Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 140 trang )


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ HỢP






BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2012



2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ HỢP






BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản




HÀ NỘI - 2012


3





LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác
.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phạm Thị Hợp





4

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT
NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

6
1.1. Cơ sở lý luận về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong

Luật tố tụng hình sự Việt Nam
6
1.1.1.

Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người 6
1.1.2.

Biện pháp bắt người đang bị truy nã 15
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy
định về biện pháp bắt người đang bị truy nã
33
1.2.1. Trong thời kỳ phong kiến 33
1.2.2.

Thời kỳ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 1988
35
1.2.3.

Quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước
khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
37
1.3. Biện pháp bắt người đang bị truy nã ở một số nước 40
Chương 2:
Những quy định của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự NĂM
2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã Và Thực
Tiễn áp dụng

45
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện

pháp bắt người đang bị truy nã
45

5

2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã 54
2.2.1.

Tình hình tội phạm 54
2.2.2.

Tình hình tội phạm bỏ trốn 55
2.2.3.

Kết quả bắt người đang bị truy nã 56
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã và nguyên nhân
63
2.3.1.

Những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng biện pháp
bắt người đang bị truy nã
63
2.3.2.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên 85
Chương 3:
một số kiến nghị VÀ Giải pháp NHằM nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật
tố tụng hình sự việt nam


89
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về bắt người đang bị truy nã và nâng cao hiệu
quả áp dụng
89
3.1.1.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp
89
3.1.2.

Nhu cầu bảo vệ quyền con người 91
3.1.3.

Đòi hỏi nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm,
tình hình tội phạm phức tạp bỏ trốn
92
3.2. Những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật
93
3.2.1.

Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bắt người đang bị truy nã

94
3.2.2.


Những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong Bộ luật hình
sự
102
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về bắt người đang bị truy
103

6


3.3.1.

Tăng cường công tác giải thích pháp luật của cơ quan chức
năng
103
3.3.2.

Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo
đức của chủ thể áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã

105
3.3.3.

Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc chủ động ngăn chặn tình trạng người phạm
tội lẩn trốn, hạn chế đầu vào
108
3.3.4
.
Xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm

trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã

111
3.3.5.

Tăng cường mối quan hệ phối hợp, trao đổi giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức hữu
quan

112
3.3.6.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
hoạt động bắt người đang bị truy nã

115
3.3.7.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phát động phong trào
quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và bắt giữ người
đang bị truy nã

116
3.3.8.

Đẩy mạnh việc vận động người đang bị truy nã ra đầu thú

117
3.3.9.


Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bắt người đang
bị truy nã

118

KẾT LUẬN
120

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122


7




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC : Biện pháp ngăn chặn
CQĐT : Cơ quan điều tra
NCTN : Người chưa thành niên
QĐTN : Quyết định truy nã
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS : Tố tụng hình sự
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao



8




DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số liệu về đối tượng truy nã phát sinh theo từng năm 58
2.2 Số vụ, bị cáo bị Tòa án xét xử về tội trốn khỏi nơi giam
giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử từ năm
2006 - 2010
59
2.3 Số liệu kết quả xử lý đối tượng truy nã đã bị bắt và vận
động đầu thú
60
2.4 Số liệu các trường hợp trốn 76
2.5 Số liệu các trường hợp trốn do thay đổi biện pháp ngăn
chặn
83


9

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Bản chất của người phạm tội là luôn tìm cách lẩn trốn hòng thoát khỏi

sự trừng trị của pháp luật. Vì thế việc tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội bỏ
trốn luôn là một yêu cầu khách quan, một nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Nếu người phạm tội còn lẩn trốn, chẳng những pháp
luật không được thi hành, mà quan trọng hơn các đối tượng này vẫn có thể
tiếp tục hoạt động phạm tội và gây ra tội ác cho xã hội. Việc tìm kiếm, bắt giữ
lại người có hành vi phạm tội đang lẩn trốn có cơ sở xuất phát từ nguyên tắc:
đã phạm tội thì không tránh khỏi bị trừng trị. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ
rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt đó phải
nặng mà vấn đề cơ bản ở chỗ không một kẻ phạm tội nào không bị trừng trị,
không một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện ra" [24].
Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm lẩn trốn nói riêng
ở nước ta và nhiều nước trên thế giới vẫn diễn biến phức tạp. Do những
nguyên nhân khác nhau mà mỗi năm trong cả nước có hàng ngàn người phạm
tội lẩn trốn phải ra quyết định truy nã (QĐTN) và số đối tượng chưa bắt được
cũng còn khá nhiều. Điều này gây ra những khó khăn cho các cơ quan thi
hành pháp luật trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Tuy nhiên thực tiễn pháp luật về biện pháp ngăn chặn (BPNC) bắt
người nói chung và bắt người đang bị truy nã nói riêng vẫn còn những hạn
chế, bất cập như các quy định của pháp luật hiện hành về truy nã không đầy
đủ, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
chống tội phạm thể hiện như: quy định về đối tượng truy nã, trình tự, thủ tục,
phạm vi truy nã, việc áp dụng các BPNC sau khi truy bắt được đối tượng truy
nã dẫn đến chất lượng và hiệu quả của BPNC không đạt được. Trước tình

