Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Chính sách tỷ giá Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.75 KB, 55 trang )

Lời mở đầu.
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô
quan trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa
USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua
cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Nó ra đời từ hoạt động
ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán
cân thương mại cán cân thanh toán của mỗi quốc gia.Ở Việt Nam, TGHĐ
không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia,
thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin
của dân chúng. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ giá thích
hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp. Nghiên cứu vấn đề này là một
đề tài mang tính cấp thiết trong thời gian gần đây.
Thực trạng điều hành tỷ giá ở Việt Nam thời gian qua đã dặt ra một số
vấn đề:
Một là, có thể điều chỉnh TGHĐ theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trong
bối cảnh một số nước Châu Âu đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, còn
Trung quốc lại nâng giá đồng nhân dân tệ?
Hai là, Để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thì xử lý
TGHĐ có phải là biện pháp hữu hiệu?
Ba là, có khắc phục được yếu tố kỳ vọng VND mất giá?
Nhận thức được tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong tổng thể
chính sách tài chính – tiền tệ của chính phủ trong suốt thời gian qua, Khái
quát sự đổi mới hệ thống tài chính trên lĩnh vực tỷ giá nhằm làm sáng tỏ
những ưu nhược điểm để từ đó có những điều chỉnh thích hợp. Góp phần
vào những nghiên cứu, phân tích, trong bài tiểu luận này em cũng xin được
trình bày về một vấn đề đa dạng, phức tạp và cũng vô cùng quan trọng này
thông qua đề tài: “chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay”. Với kiến thức
còn nhiều thiếu sót, cơ sở số liệu thống kê không đầy đủ và tính phức tạp
của đề tài nên trong bài viết không tránh khỏi khiếm khuyết rất mong được
sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI


I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ SỰ HÌNH THÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái:
Ngày nay trong quan hệ thanh toán quốc tế hầu hết các nước, các tổ
chức, cá nhân đều sử dụng ngoại tệ. Việc quy đổi đồng tiền nước này sang
đồng tiền nước khác được gọi là hối đoái quốc tế. Khi thực hiện quy đổi một
đồng tiền nước này ra đồng tiền nước khác phải theo một tỷ lệ nhất định,
được gọi là tỷ giá hối đoái.
Về hình thức, tỷ giá là giá cả của một đồng tiền của nước này được
biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ biến đổi của nước khác.
Về bản chất, tỷ giá là quan hệ về mặt giá trị giữa các đồng tiền khác
nhau với nhau, phản ánh về sự so sánh về sức mua của các đồng tiền đó.
Ví dụ:
- Tỷ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng Việt Nam như sau:
USD/VNĐ=19.000 có nghĩa là 1 USD = 19.000 VNĐ.
- Tỷ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng mác Đức như sau:
USD/DEM=1.8125 có nghĩa là 1 USD = 1.8125 DEM.
Thông thường, thuật ngữ "Tỷ giá hối đoái" được ngầm hiểu là số
lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở
Mỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần
thiết để mua một đồng USD hoặc đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (e
n
): đây là tỷ giá hôí đoái được biết đến
nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng hàng ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (e
r
) được xác định e
r

= e
n
* P
n
/P
f

Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm
phát giữa các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một
nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
a- Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các
nước khác mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước
xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị
trường ngoại hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống
dốc phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng
hoá của nước ấy càng trở lên đắt hơn đối với những người nước ngoài và ít
hàng hoá xuất khẩu hơn
b- Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B họ
phải mua một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A để
trả. Lượng tiền này của nước A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên
trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ
và hàng hoá ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng thị

trường của cung và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền hoặc
làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Bất
kỳ cái gì làm giảm cầu về một đồng tiền hoặc làm tăng cung đồng tiền ấy
trên các thị trường ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi của nó
giảm xuống ở hình vẽ dưới, ta thấy được tỷ gía hối đoái cân bằng L
o
của
đồng Việt Nam và đồng USD Mỹ thông qua giao điểm S và D.
L USD
Đ
S
Lo
Qo D Q(đ)
3. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh
nào đó của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do
vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá
khác nhau:
a- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra
làm hai loại
-Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư (mail transfen M/T)
b- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành
trên cơ sở ngang giá vàng.
- Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ
cung cầu qui định .

- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà
nước không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào
đó.
c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu
có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc
chuyển khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản
qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại
hối bằng tiền mặt.
d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán
ngoại hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán
ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp
đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
e- Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng
-Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giá nhận
chúng sẽ được thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc.
-Tỷ giá giao nhận có kì hạn: là tỷ giá là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà
việc giao nhận chúng được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định.
Tỷ giá giao nhận ngay và tỷ giá giao nhận có kì hạn được công bố
theo hình thức mua vào, bán ra như sau:

- Tỷ giá mua vào: là tỷ giá tại đó ngân hàng niêm yết sẵn giá mua vào
đồng tiền yết giá.
- Tỷ giá bán ra: là tỷ giá mà tại đó ngân hàng niêm yết sẵn giá bán ra
đồng tiền yết giá.
II- NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1- Cung cầu về ngoại tệ:
Như chúng ta đã biết, đối với cung của một loại hàng hoá bất kỳ nào
thì sự thay đổi cung của hàng hoá đó luôn chịu giới hạn nhất định nhưng
cung của tiền có thể tăng đến vô hạn. Ngược lại cầu hàng hoá phụ thuộc vào
nhu cầu sử dụng, tích trữ, đầu cơ nên chúng ta có thể lượng ước được và tính
toán được lượng cầu hàng hoá nhưng đối với tiền thì không, cầu tiền là vô
hạn. Vì lẽ đó cung cầu ngoại tệ thường xuyên thay đổi và không có giới hạn
cho sự thay đổi đó. Khi cung ngoại tệ vượt quá cầu ngoại tệ ngay lập tức giá
ngoại tệ sẽ giảm xuống, ngược lại khi cầu ngoại tệ vượt quá cung ngoại tệ
thì giá ngoại tệ sẽ tăng lên và dẫn đến tỷ giá sẽ thay đổi. Như vậy mọi sự
biến đổi của cung ngoại tệ khác với sự biến đổi của cầu ngoại tệ đều tác
động mạnh TGHĐ.
2- Chính sách thương mại:
Hiện nay, trong điều kiện hội nhập, hầu hết các nước trên thế giới đều
có quan hệ giao lưu với nhau về kinh tế. Và để thuận lợi trong quan hệ này,
các nước thường đặt ra các chính sách thương mại. Có nhiều chính sách
thương mại khác nhau với nhiều tác động khác nhau và nhằm nhiều mục
đích khác nhau nhưng chắc chắn một điều chính sách thương mại có tác
động đến tỷ giá. Cụ thể, khi thực hiện chính sách thương mại có tác dụng
làm giảm thuế quan sẽ khiến nhập khẩu hàng hoá tăng làm cầu về ngoại tệ
tăng theo dẫn đến giá trị đồng ngoại tệ tăng lên và khiến tỷ giá thay đổi. Hay
khi nhà nước thực hiện chính sách thương mại có tác dụng làm tăng thuế
quan thì sẽ có tác động ngược lại làm giảm nhập khẩu hàng hoá nước ngoài
nên cầu về ngoại tệ giảm xuống do đó giá trị ngoại tệ giảm làm tỷ giá thay
đổi.

3- Năng suất lao động của các nước:
Do tỷ giá hối đoái phản ánh mối tương quan đồng giá sức mua của các
đồng tiền, nên dễ dàng so sánh giá cả của thị trường nội địa và thị trường thế
giới. Từ đó sẽ có thể thấy được tình trạng năng suất lao động của mỗi quốc
gia hay nói cách khác tỷ giá và năng suất lao động có mối liên hệ với nhau.
Ví dụ: Trung Quốc có năng suất lao động cao hơn Việt Nam vì vậy
hàng hoá Trung Quốc rẻ dẫn đến cầu nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc của
Việt Nam tăng mạnh khiến cho cầu về Nhân Dân tệ cũng tăng theo. Lúc này
giá trị của đồng Nhân Dân tệ cũng tăng và được định giá cao hơn so với
đồng Việt Nam .
Như vậy chúng ta có thể đi đến kết luận rằng những nước có năng
suất lao động cao thì đồng tiền của nước đó sẽ được định giá cao và tỷ giá sẽ
tăng cao đối với đồng tiền nước đó khi năng suất lao động ngày càng tăng.
4- Lợi tức kỳ vọng:
Lợi tức kỳ vọng ở nước nào cao thì luồng tiền sẽ chảy từ nước ngoài
vào nhiều, làm cung ngoại tệ tăng kết quả là đồng ngoại tệ xuống giá và
đồng nội tệ lên giá và sẽ khiến tỷ giá thay đổi.
Ngoài ra, lạm phát bao giờ cũng làm giảm lợi tức kỳ vọng. Khi có lạm
phát, giá cả sẽ tăng cao, đồng nội tệ bị sụt giá so với ngoại tệ, tức làm tăng tỷ
giá.
5-Tâm lý của công chúng: Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng
và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị
trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên
thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn
cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ
hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi
ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô
đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ
rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có
tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm

hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ
giảm nhanh chóng.
Ngược lại nếu nhân dân có tâm lý thích dùng hàng hoá ngoại nhập,
sùng bái ngoại tệ đặc biệt là đồng đôla Mĩ đã làm cầu về ngoại tệ tăng dẫn
đến làm tăng giá trị đồng ngoại tệ và kết quả là tỷ giá tăng lên.
Ngoài các yếu tố chính trên còn rất nhiều các yếu tố khác tác động
đến tỷ giá như khủng hoảng tài chính, giá dầu trên thế giới, các chính sách
của nhà nước
III- TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN NỀN KINH TẾ
Thực trạng tác động của tỷ giá đối với các lĩnh vực tài chính,
ngân sách thời gian qua.
a-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi
ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán
nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian tương
đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên
thị trường và tình hình sức mua của đồng tiền tính chung thời kỳ 1985-1988,
1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND,
trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu
giữu mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất
khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất
khẩu của năm 1987 là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng Rúp 500
triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900
tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao nhiều hàng xuất khẩu để
thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng phải bù lỗ nhiều.
Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong việc thanh toán thì
công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng và càng thiếu vốn để
tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về
nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân
với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và 225VND/USD

nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật
tư, nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà nước lại
không thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ
trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn
để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì
mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều
hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất
khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ,
thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa
vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ
không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức
đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền tài
khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc
sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá của
thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên
thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà
nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng
thời nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội
tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho
thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà
nước qui định không tính đến biến động giá trên thị trường đang bị trượt ngã
nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ hàng xuất khẩu trong ngân sách
quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý ngân sách và thực
hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ bị rối
loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân
sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản
cấp phát của ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt

động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam
so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy
xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất
khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập
siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các
doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế
lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng.
Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp
cũng được tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình
đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà
nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù
lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá
thị trường. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các
ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây
dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng
5%) so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị
trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung
thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công
tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận
lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và
quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt
đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã
khiến cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng
với mức độ tăng của cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi

ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa được tăng cường.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn
định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân
sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị
trường, điều hành Ngân sách Nhà nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là
trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết.
b- Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý
nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92
triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại
tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159
triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về
trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương
125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá,
1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua
sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra
USD, làm thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động
mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989-
1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả
với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130
Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD.
Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc
vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền
vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong
đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn
theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh
nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên

tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị
giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý
nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã
hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng
có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương lai,
có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân
công quyền trước các khỏan vay và khoản trả nợ. Hiện nay, chúng ta có qui
định Nhà nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà
nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào
cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ,
đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh
nghiệp sẽ phải tăng, nhưng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một
bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh
tế có bù lại được thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp
phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay,
không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc
trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay.
Phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm
việc nghĩa. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi ích
của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghcỉ quy định trách nhệm
mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầu
tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm
quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý

tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải
được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho chính phủ
và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và
sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách không
phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết các vấn
đè của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án
ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân sách
để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời
điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực
tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện
trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý
vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân
vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới
nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước
cũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền
kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó
liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng của cán
cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong
tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình
thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lược to lớn.
c- Thực trạng tác động của tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính
phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều
chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối
lượng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi
suất, trong trường hợp này làm tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy

động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh giảm mức lãi
suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ,
nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kihn doanh sẽ bán
ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu
chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất -
kinh doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán lãi suất về huy
động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nước châu Á (như Malaixia, Thái
Lan, Indonexia) cho thấy việc xử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ
giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ được biên độ ổn định và tiền tệ không có
biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu
hướng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng
ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt
nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với
mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu
quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam
cho thấy, tình hình tài chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và
chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một
mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là
một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án điều
chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng
hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua
nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt
vấn đề lựa chọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm
nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành
của quốc gia.
d- Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nước đang phát triển thường thiết kế chính sách tỷ giá hối đoái
nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh

toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá được so
với các hàng hoá không thương mại hoá được; sự phá giá đồng thời chuyển
dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các hàng hoá không thương mại hoá
được, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá được, và do
đó giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá được (tức là cải thiện
được vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác động của chính sách chuyển đổi
chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối
lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa
tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh
tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khỏi điểm cân
bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này được xác địng nội sinh, chính sách tỷ
giá hối đoái cần lưu ý đến các tác động của các cơn sốc khác nhau lên điểm
cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau trong
việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác dộng của các cơn
sốc bên trong và bên ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào
chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung, có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng".
Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua
so sánh. Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng
tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của
mình, tức là đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như
vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá
giưã các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh
nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc sử
dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại
lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị
gốc của nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so
sánh sức mua cân bằng.

Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực
như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không
mậu dịch hoá được, nó đưa ra thước đo các động lực quyết định sự phân
phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội
địa của hàng hoá thương mại hoa so với hàng hoá không thương mại hoá
được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại
hoá và cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân
bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại
hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội
và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không
thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm
hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước
ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tànglên quan
đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu
gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện
của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước
và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cảu chênh lệch mức tăng năng suất,
thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều
hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên cân bằng
của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động
quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động
tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng
hoá không thương mại hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại
hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất của tiền lương trong cả hai khu vực. Với
giá hàng hoá thương mại hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái
thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ tăng
năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc về điều
kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá

tương đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với
hàng hoá không thương mại hoá và dư thừa cầu đối với hàng hoá thương
mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai
được điều chỉnh lại qua việc giảm giá tương đối của hàng hoá không thương
mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ hàng hoá
không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế
nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cânbằng. về phương
diện định tính thì tác động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải
thiện điều kiện ngoại thương (do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp
hơn sẽ giảm giá tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối
với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về
cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm.
Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực
sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách,
ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu
thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu
chính phủ cho hướng thành phần chi tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ
giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ
tác dộng tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của
hành vi đầu tư-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp
của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân sách tổng
thể, nhưng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm
cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy
định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ quy định.
Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của tỷ
giá hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá cố định thì
lãi xuất trong nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi xuất quốc tế, do
đó làm giảm chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân

vãng lai như vậy sẽ gây nên việc giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ
thuộc vào việc nước đó là chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu
đi phản ánh sự thay đổi tương ứng cảu sự thay đổi vị thế chuyển giao các
nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá thực cân
bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi xuất
quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu
chính phủ làm trung hoà tác động của ngân sách lên sự thay đổi lãi xuất
bằng cách giảm chi tiêu hàng hoá thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng
sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng
nếu việc trả lãi xuất được tài trợ bằng cách tăng thuế, hoặc nếu kèm theo
việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không thương mại hoá.
Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát:
Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một
số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của viêvj xấu đi sức cạnh
tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát
nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định.
Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện
quy tắc tỷ giá thực.
Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân
đối lớn và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng
ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh thường xuyên và
theo liều lượng tương đối nhỏ. Người ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế
có thể giữ được ở mức đúng đắn, không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả
cho nền kinh tế, và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên
chiến trường chính trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá
thực cung cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những người
tham gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng có thể xảy ra các giá
tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa trên các dự đoán
mong đợi sai lệch.
Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn đề

