Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Các cuộc chiến tranh của NapoléonTrên: Trận Austerlitz Dưới: Trận potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.27 KB, 24 trang )

Các cuộc chiến tranh của Napoléon



Trên: Trận Austerlitz
Dưới: Trận Waterloo
.
Thời gian

khoảng thời gian 1803–1815
Địa điểm
Châu Âu, Đại Tây Dương,
Sông La Plata, Guyane thuộc
Pháp, Ấn Độ Dương, Bắc Mỹ
Kết quả
Phe Liên Minh chiến thắng,
Đại hội Viên
 Kết thúc Đế chế thứ
nhất, phục hưng nhà Bourbon
 Thành lập Nhóm hoà
hợp các cường quốc châu Âu
 Thay đổi lớn về các triều
đại và lãnh thổ

Tham chiến
Đế quốc Anh
Đế quốc Áo
[a][b]

Đế quốc Nga
[c]



Vương quốc
Phổ
[b]

Tây Ban Nha
[d]

Bồ Đào Nha
Hai Sicilia
[e]

Lãnh địa Giáo hoàng

Vương quốc
Sardinia
Thụy Điển
[f]

Đế chế Pháp
 Công quốc
Warsaw
[g]

 Vương
quốc Ý
 Holland
[h]

 Etruria

[i]

 Liên bang
Thụy Sĩ
Liên hiệp Hà Lan
Lãnh địa Brunswick

Hoàng gia Pháp
Tuyển hầu
Hanover
Nassau
 Naples
[j]

 Liên bang
sông Rhine
[k]

 Tây Ban
Nha
Đan Mạch–Na
Uy
[l]

Đế quốc
Ottoman
[m]

Đế quốc Áo
[a][b]


Vương quốc
Phổ
[b]

Đế quốc Nga
[c]

Thụy Điển
[f]

Đế quốc Ba Tư
Hoa Kỳ
[n]

Chỉ huy
George III
Công tước
Wellington
Horatio Nelson †

Francis I
Napoléon I
Louis Alexandre
Berthier
Joachim Murat
Louis Nicolas
Archduke
Charles
Hoàng thân

Schwarzenberg
Archduke Johann

Alexander I
Mikhail Kutuzov

Michael Andreas
Barclay de Tolly
Bá tước
Bennigsen
Pyotr Bagration †

Frederick
William III
Gebhard von
Blücher
Công tước
Brunswick †
Hoàng tử
Hohenlohe
Ferdinand VII
Miguel de Álava
Hoàng tử John
Miguel Pereira
Forjaz
William, Hoàng
tử Orange
Ferdinand IV
Davout
Jean Lannes †

André Masséna
Michel Ney
Jean-de-Dieu
Soult
Jean-Baptiste
Bessières †
các thống chế
khác
Louis Thomas
Villaret de Joyeuse
Pierre-Charles
Villeneuve
Joseph I
[p]

Louis I
Hoàng thân
Poniatowski †
Hoàng thân Eugène
Jerome Napoleon

Maximilian I
Frederick
Augustus I
Frederick I
Frederick VI
James Madison
Mahmud II
Gustav IV Adolf
Hoàng tử Charles

John
[o]

Công tước
Brunswick-
Wolfenbüttel †
Louis XVIII
Tổn thất

từ 3.350.000 đến 6.500.000 người chết
.
a. Thuật ngữ "Đế quốc Áo" được sử
dụng từ sau khi Napoleon lên ngôi Hoàng
đế nước Pháp năm 1804, và do đó Franz II
của đế quốc La Mã Thần thánh phải nhận
danh hiệu Hoàng đế Áo (Kaiser von
Österreich) cho tương xứng. Đế quốc La
Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806, và
theo đó "Hoàng đế Áo" trở thành danh hiệu
chính của Francis. Vì lý do này, thuật ngữ
"Đế quốc Áo" vẫn thường được dùng để
thay thế cho "Đế quốc La Mã Thần thánh"
cho ngắn gọn khi nói về các cuộc chiến
tranh Napoleon, mặc dù 2 thực thể này vốn
không đồng nghĩa.
b. Cả Áo và Phổ đều đã từng trở thành
đồng minh của Pháp trong thời gian ngắn
và có đưa quân tham gia cuộc xâm lược
nước Nga năm 1812.
c. Nga đã trở thành đồng minh của