10
hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài: "Biện pháp bắt người
đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong khoa học pháp lý, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về BPNC nói chung và biện pháp bắt người
nói riêng như: Nguyễn Vạn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và
những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự -
Những vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê
Cảm (2005), "Sự bất đắc dĩ phải gây thiệt hại để bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã", Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội; Mai Bộ (2006), Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân; Ban chỉ
đạo Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm - Bộ Công an (2002), Công
tác truy nã - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội; Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
Tuy nhiên qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
các luận án, các bài báo khoa học cho thấy, hầu hết đó là các công trình
nghiên cứu cơ bản về các BPNC nói chung, còn đối với chế định bắt người
đang bị truy nã, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách đúng
mức. Những nghiên cứu về biện pháp bắt người đang bị truy nã chỉ dừng lại ở
những công trình nghiên cứu đơn lẻ chuyên ngành của cơ quan Công an là
chủ yếu hoặc là một phần nội dung của biện pháp bắt người nói chung. Có thể

11
nói hiện nay ở Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và
sâu sắc về biện pháp bắt người đang bị truy nã dưới góc độ lý luận và thực
tiễn áp dụng. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn
áp dụng những quy định về biện pháp bắt người đang bị truy nã chưa được
phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người đang bị
truy nã trong luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích pháp luật Việt Nam quy định về biện pháp bắt
người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế
của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã và những
nguyên nhân của nó.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để có thể đạt được mục đích nêu trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập
trung vào những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề chung dưới góc độ lý luận và pháp lý
để làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, đặc điểm của biện pháp
bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực trạng áp dụng biện pháp bắt
người đang bị truy nã qua đó đưa ra những nhận xét về ưu điểm và những tồn
tại của biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;
+ Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong
luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới.

12
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh
phòng, chống tội phạm;
- Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực

tiễn, thống kê nhờ vậy những vấn đề liên quan tới biện pháp bắt người đang
bị truy nã được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính
đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua
công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện
pháp luật TTHS. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học
luật TTHS, tội phạm học và cán bộ làm công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp
luật
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam.
Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về chế định bắt người
đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam;

13
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
biện pháp bắt người đang bị truy nã trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
Việt Nam hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật
về biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật TTHS Việt Nam; nêu ra
những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong thực tiễn áp dụng
pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở
đó, luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật TTHS về BPNC bắt người đang bị
truy nã.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp bắt người đang bị truy
nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về
biện pháp bắt người đang bị truy nã và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm phần nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam.

14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn và biện pháp bắt người
1.1.1.1. Quan niệm về biện pháp ngăn chặn
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là quan điểm cơ bản
của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên khi có hành vi đi ngược lại với lợi ích
của xã hội, lợi ích của nhà nước, nhà nước ta cũng cho phép áp dụng các biện
pháp cưỡng chế cần thiết để hạn chế quyền và lợi ích của chủ thể thực hiện
hành vi đó. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà trái lại nó còn góp phần bảo vệ
được lợi ích của cộng đồng, của xã hội, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ kinh
tế - xã hội của đất nước.
Nhằm mục đích ngăn chặn và phòng ngừa việc không thực hiện các
nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, pháp luật cho phép Cơ quan điều

tra (CQĐT), Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng đối với những người đó các
biện pháp cưỡng chế TTHS.
Các biện pháp cưỡng chế TTHS có khác nhau về tính chất và chức năng.
Một số biện pháp cưỡng chế TTHS chỉ được áp dụng trong những trường hợp
một người thực hiện những vi phạm pháp luật nhất định. Chẳng hạn trong khi
tiến hành xét xử, Tòa án có thể áp dụng biện pháp buộc những người vi phạm
trật tự phiên tòa rời khỏi phòng xử án hoặc phạt tiền đối với họ. Biện pháp
cưỡng chế này là những biện pháp trách nhiệm tố tụng.

