Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.87 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài : Hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay là xu thế tất yếu và
là đòi hỏi khách quan của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Xu thế
này đang dần bao trùm lên hầu hết các lónh vực cuả đời sống xã hội. Lónh vực
ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Quá trình hội nhập trong lónh
vực ngân hàng đã trở thành một trong những nội dung chủ yếu, có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến toàn bộ các quan hệ kinh tế, tài chính của mỗi nước và của toàn thế
giới; nó vừa góp phần nâng cao hiệu quả phân phối nguồn lực và phát triển kinh
tế, tăng cường khả năng thanh toán vừa thúc đẩy thò trường tài chính phát triển ổn
đònh đồng thời nó cũng nâng cao chất lượng hoạt động cuả hệ thống ngân hàng và
các trung gian tài chính khác. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề hội nhập trong lónh vực
ngân hàng là một việc làm quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hệ thống ngân
hàng nước ta đang từng bước hội nhập với quốc tế hiện nay.
Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài : Nhận thức đúng đắn và đầy đủ những
cơ hội và thách thức, những lợi ích và nguy cơ để chủ động hội nhập theo một lộ
trình hợp lý chắc chắn sẽ giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam có được một
sự chuẩn bò thật tốt trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mục tiêu
nghiên cứu cuả đề tài này là trên cơ sở phân tích thực trạng hiện nay cuả hệ thống
NHTM Việt Nam và từ những vấn đề đó kiến nghò một số giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
1
Phần I
CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ
TỰ DO HÓA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
11. Hiệp đònh thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
Một số cam kết trong hiệp đònh BTA của Chính phủ Việt Nam đối với tổ chức
ngân hàng và tài chính của Hoa Kỳ được trình bày tóm tắt như sau :
 Các nhà cung cấp dòch vụ tài chính Hoa kỳ được phép cung cấp dòch vụ tại
Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý: (i) Chi nhánh ngân hàng Hoa
Kỳ; (ii) Ngân hàng liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ; (iii) Công ty thuê mua tài
chính 100% vốn Hoa Kỳ và (iv) Công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt


Nam-Hoa Kỳ;
 Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp đònh có hiệu lực, hình thức pháp lý duy
nhất thông qua đó các nhà cung cấp dòch vụ tài chính Hoa Kỳ khác (ngoài
ngân hàng và công ty thuê- mua tài chính) có thể cung cấp các dòch vụ tài
chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó,
hạn chế này sẽ được bãi bỏ;
 Sau 9 năm kể từ khi Hiệp đònh có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được
phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam (từ tháng 12
năm 2010, các ngân hàng con 100% vốn của Mỹ được phép hoạt động ở
Việt Nam);
 Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng của Mỹ được nắm vốn sở hữu trong
các ngân hàng Việt Nam được cổ phần hóa, tương đương với mức cho phép
đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Theo thời gian, từng bước cho phép các
2
liên doanh tăng dần mức nắm giữ vốn từ 30% lên 49%, thực hiện trước năm
2010;