Pháp sau Hòa ước Tilsit năm 1807. Mối
liên minh này tan vỡ năm 1810, dẫn đến
cuộc tấn công nước Nga năm 1812. Trong
thời gian đó Nga đã tiến hành chiến tranh
với Thụy Điển (1808–1809), với Đế quốc
Ottoman (1806–1812), và chiến tranh trên
danh nghĩa với nước Anh (1807–1812).
d. Tây Ban Nha là 1 đồng minh của
Pháp cho đến khi bị Pháp xâm lược năm
1808, và đã chống lại nước Pháp trong
cuộc chiến tranh Bán đảo.
e. Sicilia nằm trong liên bang riêng với
Naples cho đến khi Naples trở thành nước
cộng hòa vệ tinh của Pháp sau trận Campo
Tenese năm 1806.
f. Trên danh nghĩa, Thụy Điển đã
tuyên bố chiến tranh với Anh sau thua
nước Nga trong chiến tranh Phàn Lan
(1808–1809).
g. Napoleon đã thành lập Công quốc
Warsaw thuộc quyền cai trị của Vương
quốc Saxony năm 1807. Quân đoàn Ba
Lan đã sớm phục vụ trong quân đội Pháp
từ trước đó.
h. Đế chế Pháp đã sáp nhập Vương
quốc Holland năm 1810. Quân Hà Lan đã
chiến đấu chống lại Napoleon trong thời kỳ
Một trăm ngày năm 1815.
i. Đế chế Pháp đã sáp nhập Vương
quốc Etruria năm 1807.

j. Vương quốc Naples đã liên minh
với Áo một thời gian ngắn trong năm 1814,
rồi lại liên minh Pháp và đánh lại Áo trong
cuộc chiến tranh Naples năm 1815.
k. 16 đồng minh của Pháp trong số các
quốc gia Đức (bao gồm cả Bavaria và
Württemberg) đã tạo nên Liên bang sông
Rhine vào tháng 7 năm 1806 sau trận
Austerlitz tháng 12 năm 1805. Sau trận
Jena-Auerstedt tháng 10 năm 1806, nhiều
quốc gia Đức khác trước đó theo phe đồng
minh chống Pháp, trong đó có Saxony và
Westphalia, cũng liên minh với Pháp và gia
nhập Liên bang này. Saxony lại đổi phe lần
nữa trong trận Leipzig năm 1813, làm hầu
hết các quốc gia thành viên khác cũng
nhanh chóng theo sau và tuyên chiến với
Pháp.
l. Đan Mạch-Na Uy giữ trung lập cho
đến trận Copenhagen năm 1807. Đan Mạch
bị buộc phải nhường lại Na Uy cho Thụy
Điển theo hòa ước Kiel năm 1814. Sau
chiến dịch ngắn ngủi của Thụy Điển tại Na
Uy năm 1814, Na Uy đã tham gia vào khối
liên minh riêng với Thụy Điển.
m. Đế quốc Ottoman có chiến tranh với
Napoleon trong chiến dịch của Pháp tại Ai
Cập và Syria, một phần của Chiến tranh
Cách mạng Pháp, cho đến năm 1803.
Trong triều đại của Napoleon từ năm 1803

đến 1815, đế quốc này đã tham gia 2 cuộc
chiến tranh chống lại phe Liên minh: với
Anh trong chiến tranh Anh-Thổ (1807–
1809) và với Nga trong chiến tranh Nga-
Thổ (1806–1812).
n. Hoa Kỳ chiến tranh với Anh trong
cuộc chiến tranh năm 1812, được xem là
một phần của chiến tranh Napoleon nhưng
không chính thức làm đồng minh với Pháp.

o. Vốn là 1 vị tướng của Đế chế Pháp,
thống chế Jean-Baptiste Bernadotte, 1804–
1810.
p. Joseph Bonaparte cai trị với danh
hiệu Joseph I của Naples và Sicily từ 30
tháng 3 năm 1806 đến 6 tháng 6 năm 1808,
và của Tây Ban Nha từ 8 tháng 6 năm 1808
đến 11 tháng 12 năm 1813. Ông ta cũng
phục vụ như một vị tướng của Pháp trước
và sau 2 giai đoạn trị vì này.


