đã quy

định nghĩa vụ phải chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người thân trong gia
đình. Trước đây Luật HN&GĐ năm 1959 coi đây là nghĩa vụ đương nhiên dựa
trên truyền thống đạo đức trong gia đình Việt Nam nhưng lại không quy định
trong luật, dẫn tới việc giải thích, áp dụng gặp nhiều trở ngại, thiếu cơ sở pháp
lý.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định tiến bộ của Luật
HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã đề cao vai trò của gia đình
trong đời sống xã hội, xây dựng và củng cố gia đình theo truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tránh ảnh hưởng tiêu cực theo lối sống thực dụng và những tác động
xấu của mặt trái cơ chế thị trường đối với quan hệ HN&GĐ. So với Luật
HN&GĐ năm 1986 nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con đã được bổ
sung thêm tại Luật HN&GĐ năm 2000: quy định về nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng (Điều 36), nghĩa vụ và quyền giáo dục con (Điều 37). Đồng
thời, những quy định của chương này đã cụ thể hóa các nghĩa vụ và quyền nhân
thân của cha mẹ và con đối với nhau. Trong Luật HN&GĐ năm 2000, quy định
về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con vẫn được xây dựng dựa trên
nguyên tắc cha mẹ bình đẳng với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền
đối với con. Tuy nhiên tại các điều 34,35,36 và 37 đã thay cụm từ “nghĩa vụ”
bằng cụm từ “nghĩa vụ và quyền” tại tên và trong nội dung các điều. Ngoài ra
Luật HN&GĐ năm 2000 còn bổ sung quy định mới về nghĩa vụ và quyền của bố
dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng (Điều 38).
1.4. SỰ KIỆN PHÁP LÝ LÀM PHÁT SINH QUAN HỆ PHÁP LUẬT
GIỮA CHA MẸ VÀ CON.
1.4.1. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự
kiện sinh đẻ.
Việc đứa trẻ ra đời từ người cha, người mẹ nhất định được xác nhận dù
giữa hai bên có tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hay không sẽ làm phát sinh
quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Như vậy, cơ sở pháp lý của quan hệ trên
là sự kiện sinh đẻ, mối quan hệ huyết hệ tự nhiên. Tuy nhiên việc xác định cha
mẹ, con về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng còn có một số trường hợp khá phức

tạp. Việc xác định cha mẹ, con dựa trên cơ sở suy đoán pháp lý tại Điều 63 Lụât
HN&GĐ năm 2000.
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định phương pháp suy đoán pháp
lý xác định quan hệ cha mẹ, con tại khoản 1 Điều 63 như sau:
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời
kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng
là con chung của vợ chồng”.
Về nguyên tắc các trường hợp sau đây coi là con chung của vợ chồng:
- Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nghĩa là sinh ra sau khi đã tổ chức
đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên chết trước
hoặc do tòa án công nhận, quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của
cả hai bên vợ chồng.
Có thai trong thời kỳ hôn nhân nghĩa là con sinh ra khi chấm dứt quan hệ
hôn nhân nhưng người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân (trong thời kỳ từ khi tổ
chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân).
- Thời kỳ thai nghén là khoảng thời gian phụ nữ mang thai. Thời kỳ thai
nghén bắt đầu từ khi người phụ nữ thụ thai cho đến khi họ sinh đẻ. Xác định thời
kỳ thai nghén sẽ xác định thời điểm người phụ nữ thụ thai đứa trẻ và như vậy có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định cha cho con.
Do vậy, trong thực tế việc xác định người phụ nữ có thai trong thời kỳ
hôn nhân nhiều trường hợp hết sức khó khăn. Về nguyên tắc trong thời hạn 300
ngày (kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân) người vợ sinh con thì đứa trẻ đó được
xác định là con chung của vợ chồng. Đối với trường hợp trong thời gian 300
ngày mà người vợ kết hôn với người khác thì theo tinh thần tại khoản 1 Điều 63
nếu sau này người vợ sinh con được xác định là con của người chồng sau theo
nguyên tắc suy đoán pháp lý: con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. Nếu người
chồng sau không thừa nhận đứa con đó là con mình thì có nghĩa vụ đưa ra các
chứng cứ chứng minh (khi kết hôn người vợ đã có thai với người chồng trước
hoặc sự thừa nhận của người vợ qua các chứng cứ khác )