15
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, BLTTHS của Nhà nước ta đã quy định hàng loạt các biện pháp cưỡng
chế khác nhau nhằm những mục đích tố tụng nhất định. "Biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự bao gồm các biện pháp được luật tố tụng hình sự quy
định, do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố
tụng nhất định" [42].
Căn cứ vào mục đích của chúng, có thể chia thành ba nhóm sau:
- Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa người có hành vi phạm tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá
trình giải quyết vụ án như: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
- Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập và ghi
nhận chứng cứ như: Khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc,
khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể ;
- Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi cho quá trình tiến
hành tố tụng được diễn ra bình thường và thuận lợi như: Kê biên tài sản, áp
giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện
pháp xử lý do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi
vi phạm nội quy phiên tòa [41].
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế nêu trên thì BPNC là một

chế định pháp lý quan trọng. Toàn bộ quy phạm pháp luật xác định cơ sở,
mục đích của các BPNC, các loại BPNC cụ thể, trình tự áp dụng, thay thế và
hủy bỏ chúng cũng như những bảo đảm pháp chế trong việc áp dụng các biện
pháp này hợp thành một chế định pháp luật TTHS - những BPNC.
Chức năng của chế định pháp luật này được thể hiện trong việc điều
chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh khi cần thiết phải hạn chế tự do của bị
can, bị cáo nhằm ngăn ngừa khả năng tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh
việc điều tra, xét xử, cản trở việc xác định sự thật về vụ án hình sự của họ. Áp

16
dụng các BPNC không thể loại trừ hoàn toàn nhưng có thể hạn chế một cách
có hiệu quả khả năng thực hiện các hành vi nói trên của bị can, bị cáo.
BLTTHS dành một chương riêng trong phần Những quy định chung
nói về BPNC, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với việc sử
dụng các biện pháp này trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Nhìn lại công
tác lập pháp trong mấy chục năm qua cho thấy, những quy định của pháp luật
TTHS về các BPNC luôn có sự thay đổi, phát triển cùng với sự phát triển đi
lên của nhà nước và xã hội Việt Nam. Đó là một hiện tượng hợp quy luật.
Trong lịch sử phát triển của luật TTHS Việt Nam, nội dung và các loại BPNC
có sự thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện.
Vậy thế nào là BPNC trong TTHS? Trong pháp luật thực định chưa có
một khái niệm pháp lý về BPNC rõ ràng. Cho nên trong các tài liệu, sách báo
Việt Nam các học giả đã có những khái niệm khác nhau về các BPNC.
Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách
pháp lý" Matxcơva năm 1973 thì:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng
hình sự do Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp
dụng đối với bị can (người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng
bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc hoặc trốn tránh Tòa án,
cản trở việc xác minh sự thật về vụ án hay sẽ tiếp tục hoạt động

phạm tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [1].
Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Khoa Luật trường Đại học
khoa học xã hội và nhân văn cho rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng
hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và
người cần bắt trong trường hợp khẩn cấp để kịp thời ngăn chặn tội
phạm của họ, ngăn chặn những người đó gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [23].

17
Cuốn Giáo trình Luật TTHS Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội
thì:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng
hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với
những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành
động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự [41].
Còn theo cuốn "Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự"
thì BPNC là một loạt biện pháp do CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng
đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết
án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội [42].
Có thể thấy các khái niệm trên chỉ phản ánh được phần nào của
BPNC. Nhằm xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh trong đó bao hàm những
dấu hiệu đặc trưng như mục đích áp dụng, thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp
dụng, căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó hiểu và vận dụng đúng đắn trong
thực tiễn. Vì vậy, có thể hiểu rằng:
BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS do các chủ thể có

thẩm quyền được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố
khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm ngăn chặn kịp thời những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự. BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Tóm lại, các BPNC là những biện pháp được áp dụng để ngăn ngừa bị
can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm

