Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 2) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.96 KB, 4 trang )

Khái quát về lịch sử tiếng Việt
(phần 2)
2. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Nôm
Sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt – Hán đã diễn ra cả nghìn năm dưới chế độ đô hộ của
phong kiến Trung Quốc, trong khuôn khổ một chính sách đồng hoá quyết liệt, tàn
bạo; rồi sau đó, còn diễn ra cả nghìn năm tiếp theo, dưới chính quyền của vua quan
trong nước. Suốt giai đoạn này, chữ Hán giữ vị trí rất quan trọng. Nó được dùng
trong hành chính, tế lễ, học thuật, thơ văn.
Nhưng tiếng Việt, trong giai đoạn ấy, vẫn không ngừng phát triển, và đã phát triển
càng ngày càng mạnh.
Nền văn học dân gian, với những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
những ca dao, tục ngữ, chứng tỏ quá trình phát triển sinh động, phong phú của
tiếng Việt văn học truyền miệng. Tuy vậy, chữ viết là điều kiện cần thiết để cho
một ngôn ngữ văn học có thể phát triển tới trình độ cao. Chữ viết của tiếng Việt, ở
giai đoạn này, là chữ Nôm – một thứ chữ được tạo ra theo nguyên tắc và cơ sở của
chữ Hán
(1)
. Theo những tài liệu còn lại hiện được biết, có thể nghĩ rằng chữ Nôm
đã xuất hiện vào khoảng các thế kỉ IX-X, nhưng đến các thế kỉ XIII-XV mới có thơ
phú "quốc âm", "quốc ngữ" viết bằng chữ Nôm, của những người như Nguyễn
Thuyên (Hàn Thuyên), Nguyễn Sĩ Cố, Chu An, Nguyễn Trãi.
Đáng chú ý hơn cả là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Tập thơ này là một thành
công đầu trong nền văn học viết của tiếng Việt. Nhà thơ là một vị anh hùng có
công đuổi giặc, cứu nước, đồng thời là một nhà văn hoá đã nhận rõ được ý nghĩa
vô cùng quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển ngôn ngữ văn học dân
tộc.
Từ thế kỉ XV về sau, đặc biệt là ở các thế kỉ XVIII, XIX, trào lưu văn học chữ
Nôm phát triển mỗi thời một mạnh hơn, với nhiều tác phẩm hơn, những tác phẩm
được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, trước thái độ tiêu cực của triều đình và
tầng lớp khá đông những nhà nho quá sùng bái chữ Hán
(2)


.
Trào lưu này đã đưa tiếng Việt đến những bước tiến rõ rệt. Kho từ vựng tăng lên,
giàu có hơn. Bộ phận nền tảng của nó là những từ gốc Việt. Đó là những từ một
âm tiết, như: đất, người, trăng, đẹp, vui và những từ hai tiếng được cấu tạo theo
quy tắc phối hợp âm thanh như: long lanh, ngậm ngùi hoặc quy tắc phối hợp
nghĩa, như: vuông tròn, mây gió Nó cũng tiếp nhận và đồng hoá nhiều từ gốc
Hán. Có những từ một tiếng gốc Hán đã được đưa vào tiếng Việt từ rất xưa, và
được Việt hoá hoàn toàn, như: tuổi vốn là gốc ở âm của của chữ Hán "tuế"; buông
gốc ở âm cổ của chữ Hán "phóng" Ngoài ra, còn có những từ một tiếng hay hai
tiếng gốc Hán đã đi vào tiếng Việt ở thời kì sau và chủ yếu theo con đường sách
vở
(3)
. Đó là những từ thi ca, như: phong, hoa, tuyết, nguyệt, tài tử, giai nhân và
những từ văn hoá, chủ yếu về đạo lí, triết lí, như: nhân, nghĩa, trung, hiếu, bạc
mệnh, tang thương Nói về cách đặt câu, cách làm thơ, thì qua trào lưu văn học
chữ Nôm, rõ ràng là tiếng Việt đã đạt tới trình độ điêu luyện hơn, mà vẫn bền
vững, nhuần nhuyễn tính cách Việt Nam.
Những tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều chứng tỏ rằng tính cách ấy
ngày càng đậm đà và có tác dụng sâu sắc. Người Việt Nam chúng ta yêu mến, quý
trọng nó là yêu mến và quý trọng bản sắc của ngôn ngữ, của văn hoá dân tộc. Tư
tưởng và tình cảm này có hiệu lực đặc biệt quan trọng trong sự bồi dưỡng và phát
huy tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam.
__________
(1)
Có những lí do nhất định cho phép nghĩ tới một thứ chữ cổ hơn của tiếng Việt,
song đó còn là một giả thuyết trong phạm vi nghiên cứu Chữ Nôm, về cơ bản, là
một thứ chữ ghi âm bằng các yếu tố của chữ Hán. Ví dụ: chữ (đọc là năm) với
nghĩa về thời gian gồm có chữ Hán "nam" (ghi âm) và chữ Hán "niên" (ghi nghĩa);
còn chữ cũng đọc là năm với ý nghĩa về sống lượng thì gồm có chữ Hán "nam"
(ghi âm) và chữ Hán "ngũ" (ghi nghĩa). Như vậy, chữ Hán "nam" là yếu tố ghi âm.

(2)
Thế kỉ XVIII, triều Lê-Trịnh, sách Nôm đã có lúc bị cấm, không cho in, không
cho đọc, thậm chi bị đốt đi.
(3)
Những từ này thường được gọi theo thói quen là "từ Hán Việt". Chúng chưa
phải là đã Việt hoá hoàn toàn, về cách phát âm cũng như cách dùng.

×