- Để đảm bảo lợi ích cho đứa trẻ, pháp luật quy định con sinh ra trước
ngày đăng ký kết hôn (ngày tổ chức đăng ký kết hôn) nhưng được cả vợ chồng
thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận con thì pháp luật quy định:
“Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận là con thì phải có chứng cứ và phải
được Tòa án xác định” (khoản 1 Điều 63) và “Người không được nhận là cha
mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Người
được nhận là cha mẹ một người có thể yêu cầu tòa án xác định người đó không
phải là con mình”.
Trong thực tế nhiều trường hợp quan hệ hôn nhân đang tồn tại, nhưng một
bên chồng nghi ngờ người vợ không chung thủy do ngoại tình và đứa con đó
không phải là con mình thì phải đưa các chứng cứ chứng minh trước tòa án, nếu
người chồng không chứng minh được thì được xác định là con chung của vợ
chồng và người vợ không có nghĩa vụ chứng minh. Trong trường hợp cần thiết
thì phải giám định gen.
Hiện nay khoa học phát triển nhiều trường hợp đứa trẻ sinh ra không trên
cơ sở huyết thống (sự kiện sinh đẻ) mà nhờ vào sự can thiệp của y học: thụ tinh
trong ống nghiệm, mang thai hộ vấn đề này Chính phủ phải quy định cụ thể
trong từng trường hợp cụ thể.
Điều 65 của Lụật HN&GĐ năm 2000 quy định quyền xin nhận cha mẹ:
“1. Con có quyền xin nhận cha mẹ của mình kể cả trường hợp cha, mẹ đã chết.
2. Con đã thành niên xin nhận cha không đòi hỏi có sự đồng ý của mẹ,
xin nhận mẹ không đòi hỏi có sự đồng ý của cha”.
Việc xin xác định cha mẹ cho con thường xảy ra đối với những trường
hợp người phụ nữ chưa có chồng nhưng lại sinh con do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà người đàn ông không nhận đó là con mình thì tòa án có thẩm quyền
phải căn cứ vào chứng cứ thu thập được để xác định cha cho người đó.
1.4.2. Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự
kiện nuôi dưỡng (nuôi con nuôi).
Theo khoản 1 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000: “nuôi con nuôi là việc

xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Xác lập
quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi.
Việc nuôi con nuôi chỉ có thể được xác lập do sự bày tỏ ý chí của người
nuôi và người được nuôi hoặc người đại diện của người được nuôi trong khuôn
khổ thủ tục nuôi con nuôi tiến hành dưới sự giám sát của Nhà nước.
Bên cạnh đó, việc nhận nuôi con nuôi cần tuân theo những điều kiện nhất
định mà pháp luật quy định và việc nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đăng ký và ghi vào sổ hộ tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con
được thực hiện theo qui định pháp luật hộ tịch. Việc nhận con nuôi giữa các
công dân Việt Nam với nhau phải được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường
trú của người nuôi con hoặc con nuôi; việc nhận con nuôi giữa công nhân Việt
Nam với người nước ngoài phải được đăng ký tại UBND cấp tỉnh nơi thường trú
của công dân Việt Nam.
Theo đó, khi các chủ thể đáp đáp ứng đủ các điều kiện pháp luật quy định
và hoàn thành các thủ tục nhận nuôi con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi
được xác lập và được Nhà nước công nhận về mặt pháp lý. Từ đó, nghĩa vụ và
quyền nhân thân giữa cha mẹ và con được phát sinh theo quy định của pháp luật.
1.5. ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN NHÂN THÂN GIỮA
CHA MẸ VÀ CON THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2000.
- Khác với các quan hệ pháp lý thông thường khác, quan hệ gia đình chịu
sự điều chỉnh của các quy định pháp luật và cả các yếu tố truyền thống, đạo đức,
lễ nghĩa. Các căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật HN&GĐ dựa trên những sự
kiện đặc biệt hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng nên mang tính chất lâu dài
bền vững. Cha mẹ với tư cách là người sinh ra con cái có thiên chức và trách
nhiệm nuôi dạy con trưởng thành. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con không
phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ, mà được phát sinh và duy trì trên
cơ sở mối quan hệ tự nhiên, bất biến. Vì vậy nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa

cha mẹ và con mang tính chất lâu dài và bền vững.
- Cha mẹ khi thực hiện nghĩa vụ và quyền của mình không được làm tổn
hại đến sức khỏe, sự phát triển tinh thần và đạo đức của các con. Pháp luật
không thể hướng dẫn chi tiết, cụ thể bắt buộc cha mẹ giáo dục con như thế nào,
nhưng pháp luật nói chung nghiêm cấm sự lạm dụng quyền của cha mẹ và xử lý
nghiêm khắc trong trường hợp cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm
của mình.
- Quyền gắn liền với nghĩa vụ. Quyền của cha mẹ trong xã hội hiện đại
được thừa nhận chủ yếu nhằm tạo điều kiện để cha mẹ thực hiện các nghĩa vụ
của mình đối với con. Suy cho cùng, trong các quyền của cha mẹ đều có yếu tố
nghĩa vụ và ngược lại, các nghĩa vụ của cha mẹ đều thể hiện quyền cha mẹ. Bởi
vậy, Luật HN&GĐ năm 2000, khi mô tả quyền cha mẹ, thường sử dụng cụm từ
“nghĩa vụ và quyền”. Cụm từ “nghĩa vụ” đi trước, có lẽ nhằm nhấn mạnh sự
thay đổi triệt để về quan điểm của người làm luật hiện đại đối với quyền cha mẹ
so với người làm luật thời cổ. Tính chất “nghĩa vụ và quyền” của quyền cha mẹ
cũng được khẳng định trong Công ước New York ngày 26/01/1990 về quyền trẻ
em mà Việt Nam là một thành viên.
- Phải tuân theo nguyên tắc bình đẳng giữa các con. Khi xây dựng chế
định quyền của cha mẹ, luật chỉ dựa vào sự tồn tại của quan hệ cha mẹ - con.
Luật không phân biệt tính chất của quan hệ đó tùy theo tính chất của mối quan
hệ giữa cha và mẹ, cũng như tính chất của mối quan hệ giữa cha mẹ và con. Bởi
vậy, con sinh ra từ quan hệ hôn nhân hợp pháp, từ quan hệ hôn nhân trái pháp
luật, từ quan hệ chung sống như vợ chồng, thậm chí, từ các mối quan hệ “qua
đường” giữa cha và mẹ, đều được đối xử ngang nhau. Tuy nhiên, về phương
diện thực hiện quyền cha mẹ, sự bình đẳng phải được hiểu theo nghĩa tương đối:
con không sống chung với cha mẹ dưới một mái nhà không thể đặt dưới sự kiểm
soát, giám sát của cha mẹ cũng như không thể thụ hưởng việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục của cha mẹ trong cùng những điều kiện như con sống chung
với cha mẹ.
- Nguyên tắc thực hiện trực tiếp, cha mẹ phải là chủ thể năng động, tích

cực trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với con và phải là
những người trực tiếp thực hiện quyền đó. Không thể hình dung được việc thực
hiện quyền cha mẹ thông qua vai trò của người được ủy quyền. Trong trường
hợp cha mẹ không còn, thì anh, chị, em hoặc ông bà có nghĩa vụ và quyền nhân
thân như cha mẹ. Trong trường hợp không có cả anh, chị, em hoặc ông bà, thì
quyền cha mẹ được thay thế bằng quyền của người giám hộ.
- Nguyên tắc thực hiện chung, cha mẹ không thực hiện quyền và nghĩa vụ
đối với con một cách phân tán, độc lập, cát cứ. Mỗi người thực hiện quyền của
cha mẹ theo thiên chức riêng của người cha và của người mẹ, nhưng trên cơ sở
mối quan hệ hợp tác, cũng mang tính thiên chức, của cha và mẹ. Dẫu sao,
“chung” không thể được hiểu một cách máy móc. Thông thường, một người sẽ
đưa ra sáng kiến hoặc sẽ thực hiện một mình và người còn lại đồng ý (rành
mạch, rõ ràng hoặc mặc nhiên). Cha và mẹ không cần cùng ký tên vào sổ liên
lạc gia đình - học đường, không cần cùng nhau ra trước Toà án để bảo vệ quyền
và lợi ích của con trong một vụ án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về
quyền thừa kế,
- Luật không dự kiến việc chấm dứt nghĩa vụ và quyền nhân thân của cha
mẹ đối với con đẻ. Có lẽ do nhà làm luật thấy không cần thiết. Đến một lúc nào
đó, con được luật thừa nhận có đầy đủ năng lực hành vi và do đó có quyền tự
mình quyết định con đường đi của mình. Thậm chí, trước khi con đạt đến độ
tuổi nhất định để được thừa nhận có đầy đủ năng lực hành vi, con cũng đã dần
dần ý thức được các quyền tự do cá nhân của mình cũng như dần dần xây dựng
cho mình thế giới quan và nhân sinh quan riêng. Cha mẹ, về phần mình, sẽ dần
có xu hướng chuyển thái độ cư xử, trong khuôn khổ thực hiện quyền của cha
mẹ, từ sự dẫn dắt chủ động, trực tiếp sang hướng dẫn, gợi ý, cố vấn, giúp đỡ,
Về mặt lý thuyết, cha mẹ không có nghĩa vụ trông nom con đã thành niên: con
đã thành niên có quyền có nơi cư trú riêng; con đã thành niên mà gây thiệt hại
cho người thứ ba, thì phải tự bồi thường (khoản 1 Điều 606 BLDS năm 2005).
Nếu con đã thành niên mà ở trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì con sẽ
được đặt dưới chế độ giám hộ.