18
tội. Chúng không phải là những biện pháp trừng trị, trấn áp bị can, bị cáo
hoặc được áp dụng để răn đe người khác, bởi vì chúng không phải là hình
phạt. Về bản chất pháp lý, các BPNC trong luật TTHS có tính phòng ngừa,
được áp dụng để chặn đứng hoặc ngăn ngừa hành vi phạm tội cũng như hành
vi trốn tránh pháp luật của bị can, bị cáo. Áp dụng đúng đắn và kịp thời các
BPNC tạo điều kiện cho việc giải quyết đúng đắn và có kết quả các nhiệm vụ
của TTHS. Ý nghĩa trực tiếp của chúng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm
rõ sự thật của vụ án hình sự, bảo đảm thực hiện nguyên tắc người có tội phải
chịu trách nhiệm hình sự và ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Việc
quy định những BPNC trong BLTTHS góp phần tích cực vào việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo
đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của
công dân được Hiến pháp ghi nhận, không để một công dân nào bị hạn chế
các quyền công dân, bị bắt, bị giam, giữ một cách trái pháp luật.
1.1.1.2. Quan niệm về biện pháp bắt người
Biện pháp bắt người có một vị trí quan trọng trong số những BPNC
mà BLTTHS quy định, bởi lẽ đây là BPNC có tính chất cưỡng chế rất nghiêm
khắc, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các quyền cơ bản của công dân được
Hiến pháp quy định. Đây là cơ sở pháp lý để nhận thức quyền bất khả về thân

thể của công dân có thể bị tác động trong những trường hợp cần thiết do yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống tội phạm và trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Bắt người trong TTHS là việc bắt người phạm tội theo các quy định
của pháp luật TTHS. Bắt người trong trường hợp này do chủ thể sử dụng
quyền lực nhà nước nhằm đạt được mục đích tố tụng.
Theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa thì:
Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn mà Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ

19
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi thấy cần thiết để đảm bảo thi
hành án [48].
Trong giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội thì:
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với
người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi
phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
[41].

Có thể thấy, cả hai cách hiểu như trên về bắt người trong TTHS là
chưa đầy đủ. Theo cách hiểu thứ nhất chưa bao hàm hết mục đích, phạm vi
đối tượng áp dụng của biện pháp này đồng thời cũng không xác định thẩm
quyền quyết định áp dụng, thẩm quyền bắt, không phù hợp với tinh thần các
Điều 79, 80, 81, 82 BLTTHS. Còn theo cách hiểu thứ hai cũng chưa xác định
được thẩm quyền quyết định bắt. Theo tôi, khái niệm bắt người trong Luật
TTHS phải thể hiện đầy đủ bản chất, nội dung, căn cứ áp dụng, mục đích,

thẩm quyền áp dụng, phạm vi áp dụng, đối tượng áp dụng biện pháp này. Với
quan niệm nêu trên, tôi xin đưa ra khái niệm bắt người trong TTHS như sau:
Bắt người là một BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền quyết
định áp dụng và thực hiện theo trình tự tố tụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối
với người chưa bị khởi tố về hình sự khi có đầy đủ căn cứ theo luật định,
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa không để họ tiếp tục phạm tội,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm việc
thi hành án.

20
Bắt người cũng như các BPNC khác đều là những biện pháp cưỡng
chế tố tụng được thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước, luôn gắn
liền với sự tác động và hạn chế các quyền tự do cá nhân của đối tượng bị áp
dụng trong TTHS nhằm mục đích chung là ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa
người phạm tội trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc tiếp tục phạm tội. Do đó
khi thực hiện quyết định bắt cần phải có sự cân nhắc hết sức thận trọng, tuân
thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm
quyền. Với biện pháp này, buộc người bị bắt phải có mặt tại địa điểm quy
định để làm việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Biện pháp bắt
người được tính từ thời điểm người có chức vụ theo luật định ra lệnh bắt đến
khi kết thúc là người bị bắt được dẫn giải đến nơi để tạm giữ, tạm giam.
Biện pháp bắt người luôn có quan hệ tác động qua lại với các BPNC
khác. Trong mối quan hệ với các BPNC khác, bắt người thường là tiền đề cho
việc áp dụng các BPNC khác. Ở phương diện quan hệ này có thể nói trong
luật TTHS nếu xác định bắt người là BPNC độc lập có lẽ cũng chỉ nhằm xác
định ranh giới về mặt hình thức của sự tác động đến các quyền tự do cá nhân
của đối tượng bị áp dụng BPNC mà thôi. Nếu nghiên cứu đầy đủ, cụ thể các
quy định của BLTTHS về các BPNC như đối tượng, căn cứ, mục đích cụ thể
của việc áp dụng, chúng ta có thể đưa ra một kết luận chắc chắn rằng sẽ

không có bắt người độc lập (bắt chỉ để bắt) mà thường gắn với một mục đích
nhất định nào đó, từ đó cho thấy bắt người thường là BPNC đi liền trước hoặc
là tiền đề cho việc áp dụng BPNC khác.
Việc quy định biện pháp bắt người trong TTHS thể hiện đường lối,
chính sách của Nhà nước ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội. Bắt
người cùng với các BPNC khác góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội
bằng pháp luật, là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân trong