 Từ tháng 12 năm 2004, các chi nhánh ngân hàng của Mỹ được phép: i) nhận
đảm bảo cho khoản vay bằng giá trò quyền sử dụng đất do các DN có vốn
đầu tư nước ngoài nắm giữ; (ii) tiếp nhận và sử dụng giá trò quyền sử dụng
đất đảm bảo cho khoản vay trong trường hợp không thanh toán nợ; iii) được
tiếp cận các dòch vụ tái chiết khấu, hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn của Ngân
hàng Nhà nước; và quan trọng hơn là, iv) được hưởng đầy đủ quyền như
ngân hàng trong nước;
Mốt số cam kết cụ thể khác trong BTA
Trong 8 năm đầu, sau khi hiệp đònh thương mại có hiệu lực, các chi nhánh ngân
hàng Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng VND từ các pháp nhân
mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng với những tỷ lệ nhất đònh tính theo vốn
pháp đònh của chi nhánh :
 Năm thứ 1 (từ 10/12/2001) 50% vốn pháp đònh chuyển vào
 Năm thứ 2 (từ 10/12/2002) 100%

 Năm thứ 3 (từ 10/12/2003) 250%
 Năm thứ 4 (từ 10/12/2004) 400%
 Năm thứ 5 (từ 10/12/2005) 600%
 Năm thứ 6 (từ 10/12/2006) 700%
 Năm thứ 7 (từ 10/12/2007) 900%
 Năm thứ 8 (từ 10/12/2008) Đối xử quốc gia đầy đủ
Trong 10 năm đầu, sau khi hiệp đònh có hiệu lực, các chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ
hoạt động tại Việt Nam nhận tiền gửi bằng VND từ các thể nhân mà ngân hàng
3
không có quan hệ tín dụng với những tỷ lệ nhất đònh tính trên mức vốn pháp đònh
của chi nhánh, cụ thể như sau:
 Năm thứ 1 (từ 10/12/2001) 50% vốn pháp đònh chuyển vào
 Năm thứ 2 (từ 10/12/2002) 100%
 Năm thứ 3 (từ 10/12/2003) 250%
 Năm thứ 4 (từ 10/12/2004) 350%
 Năm thứ 5 (từ 10/12/2005) 500%
 Năm thứ 6 (từ 10/12/2006) 650%
 Năm thứ 7 (từ 10/12/2007) 800%
 Năm thứ 8 (từ 10/12/2008) 900%
 Năm thứ 9 (từ 10/12/2009) 1000%
 Năm thứ 10 (từ 10/12/2010) Đối xử quốc gia đầy đủ.
Như vậy, chúng ta chỉ còn chưa đầy 4 năm nữa thì ngành ngân hàng phải thực sự
mở cửa theo hiệp đònh thương mại Việt – Mỹ đó là chưa tính đến lộ trình mở cửa
ngành ngân hàng nếu Việt Nam được gia nhập tổ chức WTO vào cuối năm nay.
Nhưng có một điều chắc chắn rằng những cam kết để được gia nhập tổ chức WTO
trong lónh vực ngân hàng sẽ ít nhất cũng giống như trong hiệp đònh thương mại
Việt – Mỹ
4
Phần II
PHÂN TÍCH SWOT ĐỐI VỚI HỆ THỐNG NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Điểm mạnh (Strengths)
1.1. Môi trường kinh tế vó mô ổn đònh
Đây là một lợi thế rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh tình hình chính trò trên
thế gới trong những năm vừa qua hết sức phức tạp. Môi trường kinh tế vó mô
mà hệ thống NHTM Việt Nam đang hoạt động là tương đối ổn đònh và lành
mạnh. Sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và chắc chắn trong những năm qua ,
môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho việc kinh doanh đã tạo điều kiện
cho các ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách ổn đònh.
Nhờ sự ổn đònh về mặt vó mô này mà các ngân hàng có điều kiện huy động và
cấp tín dụng ngày càng nhiều hơn cho các hoạt động tsản xuất kinh doanh, từ
đó gia tăng đáng kể lợi nhuận thu được.
Mặt khác, với sự ổn đònh về mội trường kinh tế vó mô ổn đònh và lành mạnh đã
giúp thò trường vốn trong nước phát triển vượt bậc trong thời gian qua. Hiện nay
các NHTMCP có thể phát hành cổ phiếu dễ dàng và điều này đã giúp hệ thống
NHTM Việt Nam gia tăng năng lực tài chính của mình một cách rõ rệt.