1.6. NỘI DUNG.
1.6.1. Nghĩa vụ và quyền nhân thân của cha mẹ đối với con.
Cha mẹ chỉ có quyền quyết định chế độ pháp lý về nhân thân của con
chưa thành niên theo quy định của pháp luật, khi con đã thành niên, có đầy đủ
năng lực dân sự thì cha mẹ không có quyền quyết định chế độ pháp lý về nhân
thân của con nữa. Trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật HN&GĐ năm 1986,
Luật HN&GĐ năm 2000 phát triển cụ thể hóa các quy định các nghĩa vụ và
quyền về nhân thân của cha mẹ đối với con để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội hiện nay.
Với tư cách là cha mẹ, con thì: được thực hiện quyền và phải thực hiện
nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ pháp luật cha mẹ - con theo quy định của
pháp luật.
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền khai sinh, đặt họ tên, tôn giáo, dân tộc,
quốc tịch cho con.
Một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được khai sinh
theo quy định tại Điều 29 BLDS năm 2005 : “Cá nhân sinh ra có quyền được
khai sinh”. Khai sinh là việc xác lập sự tồn tại của mỗi người với tư cách là công
dân và sẽ được Nhà nước công nhận về mặt pháp lý. Từ đó, các quyền khác mới
được bảo đảm thực hiện. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định rõ khai sinh
cho con là nghĩa vụ và quyền của cha mẹ, tuy nhiên các nhà làm luật cũng đã
gián tiếp quy định thông qua việc quy định các nghĩa vụ và quyền khác của cha
mẹ đối với con như: cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm lo, tạo điều kiện cho
con học tập, chắc chắn một điều rằng cha mẹ không thể đăng kí cho con đi học
nếu không có giấy khai sinh v.v. Vì vậy, mặc dù Luật HN&GĐ năm 2000 không
quy định về vấn đề này, song trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con về nghĩa vụ
và quyền nhân thân thì cần đề cập đến. Theo đó, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
khai sinh cho con đúng thời hạn và được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thông thường, con sinh ra từ quan hệ hôn nhân mang họ cha; con sinh ra
từ quan hệ chung sống như vợ chồng cũng thường mang họ cha. Cá biệt, có
trường hợp những người có quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc chung sống như vợ

chồng chấp nhận tập tục của cộng đồng dân tộc ít người mà họ có xuất xứ, theo
đó, con sinh ra phải mang họ mẹ. Con của một người phụ nữ độc thân thường
mang họ của chính người phụ nữ đó. Bằng chứng về việc mang họ có thể là giấy
khai sinh hoặc bất kỳ giấy tờ gì khác được thiết lập một cách chính thức (chứng
minh thư, hộ chiếu, sổ hộ khẩu, thậm chí lý lịch có xác nhận, bằng cấp, chứng
chỉ, ).
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng: đối với họ, tên, dân tộc của con nuôi dựa
trên nguyên tắc, việc nuôi con nuôi không đương nhiên có tác dụng thay đổi họ
của con nuôi theo họ của người nuôi. Theo Điều 75 Luật HN&GĐ năm 2000,
cha mẹ nuôi có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (tức UBND)
quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Tuy nhiên, nếu con nuôi từ đủ 9
tuổi trở lên, thì việc thay đổi họ, tên phải được sự đồng ý của người đó. Như
vậy, nếu con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên không đồng ý việc thay đổi họ, tên của
mình, thì con nuôi mang họ, tên cũ. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi mất năng
lực hành vi chỉ cần có sự đồng ý và yêu cầu của cha, mẹ nuôi.
Vấn đề dân tộc của con nuôi. Điều 22 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000
quy định:
“1. Con nuôi được xác định dân tộc theo cha, mẹ ruột;
2. Trong trường hợp không biết được cha, mẹ ruột của con nuôi là ai, thì
con nuôi được xác định dân tộc theo cha, mẹ nuôi; nếu sau đó biết được cha, mẹ
ruột, thì dân tộc của người con nuôi có thể được xác định lại theo yêu cầu của
người này, của cha, mẹ ruột hoặc của cha, mẹ nuôi.”
Trong BLDS năm 2005 cũng quy định về vấn đề này như sau: người đã
thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có
quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định lại theo dân tộc của
cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà
được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là
ai (điểm b khoản 2 Điều 28).
Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định nghĩa vụ và quyền nhân