21
những trường hợp cần thiết, nhằm mục đích của TTHS. Mặt khác, việc quy
định biện pháp bắt người còn thể hiện thái độ kiên quyết, triệt để của Nhà
nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Quy định và áp dụng biện pháp bắt người có ý nghĩa rất lớn trong thực
tiễn. Việc bắt người sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố
tụng giải quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một
cách chính xác, nhanh chóng. Thông thường khi thực hiện tội phạm hoặc
ngay cả trường hợp đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, người phạm tội đã ít
nhiều nhận thức được những hậu quả mà mình phải gánh chịu, do vậy họ thư-
ờng tính toán những phương án cần thiết để trốn tránh pháp luật hoặc gây khó
khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm mà họ thực hiện. Việc bắt các đối t-
ượng này để hạn chế tự do của họ, làm rõ hành vi phạm tội của họ một cách
khách quan là cần thiết và trong nhiều trường hợp là cấp bách không thể trì
hoãn (trường hợp phạm tội quả tang, khẩn cấp), nó giúp cơ quan có thẩm
quyền không chỉ kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi
phạm tội bỏ trốn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án.
Việc quy định một cách cụ thể, rõ ràng các trường hợp bắt người về
đối tượng, thẩm quyền, căn cứ, thủ tục bắt là cơ sở pháp lý vững chắc để xử
lý hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp bắt người. Việc bắt người

hầu hết đều do người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện,
các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp này là những quy định có tính
chất lựa chọn, tức là chỉ áp dụng trong những trường hợp cần thiết, không
phải là biện pháp bắt buộc đối với tất cả tội phạm. Việc bắt người trong thực
tế không chỉ là đòi hỏi của công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự, liên quan trực tiếp đến đối tượng bị áp dụng mà còn ảnh hưởng đến tình
hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc áp dụng BPNC này là một
việc rất phức tạp và hệ trọng. Do đó, để đảm bảo được hiệu quả cao nhất, bảo

22
đảm được sự đồng tình của dư luận xã hội, tạo được niềm tin của quần chúng
nhân dân vào tính đúng đắn của việc áp dụng biện pháp này, việc bắt người
trong TTHS phải được xem xét, cân nhắc, đánh giá một cách thận trọng, đầy
đủ. Khi áp dụng phải đảm bảo được các yêu cầu về chính trị, pháp luật và
nghiệp vụ.
Bắt người đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội
cũng như hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho tiến trình giải quyết
vụ án hình sự, bảo đảm việc thực thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Ngược lại bắt người không đúng pháp luật (không đúng căn cứ áp, thủ
tục, trình tự, thẩm quyền, bắt nhầm, bắt oan, bắt sai ) sẽ gây tác hại to lớn
đến nhiều mặt, không những xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân mà
còn làm giảm uy tín của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây
hoang mang trong dư luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và
ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống phá lại Nhà nước ta.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng to lớn của việc bắt người nêu trên nên
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật TTHS quy định chi
tiết về vấn đề này. Quá trình tổ chức thực hiện các văn bản trên đây đã phát huy
được tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định nói trên trong một thời gian dài mà ít

có sự thay đổi đã không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc do sự thay đổi
của tình hình kinh tế - xã hội và những diễn biến phức tạp của tình hình tội
phạm. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các
quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, nhất là quy định
của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba trường hợp bắt
người sau:

23
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Với ba trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc
trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng.
Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định
đối với người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các trường hợp này còn phải vận
dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC cũng như áp
dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng các biện
pháp bắt cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ trương, đường lối
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây dựng và phát triển nền
kinh tế - xã hội của đất nước ta.
1.1.2. Biện pháp bắt người đang bị truy nã
1.1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt người đang bị truy nã
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, với phương châm "không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội", các cơ quan và người có thẩm quyền theo
quy định của BLTTHS được phép áp dụng BPNC quy định tại Điều 79
BLTTHS. Nội dung của điều luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bắt

người trong đó có trường hợp bắt người đang bị truy nã.
Mặc dù Điều 82 BLTTHS quy định tương đối đầy đủ việc bắt người
đang bị truy nã nhưng không giải thích thế nào là bắt người đang bị truy nã.
Về lịch sử, truy nã là một tập quán phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
xuất phát từ yêu cầu bảo vệ cuộc sống yên ổn của cộng đồng và trừng trị kẻ
gây ra tội ác. Truy nã tội phạm từ lâu đã gắn liền và trở thành một bộ phận
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm ở nước ta. Tuy vậy do nhiều