1.2. Hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp
Mạng lưới chi nhánh và các điểm giao dòch của hệ thống NHTM Việt Nam
trong những năm qua đã tăng lên đáng kể, các NHTM liên tục khai trương
nhiều chi nhánh và phòng giao dòch tại khắp các tỉnh thành nhằm gia tăng số
lượng khách hàng tiềm năng cho Ngân hàng mình (NH Nông nghiêïp và phát
triển nông thôn có chi nhánh đến tận xã, Sacombank hiện nay có khoảng 102
5
chi nhánh và điểm giao dòch, ACB đang nỗ lực để hướng đến con số 100 chi
nhánh…). Như vậy sau hơn 15 năm phát triển hệ thống NHTM Việt Nam đã xây
dựng được cho mình một hệ thống pân phối sản phẩm và dòch vụ ngân hàng
tương đối rộng lớn. Đây là một lợi thế lớn của hệ thống NHTM Việt Nam mà
các ngân hàng nước ngoài khi thâm nhập vào thò trường Việt Nam còn phải
mất một khoảng thời gian nhất đònh mới có thể xây dựng được.
1.3. Về vò thế thò trường

Hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm năm ngân hàng thương mại quốc doanh,
một ngân hàng chính sách và 38 ngân hàng thương mại cổ phần. Các NHTM
Việt Nam hiện thống trò thò trường tiền gửi và cho vay với thò phần tương đối
lớn và đối tượng khách hàng thì đa dạng. Điều này có được nhờ những lợi thế
sẵn có với vai trò là ngân hàng trong nước bởi các NHTM Việt Nam không
phải chòu những hạn chế về quy mô hoạt động hay số lượng các chi nhánh
trong một khu vực. Trong khi những ngân hàng nước ngoài lại gặp phải một số
hạn chế khi nhận tiền gửi tại thò trường trong nước.
Trong khi các NHTMQD vẫn tập trung phục vụ các khách hàng truyền thống là
những DNNN lớn, các NHTM cổ phần đã tìm ra những thò trường ngách là
phục vụ những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các khách hàng cá nhân.
Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và ngân hàng chính sách xã hội đóng một
vai trò quan trọng trong việc cấp vốn cho khu vực nông thôn và những người
nghèo.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng hệ thống NHTM Việt Nam hiện chiếm một
thò phần tương đối lớn ở thò trường Việt Nam hiện nay (khoảng gần 90%, các
NH nước ngoài hiện chỉ chiếm khoảng 10% thò phần trong nước) và theo nhiều
chuyên gia trong lónh vực ngân hàng thì trong một tương lai gần, thò phần của
các tổ chức tín dụng Việt Nam sẽ không thay đổi nhanh chóng; mặc dù có thể
6
xuất hiện một số thay đổi về cấu trúc, ví dụ như thò phần của các ngân hàng
TMCP sẽ tăng lên.
1.4. Am hiểu thò trường và “văn hóa” của khách hàng trong nước
Với lợi thế hoạt động lâu năm trên “sân nhà”, các NHTM Việt Nam tỏ ra rất
có lợi thế về việc am hiểu thò trường cũng như am hiểu về phong tục tập quán,
tâm lý và “văn hóa” của các khách hàng trong nước. Ngoài ra các NHTM Việt
Nam còn có được những thông tin về khách hàng tốt hơn các ngân hàng nước
ngoài và trong nhiều trường hợp các thông tin này có thể bổ sung cho các Báo
cáo tài chính thiếu minh bạch của khách hàng trong việc phục vụ mục đích cho
vay của ngân hàng.

1.5. Về các đối tác chiến lược.
Trong thời gian vừa qua, do quá trình thực hiện các cam kết của hiệp đònh
thương mại Việt – Mỹ, Việt Nam đã cho phép các đối tác nước ngoài nắm giữ
30% vốn điều lệ của một ngân hàng. Đây là một cơ hội rất lớn đối với hệ thống
NHTM Việt Nam nhằm tranh thủ công nghệ và tận dụng vốn của các tổ chức
nước ngoài và các NHTM cổ phần đã tỏ ra rất nhanh nhạy trong vấn đến này.