thân của cha mẹ đối với con:
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con;
chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ
và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã
hội.
2. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ,
xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên;
không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội.”
Như vậy, thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc vừa là quyền vừa
là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Là quyền bởi không ai trong bất cứ hoàn
cảnh nào có thể ngăn trở hoặc tước đi quyền được yêu thương, chăm sóc đối với
con cái từ phía người cha, người mẹ, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, vì lợi
ích của con mà quyền này bị hạn chế theo một quyết định hoặc một bản án của
Tòa án. Là nghĩa vụ bởi lẽ, không một người cha, người mẹ nào có quyền ruồng
rẫy, ngược đãi hoặc từ chối trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc con cái do mình
sinh ra. Vì lợi ích, vì sự phát triển lành mạnh của con trẻ, đạo đức xã hội cũng
như pháp luật đặt ra những trách nhiệm, nghĩa vụ tối thiểu của cha, mẹ đối với
con mình.
- Nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con.
Sinh ra con, cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm những nhu cầu thiết yếu trong cuộc
sống hàng ngày, cho sự phát triển của con trong phạm vi khả năng cho phép của
mình như: ăn, mặc, ở, chữa bệnh v.v. Con được trông nom phải là con chưa
thành niên. Đối với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm
trông nom thuộc về người giám hộ và việc trông nom được thực hiện trong
khuôn khổ nghĩa vụ và quyền giám hộ của cha mẹ. Sự trông nom của cha mẹ đối
với con không chỉ được hiểu như là sự trông giữ vật chất mà trước hết là tập hợp
các biện pháp mà cha mẹ có quyền và có nghĩa vụ thực hiện nhằm đặt con dưới
sự kiểm soát của mình và sự kiểm soát đó cần thiết cho việc nuôi dạy con có

hiệu quả. Trong chừng mực đó, việc bảo đảm sự hiện diện vật chất của con tại
nơi mà cha mẹ có thể thực hiện các hoạt động quản lý bình thường đối với các
công việc của gia đình, tức là nơi cư trú của cha mẹ, là điều kiện cần cho việc
thực hiện quyền của cha mẹ đối với con. Theo khoản 1 Điều 53 BLDS năm
2005, nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha mẹ; nếu cha mẹ
có nơi cư trú khác nhau, thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú
của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Luật nói
thêm rằng người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có nơi cư trú khác
với nơi cư trú của cha mẹ, nếu được cha mẹ đồng ý trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. Vậy nghĩa là trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, người
chưa thành niên đủ 15 tuổi không được phép rời khỏi nơi cư trú, một khi chưa
được phép của cha mẹ. Quyền cho phép của cha mẹ chắc chắn có hiệu lực đối
kháng cả đối với người thứ ba (nghĩa là phải được người thứ ba tôn trọng).
Cha mẹ không được từ chối việc trông nom con. Vi phạm nghĩa vụ trông
nom, trong trường hợp sự vi phạm có tính chất nghiêm trọng, cha mẹ có thể bị
hạn chế quyền của cha mẹ đối với con (Điều 41 Luật HN&GĐ năm 2000).
Trông nom con, cha mẹ có thể sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường, bằng tài sản
của mình, về những thiệt hại mà con gây ra cho người thứ ba.
- Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con. Nghĩa vụ nuôi dưỡng
được đặt ra khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng người được nuôi dưỡng theo quy
định của pháp luật sống chung với nhau. Khoản 1 Điều 36 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định: “ Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi
dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình…”. Trong những trường hợp thông thường nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha
mẹ được pháp luật quy định là từ khi con sinh ra cho đến trưởng thành (18 tuổi).
Đến tuổi thành niên, con người có đủ năng lực để bằng ý chí và hành vi của
mình tự tạo dựng một cuộc sống độc lập. Tuy nhiên, nhiều trường hợp con sinh
ra bị bệnh tật bẩm sinh, hoặc do tai nạn, v.v, khi đã thành niên vẫn không có khả
năng lao động, không thể tự chăm lo và nuôi sống bản thân mình, thì cha mẹ có

