Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Các thuốc điều trị loét dạ dày - tá tràng ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.8 KB, 5 trang )

Các thuốc điều trị loét dạ dày
- tá tràng
Loét dạ dày-tá tràng là một bệnh phổ biến trong cộng
đồng. Có rất nhiều nguyên nhân gây loét như stress, vi
khuẩn H.Pylory, sự tăng tiết của acid dịch vị… Các
thuốc điều trị hiện nay bao gồm.
Các antacid (thuốc chống acid) như alusi, maalox,
gastropulgit: Các thuốc này thường chứa các muối nhôm
(hydroxyd, carbonat, phosphat), các muối magnesi
(hydroxyd, carbonat, trisilicat), có tác dụng trung hoà acid
dịch vị của dạ dày. Ưu điểm là tác dụng nhanh nên
thường dùng để cắt các cơn đau và giảm các triệu chứng
đầy bụng, khó tiêu nhưng thuốc lại có tác dụng ngắn
(thường chỉ kéo dài khoảng 3 giờ), gây nên nhiều tương
tác đối với các thuốc điều trị phối hợp nên không thuận
tiện cho điều trị.
Ví dụ: các hợp chất chứa nhôm thường gây táo bón, còn
loại chứa ma giê gây tiêu chảy (vì thế trong điều trị người
ta thường dùng chế phẩm phối hợp cả hai loại này), hợp
chất chứa nhôm dùng kéo dài gây xốp xương (do làm
giảm hàm lượng phosphat). Những hợp chất chứa nhôm,
can xi, ma giê dễ tạo phức với một số thuốc, điển hình là
kháng sinh nhóm cyclin, quinolon, gây cản trở hấp thu
kháng sinh
Cách dùng: uống sau bữa ăn 1-3
giờ và trước lúc đi ngủ để trung
hoà acid thừa. Để giảm triệu chứng
đau vùng thượng vị, đầy bụng,
dùng lúc có triệu chứng. Nhai kỹ
viên thuốc và nuốt với một ít nước
(20-50 ml), dạng gel uống không


cần pha loãng.
Không nên dùng các thuốc trung
hoà quá mạnh và kéo dài vì dễ gây
viêm dạ dày do kiềm hoá.
Các thuốc giảm tiết
- Các thuốc kháng thụ thể H2-Histamin: thường dùng là
cimetidin, ranitidin, famotidin, nizatidin. Khi dùng các
thuốc này người bệnh có thể gặp các triệu chứng: đau đầu,
chóng mặt, mệt mỏi, tiêu chảy hoặc táo bón. Hiếm gặp
hơn là hạ huyết áp, giảm tiểu cầu, bạch cầu Cimetidin
có thể gây vú to, chảy sữa, liệt dương ở nam giới.
Ranitidin, famotidin, nizatidin có thời gian ức chế tiết
khoảng nửa ngày. Nếu sử dụng điều trị duy trì nên dùng
vào ban đêm (vì thời gian ban ngày đã có thức ăn đệm đỡ
còn ban đêm dạ dày rỗng nên dễ gây đau hơn).
- Thuốc ức chế bơm proton (omeprazol, lanzoprazol,
pantoprazol): Các thuốc hiện dùng đều thuộc dẫn chất
benzinmidazol có tác dụng chống tiết mạnh và kéo dài, ức

Ảnh minh họa
chế bài tiết dịch vị tự nhiên và dịch vị tạo ra do các nguồn
kích thích (bữa ăn, stress).
Cách dùng: do hoạt chất của thuốc kém bền vững trong
môi trường acid nên các thuốc ức chế bơm proton thường
được sản xuất dưới dạng viên bao tan trong ruột. Vì vậy
khi uống không được nhai hoặc làm vỡ viên thuốc, phải
nuốt nguyên viên thuốc , uống với một cốc nước to
(khoảng 200ml). Thời gian uống thích hợp là cách xa bữa
ăn (trước khi ăn sáng và trước giờ ngủ buổi tối).
Thuốc bảo vệ niêm mạc, gắn ổ loét

- Thuốc băng ổ loét như alumini sacharose sulfat
(sucralfat), khi chất này gặp acid của dạ dàysẽ tạo thành
một lớp dính quánh gắn lên ổ loét, chống lại tác động của
acid, pepsin và mật; kích thích tiết chất nhày và
bicarbonat, kích thích tổng hợp prostaglandin. Cần uống
thuốc vào lúc trước khi ăn 1 giờ (để thuốc kịp bao vết loét
trước khi thức ăn vào) và lúc đi ngủ. Tuy nhiên thuốc làm
giảm hấp thu một số thuốc khác nếu dùng cùng như
tetracyclin, quinolon, phenytoin, theophylin, digoxin. Vì
vậy nếu cần dùng phối hợp nên uống sucralfat sau các
thuốc này 2 giờ.
- Thuốc kích thích tiết chất nhày và bicarbonat như cam
thảo (có trong thành phần của kavet), dimixen, teprenon
(selbex), protaglandin E1 (misoprostol, cytotex) Ngoài
tác dụng kích thích tiết chất nhày, thuốc còn tăng cường
tuần hoàn máu cục bộ, không ảnh hưởng đến sự tiết dịch
vị, không ảnh hưởng đến dược động học và tác dụng điều
trị của các thuốc chống viêm không steroid (NSAID), nên
nó còn có tác dụng dự phòng loét đường tiêu hoá do sử
dụng NSAID. Thời điểm uống thuốc nên uống vào bữa ăn
và trước lúc đi ngủ.
Thuốc diệt vi khuẩn Helicobacter pylory (HP) bao gồm
các loại: kháng sinh (amoxycilin, tetracyclin,
clarythromycin), nhóm imidazol (metronidazol, tinidazol)
và các hợp chất bismuth hữu cơ.
Để diệt HP người ta sử dụng phác đồ điều trị bộ 3 hay bộ
4.
Phác đồ bộ 3: phối hợp một chất giảm tiết (kháng H2
hoặc ức chế bơm proton) với 2 chất diệt khuẩn (trong số
các kháng sinh và dẫn chất imidazol).

Phác đồ bộ 4: phối hợp một chất giảm tiết (kháng H2
hoặc ức chế bơm proton) với 2 chất diệt khuẩn (trong số
các kháng sinh imidazol) và bismuth.
Một đợt điều trị thường kéo dài từ 7-14 ngày tuỳ tình
trạng của bệnh. Sau đó để củng cố liền sẹo sử dụng các
chất kháng H2 hoặc ức chế bơm proton kéo dài thêm
khoảng 2-3 tuần nữa (với loét tá tràng), và 4-6 tuần (với
loét dạ dày).
Ngày nay nhờ có nhiều nhóm thuốc mới ra đời có hiệu
quả cao nên việc điều tri bệnh loét dạ dày-tá tràng có
nhiều tiến bộ. Việc phát hiện ra vi khuẩn HP giúp cho
hiệu quả điều trị tốt hơn: thời gian liền sẹo vết loét ngắn
hơn, giảm thời gian tái phát. Điều trị nội khoa là chủ yếu,
chỉ can thiệp của ngoại khoa khi có biến chứng hoặc nghi
ngờ có biểu hiện ác tính. Tuy nhiên hiệu quả điều trị phụ
thuộc nhiều vào khả năng tuân thủ điều trị bệnh của bệnh
nhân. Bệnh nhân cần uống thuốc, tuân thủ đúng phác đồ
điều trị là những yếu tố quan trọng góp phần làm tăng tỷ
lệ điều trị thành công.

×