Lần lượt các NHTM cổ phần lớn của Việt Nam như ACB, Sacombank,
Techcombank,…. Đã bán cổ phần của mình cho các ngân hàng hàng đầu của
thế giới như ANZ, HSBC, IFC, …. Nhằm khai thác các kinh nghiệm và trình độ
chuyên môn quý báu của các đối tác chiến lược này. Với xu hướng bán cổ phần
cho các NH nước ngoài để họ trở thành cổ đông chiến lược của các NHTM
Việt Nam thì chúng ta có thể kỳ vọng là các NHTM Việt Nam sẽ ngày càng
mạnh hơn, chuyên nghiệp hơn và có đủ khả năng cạnh tranh với các ngân hàng
nước ngoài khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
2. Điểm yếu (Weaknesses)
2.1. Về thể chế
7
Điểm yếu rõ nét nhất về thể chế của ngành ngân hàng Việt Nam là thiếu một
hệ thống pháp lý có thể bảo vệ các lợi ích của ngân hàng với tư cách là người
cho vay trong trường hợp các khách hàng vay vốn bò phá sản. Quyết đònh của
tòa án cho phép các ngân hàng bán tài sản thế chấp nếu như bên vay không trả
được nợ đôi khi không tinh đến lợi ích của ngân hàng và quyền lợi của bên cho
vay. Điều này làm cản trở hiệu quả của các ngân hàng, ăng chi phí cho vay vì
các ngân hàng phải tăng dự phòng rủi ro để trang trải cho những thất thoát về
vốn.
Vấn đề thể chế thứ hai đó là các khoản tín dụng ưu đãi và vấn đề cho vay theo
chỉ đònh của các NHTMQD. Mặc dù trong thời gian gần đây việc cho vay chỉ
đònh đã giảm bớt nhưng vẫn được xem là một vấn đề đang tiếp diễn. Điều này
có nguy cơ kéo dài vấn đề nợ quá hạn vốn đã rất nghiêm trọng của các
NHTMQD, từ đó cản trở quá trình cổ phần hóa mà các ngân hàng này đang

thực hiện.
Vấn đề thứ ba về thể chế đó là vấn đế thiếu minh bạch trong các Báo cáo tài
chính của các khách hàng doanh nghiệp. Hiện nay chỉ có một số ít doanh
nghiệp được kiểm toán độc lập hàng năm. Việc thiếu kiểm toán và kế toán
minh bạch sẽ gấy khó khăn cho việc đánh giá khả năng sinh lời của một doanh
nghiệp, qua đó ngân hàng khó có thể có quyết đònh cho vay hiệu qủa. Đây
chính là vấn đề cản trở ngân hàng chưa mạnh dạng cho các khách hàng doanh
nghiệp vay vốn đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và điều này cũng lý
giải vì sao các NHTMQD chỉ cho các doanh nghiệp lớn vay mà ít quan tâm đến
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Muốn khắc phục vấn đề này đòi hỏi Chính phủ
phải có những biện pháp nhằm phát triển thò trường vốn bởi vì các doanh
nghiệp muốn khai thông nguồn vốn trên thò trường chứng khoán thì họ phải
công khai và minh bạch tài chính, do đó các ngân hàng cũng dễ cho các doanh
8
nghiệp vay hơn và các doanh nghiệp cũng dễ tiếp cận các khoảng tín dụng
ngân hàng hơn.