trách nhiệm tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ cho con mình, điều này là
phù hợp với thực tế và đạo lý xã hội. Ngay cả khi cha mẹ bị Tòa án hạn chế
quyền đối với con chưa thành niên, có thể vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng con theo quy định tại khoản 3 Điều 43 Luật HN&GĐ
năm 2000: “…Cha, mẹ đã bị Toà án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con…”. Quy định này nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của trẻ em.
- Trong trường hợp con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự,
nếu con chưa có vợ, chồng, con hoặc có nhưng những người này đều không có
đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ có đủ điều kiện phải là người giám
hộ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS năm 2005: “Khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra
quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức
giám định ”. Khi đó, mặc dù con đã thành niên nhưng do bị tàn tật (bị khiếm
khuyết về thể chất), mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình thì cha mẹ phải là những người cùng chăm
sóc, nuôi dưỡng.
Theo quy định tại Điều 67 BLDS năm 2005 cha mẹ có nghĩa vụ: “Chăm
sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho con; Đại diện cho con trong các giao dịch
dân sự; Quản lý tài sản của con; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con”. Theo
đó, cha mẹ phải thực hiện nghĩa vụ và quyền của người giám hộ.
- Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi hành hạ
xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên;
không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật và trái với đạo
đức xã hội.
Việc phân biệt đối xử giữa các con (con trai và con gái, con trong giá thú
và con ngoài giá thú, con nuôi và con đẻ) là một trong những tập quán khá phổ
biến ở các nước từng trải qua chế độ phong kiến, nhất là các nước châu Á.
Nhiều trẻ em là nạn nhân của “nạn” phân biệt đối xử trong gia đình đã có những

phản ứng xấu, tiêu cực như bỏ nhà đi, trầm cảm. Khi còn bé, chưa có nhiều các
mối quan hệ xã hội, đứa trẻ cảm thấy hụt hẫng, mặc cảm, trở nên xa lánh bố mẹ,
có biểu hiện mâu thuẫn, ganh ghét với anh chị em được bố mẹ yêu hơn. Một số
không biết giải tỏa bằng cách nào thì ủ rũ, chán chường, không muốn trò chuyện
cùng ai. Số khác thì giải tỏa bằng cách bỏ nhà đi, tìm đến bạn bè để chia sẻ, hoặc
tìm quên trong những thú vui tiêu cực v.v. Để xóa xóa bỏ những tập quán cổ hủ
lạc hậu, hầu hết pháp luật các nước đều quy định nguyên tắc bình đẳng giữa các
con. Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ sung một số nguyên tắc cơ bản:
“Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, con
trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú”.
Nguyên tắc này cụ thể hóa quy định tại Điều 64 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001). Theo đó các con không phân biệt về thứ tự, giới tính, cùng
huyết thống hay không cùng huyết thống đều được cha mẹ yêu thương, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục như nhau. Nhà nước và xã hội Việt Nam tôn trọng và
bảo vệ quyền lợi của các con mà không có bất kì sự phân biệt nào, chẳng hạn,
con ngoài giá thú vẫn có quyền được đăng kí khai sinh, được xác định cha, mẹ;
con nuôi hay con đẻ đều được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn.
Cha mẹ không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm
dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con
làm những việc trái đạo đức xã hội. Cụ thể:
+ Cha mẹ không được có hành vi đối xử tồi tệ về ăn, mặc, ở và các sinh
hoạt hàng ngày khác và không được nhục mạ mắng chửi con cái, để cho con cái
ăn mặc rách rưới, cho ở nơi khổ cực, trong khi có điều kiện tốt hơn. Nếu những
hành vi này diễn ra một cách thường xuyên và có hệ thống sẽ là cho con luôn bị
dày vò về tình cảm, đau khổ về tinh thần, không thể phát triển bình thường về
thể chất,v.v., và phần nào tổn hại tới sức khỏe, hoặc tuy không diễn ra thường
xuyên nhưng được thực hiện một cách đặc biệt tàn nhẫn, gây cho con cái nỗi
khiếp sợ và gây ra sự bất bình lớn đối với quần chúng xung quanh thì sẽ bị xử lý
theo pháp luật hình sự (tội ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con,
cháu, người có công nuôi dưỡng mình được quy định tại Điều 151 BLHS năm