24
nguyên nhân khác nhau, vấn đề pháp lý và lý luận còn nhiều hạn chế, chưa
tương xứng với tầm quan trọng mà BPNC này mang lại. Do vậy, việc tìm
hiểu, làm sáng tỏ bản chất khái niệm truy nã tội phạm đang đặt ra trước yêu
cầu hoàn thiện lý luận về truy nã tội phạm.
Bằng cách hiểu thông thường, truy nã tội phạm được coi là hoạt động
"Truy lùng, dò theo để bắt" [51]. Với quan niệm này, truy nã tội phạm được
coi như việc truy đuổi, tìm kiếm, tầm nã để bắt những kẻ gian phi không để
chúng trốn thoát. Như vậy, ý tưởng ban đầu về truy nã tội phạm có ý nghĩa là
những hành vi tự vệ, có tính tự phát của cộng đồng mà chưa phản ánh tính
pháp lý với tính chất là một hoạt động thực thi quyền lực nhà nước để bắt giữ
người phạm tội. Hiện nay pháp luật nhiều nước trên thế giới và kể cả ở nước
ta cho phép bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ người đang bị truy nã đều
bắt nguồn từ quan niệm, tập quán đó.
Cùng với những tiến bộ của văn minh nhân loại và sự phát triển của
khoa học pháp lý, truy nã tội phạm đã dần trở thành vấn đề pháp lý gắn với
hoạt động bảo vệ pháp luật của những cơ quan chức năng. Với quan điểm nêu
trên, các nhà nghiên cứu cũng đã xuất phát từ lý luận pháp lý, khoa học điều
tra tội phạm để xây dựng nên những khái niệm về truy nã tội phạm ngày càng
chính xác hơn.
Theo Từ điển Luật học thì:
Truy nã tội phạm là hoạt động tố tụng hình sự - nghiệp vụ

của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm nhằm phát hiện, tìm kiếm, bắt giữ người có hành vi phạm tội
đang lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù hoặc tử
hình [48].

25
Theo Từ điển nghiệp vụ phổ thông: "Truy nã tội phạm là tìm bắt kẻ
phạm tội đang lẩn trốn mà chưa biết kẻ đó trốn ở đâu theo lệnh truy nã của cơ
quan có thẩm quyền" [44].
Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì:
Truy nã tội phạm là truy bắt người phạm tội đang lẩn trốn
theo quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Truy nã tội
phạm là một hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, được thực
hiện bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp công tác, nhằm phát
hiện, bắt giữ bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù hoặc tử hình,
phạm nhân đang lẩn trốn phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án [43].
Còn theo tác giả Đỗ Hùng thì "Truy nã tội phạm là một hoạt động nghiệp
vụ pháp lý rất quan trọng và là một bộ phận không thể thiếu được trong cuộc
đấu tranh chống tội phạm nhằm phát hiện, bắt giữ người phạm tội bỏ trốn,
phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án phạt tù"
[21].
Trong Giáo trình truy nã - truy tìm của trường Đại học Cảnh sát nhân
dân thì: "Truy nã tội phạm là một công tác nghiệp vụ của cơ quan Công an
được tiến hành bằng mọi biện pháp cần thiết nhằm bắt lại những kẻ đang trốn
tránh pháp luật theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền" [40].
Theo Giáo trình Luật TTHS, trường Đại học Luật Hà Nội thì: "Người
đang có lệnh truy nã là người thực hiện hành vi phạm tội đã có lệnh bắt hoặc
đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang thi hành án phạt tù tại trại giam thì

bỏ trốn" [41].
Mỗi quan niệm nêu trên tuy có chứa đựng một số yếu tố của BPNC
bắt người đang bị truy nã nhưng chưa thể hiện tập trung, đầy đủ nhất những
yếu tố cấu thành, đặc trưng và tính chất của BPNC này. Nhằm hoàn thiện lý

×