2.2. Về năng lực tài chính
Trong thời gian gần đây một loạt các NHTM đã và đang có những sự gia tăng
đáng kể về vốn điều lệ, cụ thể như: ACB vừa phát hành thành công 1.650 tỷ
đồng trái phiếu chuyển đổi, Sacombank vừa phát hành 10% cổ phiếu thưởng
nâng mức vốn điều lệ của mình lên 1999 tỷ VND, Eximbank phát hành 400 tỷ
đồng mệnh giá cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn lên 1200 tỷ VND,…
song nhìn chung nguồn vốn chủ sở hữu – sức mạnh tài chính của NHTM Việt
Nam vẫn còn khá thấp so với các NHTM trong khu vực và thế giới. Nhiều
NHTM nước ngoài có quy mô vốn chủ sở hữu hàng tỷ USD, trong khi đó các
NHTM nước ta quy mô vốn chủ sở hữu còn rất khiêm tốn, tổng vốn chủ sở hữu
của toàn hệ thống NHTM nước ta khoảng hơn 2 tỷ USD. Điều này đã hạn chế
các ngân hàng nâng cấp công nghệ và giới thiệu những dòch vụ mới như ngân
hàng điện tử, ATM, vốn là những dòch vụ đòi hỏi phải đầu tư đáng kể.
Bảng 1 : Vốc chủ sở hữu của một số Ngân hàng qua các năm.

(Tỷ giá quy đổi : 15.700 VND/USD)
Tên Ngân hàng
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2005
VNĐ
(triệu VND)
Quy đổi
(triệu USD)
VNĐ
(triệu VND)
Quy đổi
(triệu USD)
VNĐ
(triệu VND)
Quy đổi
(triệu USD)
ĐT&PT VN 3.760.127 239 5.503.637 351
Vietcombank 4.397.848 280 5.734.965 365
Incombank 3.173.697 202 4.154.083 265
Á Châu 489.452 31 562.391 36
Bangkok Bank 2.511 1.365
Mandiri (Indonesia) 1.579 2.231
ING BANK (triệu EUR) 18.000 21.000
(Nguồn: Số liệu này lấy từ báo cáo thường niên của các Ngân hàng và quy đổi theo tỷ giá)
Quy mô vốn tự có giữ vai trò quyết đònh đến quy mô cho vay, đầu tư vốn cho
các doanh nghiệp và tốc độ phát triển công nghệ, hiện đại hoá NHTM. Với
9
năng lực tài chính có hạn và nhu cầu rất lớn về vốn cho nền kinh tế, các
NHTM chỉ có thể đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn mà chưa đáp ứng được các
nhu cầu vốn trung dài hạn của các doanh nghiệp. Mặt khác, với tình hình thò
trường vốn Việt Nam đang còn trong quá trình phát triển ban đầu, chưa thể

cung cấp đủ nguồn vốn trung dài hạn cần thiết cho các doanh nghiệp, các
NHTM hiện nay đang pải đảm trách nhiệm vụ cung cấp nguồn vốn trung dài
hạn cho các doanh nghiệp. Điều này làm tăng tính rủi ro thanh khoản cho hệ
thống NHTM Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện thiếu các khoảng tiền gửi
trung và dài hạn.
Mặc dù năng lực tài chính có hạn, các NHTM Việt Nam còn đang tham gia vào
các cuộc chạy đua về lãi suất cả về ngiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ cho
vay. Việc chạy đua về lãi suất có thể dẫn tới rủi ro làm tất cả cùng suy yếu.
Nếu các NHTM nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, chiến lược marketing
mạnh mẽ tham gia vào cuộc chạy đua này thì cuộc chạy đau về lãi suất của các
NHTM trong nước sẽ không thể kéo dài được.
Vì thế năng lực tài chính còn nhỏ bé có thể xem là một điều bất lợi rất lớn đối
với các NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập, đặc biệt là trong điều kiện
các NHTM quốc tế đang có xu hướng sáp nhập tạo thành các NHTM có quy
mô vốn chủ sở hữu lớn và rất lớn.
Tuy trong những năm gần đây hệ thống NHTNQD đã có những cải thiện đáng
kể về tính hình tài chính, nhưng nhìn chung thìmtình hình tài chính của các
NHTMQD vẫn còn kém lành mạnh, các chỉ tiêu khả năng sinh lời và chi phí
đều không tốt bằng mức trung bình của khu vực.