1999).
+ Hiện nay, dưới sự tác động của nhiều yếu tố tiêu cực trong xã hội,
không ít những bậc cha mẹ với lối sống thực dụng, vụ lợi, vô trách nhiệm đã
quên đi lợi ích tương lai của con mình mà có hành vi lạm dụng sức lao động của
con như: bắt con nhỏ đi ăn xin hoặc bỏ học đi làm thuê kiếm tiền hay xúi giục,
ép buộc con làm những việc phi pháp, trái đạo đức xã hội, nhằm phục vụ cho
mục đích của mình như ép buộc con gái bán dâm, trộm cắp, buôn bán, vận
chuyển ma túy.
Để bảo vệ sự phát triển lành mạnh của trẻ em, Luật HN&GĐ năm 2000
nghiêm cấm cha, mẹ lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không
được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Điều 37 Luật HN&GĐ năm 2000 quy đinh:
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện
cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm
ấm, hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà
trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.
2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền
tham gia hoạt động xã hội của con…”
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện học
tập cho con, hướng dẫn con chọn nghề, tôn trọng quyền chọn nghề, tham gia
hoạt động xã hội của con, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của con về trí tuệ, tài
năng và nhân cách.
+ Một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em là quyền được học tập.
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em cũng như trong pháp luật Việt Nam, học tập
không những được quy định là quyền của trẻ em mà còn là bổn phận của cha
mẹ, xã hội. Chính vì vậy, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và
tạo điều kiện cho con được học tập. Việc giáo dục con không thể phó mặc cho
một người (cha hoặc mẹ) mà cả hai người đều có quyền ngang nhau trong giáo
dục con cái. Cha mẹ có quyền và có nghĩa vụ lựa chọn trường nơi con theo học

phù hợp với điều kiện đi lại, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình cũng
như với năng khiếu của con. Cha mẹ theo dõi, kiểm tra việc học tập của con,
một cách độc lập tại gia đình hoặc có hợp tác với nhà trường thông qua tổ chức
hội phụ huynh học sinh. Tất nhiên, khi đã có khả năng nhận thức nhất định, con
có quyền có ý kiến về việc lựa chọn nơi học tập; cha mẹ, về phần mình, chỉ tham
gia ý kiến với tư cách cố vấn.
+ Bên cạnh đó, cha mẹ còn có nghĩa vụ và quyền tạo điều kiện cho con
được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt về mọi
mặt. Bởi vì trẻ em trong giai đoạn vị thành niên rất dễ bị tổn thương về mặt tình
cảm, chưa có đủ nhận thức để suy xét thấu đáo về các vấn đề trong cuộc sống,
do đó cần có sự hướng dẫn, giáo dục của cha mẹ. Nếu thiếu sự yêu thương chăm
sóc của một trong hai người, nếu không được sống trong một môi trường gia
đình tốt thì con trẻ sẽ dễ có tâm lý không ổn định, ảnh hưởng xấu đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách sau này.
+ Hướng nghiệp: “Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền
chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con.”. Song, cha mẹ phải tôn
trọng quyền chọn nghề của con. Cần lưu ý rằng trong khung cảnh của pháp luật
lao động hiện hành, con đủ tuổi để giao kết hợp đồng lao động, thì có thể tự
mình giao kết và không cần sự đồng ý của cha mẹ. Theo khoản 2 Điều 20 BLDS
năm 2005 quy định: “Trong trường hợp những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” .
Điều đó không có nghĩa khi con đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có các điều kiện về
tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ sẽ là chủ thể của hợp đồng dân
sự, chỉ khi pháp luật cho phép được giao kết những hợp đồng mà pháp luật
không cấm đối với người chưa thành niên. BLDS năm 2005 quy định như vậy là
phù hợp với quy định của BLLĐ về quyền có tài sản riêng và quyền của người
từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tham gia lao động. Do vậy, đối với ngành nghề
và công việc được nhận trẻ em vào làm việc, học tập, tập nghề phải có sự đồng ý