như: xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ dàng về lý thuyết,
chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn nghiêm trọng có thể phải
tính đến nếu đích tỷ gía đặt sai. Vì vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá
thực thf phải cho phép có một độ sai số so với điểm cân bằng của tỷ giá thực
do các cơn sốc bên ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời,
thì có thể kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớn sốc là lâu dài thì sự sai biệt
lớn của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức cạnh tranh
quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo
nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác động tốt
về mặt cân bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức là buộc phải theo
đuổi đích phần thực mà lại sử dụng các công cụ đại lượng danh nghĩa với giá
cả nội địa. Vì vậy các cơn sốc đối với lạm phát trong nước có thể mang tính
chất lâu dài, và trong một số trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía
cạnh khác, trong nền kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn
bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy ra ngay cả khi
chính sách tín dụng không bành chướng.
Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều chỉnh
tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền lương trong nền
kinh tế. Theo chính sách đó thì người lao động sẽ không quan tâm nhiều đến
tác động lên công ăn việc làm của việc định ra tiền lương danh nghĩa cao
hơn, vì các công ty có đủ khả năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang
giá cao hơn, vì vậy sự tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và
tăng giá cả tiếp tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các chính sách
hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động.
Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng sản phẩm sẽ tăng lên do
chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt cầu thóng trị thì các
chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định tổng sản phẩm.
Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực voà ổn định giá chỉ
mới bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu vấn đề bằng

cách sử dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với các giả thiết khác nhau
liên quan đến cơ cấu hàng hoá, tính cứng nhắc của giá lương, độ tự do lưu
chuyển vốn. Họ kết luận rằng: chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm
soát lạm phát nếu đặt tỷ giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau
đó lại tìm cách kiểm soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm soát diễn biễn
kinh tế vĩ mô khác, họ cũng lập luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng quá
mức so với điểm cân bằng thì lạm phát chắc chắn sẽ cao hơn.
Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan
chặt chẽ với nhau Lizondc (1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giưã in tiền do
thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu
bền của tỷ giá thực là hàm không chỉ biến thực nêu trên mà còn của tỷ lệ
lamj phát trong nước. Đại lượng sau quyết định tổng thu được của chính phủ
thông qua thuế lạm phát, đếnlượt nó lại tác động lên giá trị tài sản của tư
nhân và chi tiêu trong dài hạn, và do đó lên điểm cân bằng của tỷ giá thực.
Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài hạn, khi
các điều kiện khác không thay đổi. Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả
các đích tỷ giá thực là khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa
nền kinh tế đến đích, ngay như nếu đích đó là khả thi.
Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc
chấp nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng tỷ
lệ lạm phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạm phát
nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn
định. Trong một số trường hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đến phá giá
từng đợt, tiếp theo là "cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua.
Trong các nỗ lực lớn hơn, gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung cấp
một mốc neo danh nghĩa. Điều này cũng không kết luận rằng: gắn cố định
dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạm phát cao, nhưngnthực
tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng cao.
Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực, ví
dụ: tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì vậy

không phải lo lắng trước sự mất ổn định của giá nội địa.
Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn
đúng, thì tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra
có thể được kìm hãm bằng cách sử dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ
thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự xuất hiện biến động gây mất ổn định
của giá cả, ngay cả khi nếu tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức
cạnh tranh quốc tế. Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực
thì không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực, ngay
cả khi nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận
trọng. Gánh nặng của điều chỉnh ít nhất là một phần do các chính sách tài
chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ giá. Theo nghĩa đó thì
cần phải chú ý rằng các chính sách như vậy bản thân chúng có thể chịu tác
động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ đưa ra.
Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái
niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = ε.Po/P
Trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo gía thi trường nước ngoài.
P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng
nội tệ.
ε:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội
địa.
Với P và Po không đổi khi ε tăng , ε.Po sẽ tăng. Giá của sản phẩm
nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và
ngược lại, giá của sản phẩm trong nước trở nên rẻ, tương đối so với sản
phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do đó có khả năng cạnh tranh cao
hơn xuất khẩu sẽ tăng (X tăng), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm
cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng
lên làm cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng
lên tỷ lệ thất nghiệp giảm.
AD’
AD

Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối
đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động
đến sản lượng, việc làm giá cả.
Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở
đây có mối quan hệ giữa lãi xuất và tỷ giá hối đoái.
Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối
đoái của đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự
do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân
thương mại là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng dư.
Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến sự
cân bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến
sản lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính
vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn
phần lớn các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý
nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để
ổn định và phát triển nền kinh tế.
Q
*
Q
AS
SR
AS
LR
P

×