2.3. Năng lực quản lý điều hành còn kém so với yêu cầu của một NHTM
hiện đại
10
 Tính chuyên nghiệp trong quản trò NHTM hiện đại : Quản trò NHTM hiện đại
đòi hỏi các cán bộ quản lý phải có tính chuyên nghiệp cao. Khả năng quản
trò, vận hành, điều chỉnh, bổ sung, không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý
cuả Ban lãnh đạo NHTM quyết đònh hiệu quả hoạt động kinh doanh của
NHTM theo đònh hướng xác đònh. Ở Việt Nam hiện nay hầu hết các nhà
quản trò NHTM đều chưa được đào tạo nghề quản trò NHTM một cách bài
bản mà chủ yếu được lựa chọn qua thực tiễn hoạt động kinh doanh nên tính
chuyên nghiệp trong quản trò một NHTM còn nhiều bất cập.

 Tính năng động của cán bộ quản lý NHTM : Trong nền kinh tế thò trường thì
cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt, điều đó đòi hỏi các nhà quản trò
phải hết sức sáng tạo và năng động. Cơ chế quản lý hiện nay cuả các
NHTM quốc doanh chưa cho phép các nhà quản trò phát huy tính năng động
chủ quan cuả mình. Rất nhiều các cơ chế Nhà nước quá chặt chẽ không dễ
một sớm một chiều tháo gỡ được đã hạn chế đáng kể tính năng động của
các nhà quản trò NHTM quốc doanh. Quyền và trách nhiệm, kể cả trách
nhiệm vật chất đối với Giám đốc, Tổng Giám đốc NHTM quốc doanh còn
hạn chế rất nhiều và chưa rõ ràng, không khuyến khích tính năng động cuả
đội ngủ quản trò NHTM quốc doanh, trong khi đó các nhà quản trò NHTM
ngoài quốc doanh lại có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Vì thế những nhà
quản trò NHTM quốc doanh đã không có nhiều điều kiện để phát huy tính
năng động, dám nghó, dám làm, dám chòu trách mhiệm – những phẩm chất
quý báu cuả các chủ doanh nghiệp thành đạt trong lónh vực kinh doanh.
Thực chất họ vẫn là các công chức Nhà nước hoạt động trong lónh vực Ngân
hàng, được bổ nhiệm có thời hạn 5 năm một lần. Trong 5 năm, họ cố gắng
làm cho tròn trách nhiệm, không để xảy ra những “sự cố” đáng tiếc trong
đơn vò mình. Đây là một thách thức lớn hạn chế sức cạnh tranh cuả các
NHTM quốc doanh.
11
2.4. Về công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng giữ vai trò quyết đònh trong hoạt động nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế cũng như trong việc hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Nhìn
chung công nghệ cuả các NHTM ở nước ta những năm vừa qua đã phát triển
vượt bậc so với những năm trước đây. Nhiều công nghệ hiện đại đã và đang
được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh cuả các NHTM như máy rút tiền tự
động ATM, vấn tin tài khoản, dòch vụ Phone Banking, thanh toán điện tử, thẻ
tín dụng nội điạ, thẻ tín dụng quốc tế…. song vẫn chưa đạt trình độ trung bình
của khu vực, trong khi đó nhiều NHTM quốc tế đã đạt trình độ công nghệ rất
cao, các sản phẩm dòch vụ của các NHTM này ngày càng thoả mãn nhu cầu

của xã hội.
Do trình độ công nghệ còn yếu nên các sản phẩm và dòch vụ phi tín mà các
NHTM Việt Nam cung cấp chưa thật sự đa dạng, tín dụng vẫn là nguồn thu chủ
yếu của ngân hàng, tỷ trọng thu nhập từ dòch vụ ngân hàng chỉ chiếm một tỷ lệ
khiêm tốn trong tổng thu nhập cuả ngân hàng.
Biểu đồ 1 : Tỷ trọng thu nhập từ dòch vụ của các ngân hàng ở các nước.
12

×