theo dõi của cha mẹ. Người học nghề ở cơ sở dạy nghề ít nhất phải đủ 13 tuổi,
trừ một số nghề do BLĐTBXH quy định và phải có đủ sức khỏe phù hợp với
yêu cầu của nghề theo học. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định cha mẹ bình đẳng
trong việc hướng dẫn con cái thực hiện quyền chọn nghề. Hơn ai hết cha mẹ là
những người theo dõi sát sao sự lớn lên và trưởng thành của con trẻ, thông qua
tính cách, hành vi của con trẻ, họ sẽ nắm bắt được những điểm mạnh, điểm yếu
cũng như năng khiếu, sở trường của trẻ, từ đó cha mẹ giúp đỡ con cái, đưa ra
những lời chỉ bảo khuyên răn cần thiết trong việc định hướng cho con trẻ phát
huy theo khả năng đó khi lựa chọn ngành nghề cho tương lai. Việc lựa chọn
ngành nghề nào cũng như việc tham gia hoạt động xã hội nào là do trẻ quyết
định, cha mẹ không có quyền dùng ảnh hưởng của mình để ép buộc con phải
chọn ngành nghề và tham gia các hoạt động xã hội không phù hợp với sự phát
triển năng lực của trẻ. Quy định này của Luật HN&GĐ năm 2000 là điểm tiến
bộ so với Luật HN&GĐ năm 1986. Về vấn đề này, Luật HN&GĐ năm 1986 quy
định: “ Con đã thành niên còn ở chung với cha mẹ có quyền lựa chọn nghề
nghiệp, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”, điều này đồng
nghĩa chỉ con đã thành niên mới có quyền lựa chọn ngành nghề. Trong khi Luật
HN&GĐ năm 2000 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền hướng dẫn con chọn
nghề, tôn trọng việc lựa chọn ngành nghề của con , quy định này một mặt mở
rộng quyền của trẻ em, một mặt khắc phục được tình trạng cha mẹ lợi dụng
quyền này áp đặt con cái.
Có thể nói Việt Nam là một trong những quốc gia thành viên thực hiện có
hiệu quả quy định của Công ước về quyền trẻ em trong việc: “bảo đảm cho trẻ
có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng, được quyền tự do phát biểu những
quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan
điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ trưởng
thành của trẻ em” (Điều 12).
Quyền và nghĩa vụ giáo dục, trong chừng mực nào đó, thể hiện dưới hình
thức quyền và nghĩa vụ giám sát. Cha mẹ, theo tục lệ, có quyền cho phép hoặc
không cho phép con chưa thành niên lui tới những nơi nào đó, giao tiếp với

người nào đó, kiểm soát thư từ của con cái, Các quyền này không được ghi
nhận trong luật viết, có lẽ do chúng không phù hợp với tinh thần của nguyên tắc
tôn trọng quyền trẻ em; nhưng nếu cha mẹ có thực hiện, thì pháp luật cũng chỉ
can thiệp có chừng mực, ví dụ, trong trường hợp có sự lạm dụng quyền của cha
mẹ và sự lạm dụng đó ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển lành mạnh của
con, nhất là một khi con chưa thành niên đã đủ 15 tuổi.
Nhà nước khuyến khích cha mẹ nên thay đổi quan niệm hay lập trường
khô cứng, kiên nhẫn và lắng nghe sự thổ lộ từ con cái, lắng nghe nhưng không
bình phẩm, không phân tích hay quyết đoán một cách vội vả, từ đó cha mẹ sẽ dễ
dàng cảm thông và hiểu được ý muốn của con cái mà kịp thời khuyên bảo, chỉ
dạy; khuyến khích cha mẹ nên hướng dẫn con cái ý thức rõ ràng trong mối
tương quan, sự quan hệ mật thiết giữa mình và muôn loài, từ đó con cái sẽ trao
dồi ý niệm trong lĩnh vực đạo nghĩa. Pháp luật muốn nhấn mạnh nghĩa vụ thiêng
liêng giữa con trẻ với quốc gia, xã hội.
- Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm
giám hộ, có người khác đại diện theo pháp luật (Điều 39 Luật HN&GĐ năm
2000), Điều 141 BLDS năm 2005 cũng quy định cha, mẹ là đại diện của con
chưa thành niên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 139 BLDS năm 2005: “Đại
diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích
của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Theo đó cha mẹ là người đại diện theo
pháp luật cho con, có quyền nhân danh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

×