[hiện]
x • t • s
Chiến tranh Napoleon



Các cuộc chiến tranh của Napoléon là một loạt các cuộc chiến xẩy ra tại châu
Âu, dưới thời hoàng đế Napoléon Bonaparte cai trị nước Pháp. Các cuộc chiến này

tiếp nối các cuộc chiến do cuộc Cách mạng Pháp phát sinh, kéo dài suốt thời Đệ
nhất Đế chế ở Pháp.
Không có sự nhất trí về điểm xuất phát của các cuộc chiến này. Một số người cho
rằng các cuộc chiến này bắt đầu, khi tướng Bonaparte lên nắm quyền vào tháng 11
năm 1799. Một số người khác lại cho rằng các cuộc chiến của cuộc Cách mạng
Pháp kéo dài tới năm 1802 và họ cho rằng lời tuyên chiến giữa Pháp và Anh năm
1802 - sau một thời hòa bình ngắn tiếp theo Hòa ước Amiens năm 1802 - là điểm
xuất phát của các cuộc chiến tranh của Napoléon. Các cuộc chiến này chấm dứt
ngày 20 tháng 11 năm 1815, sau thất bại quyết định của Napoléon tại trận
Waterloo dẫn tới Hiệp ước Paris thứ hai, ngày 20 tháng 11 năm 1815.
Các cuộc chiến này đã làm đảo điên các quân đội các nước châu Âu, với việc sử
dụng pháo binh, cũng như các tổ chức quân sự ở một mức độ chưa từng thấy.
Nước Pháp, trên đà các cuộc chinh phục cách mạng, thấy sức mạnh của mình tăng
trưởng rất nhanh và trải rộng sự thống trị của mình ra toàn châu lục. Tuy nhiên, sự
thất bại còn nhanh hơn. Từ cuộc rút lui thảm hại khỏi Nga, tới trận Waterloo, tới
tận khi vương triều Bourbon được khôi phục. Toàn bộ các cuộc xung đột này
khiến cho tổng cộng khoảng 2,5 triệu người chết, trong đó 1,5 triệu là binh lính và
1 triệu thường dân.
Cũng có người gọi các cuộc chiến này là Các cuộc chiến tranh của Cách mạng
và Đế chế (Guerres de la Révolution et de l'Empire) vì coi chúng chủ yếu là tiếp
tục các cuộc chiến bảo vệ Cuộc cách mạng Pháp, do các vương quốc châu Âu liên
kết chống lại Pháp trong Liên minh thứ nhất. Tuy nhiên một số người khác lại cho
đây là các cuộc chiến tranh xâm lược không thể chối cãi, chẳng hạn như cuộc
chiến tranh giành độc lập của Tây Ban Nha 1808-1814. Các sử gia châu Âu đôi
khi cũng gọi thời kỳ chiến tranh liên tục từ ngày 20 tháng 4 năm 1792, khi Pháp
tuyên chiến với Áo, tới ngày 20 tháng 11 năm 1815 là Cuộc đại chiến của Pháp
(Grande guerre francaise). Cuối cùng đôi khi người ta cũng coi các cuộc chiến
này tạo ra phần chính của Cuộc chiến tranh 100 năm lần thứ ba (Troisème
guerre de Cent ans) giữa Pháp và Anh.
Mục lục

[ẩn]
 1 Các trận chiến tranh với Liên minh thứ hai
1

o 1.1 Hòa ước Amiens
o 1.2 Cuộc chiến trên biển
 2 Các trận chiến với Liên minh thứ ba
6

 3 Các trận chiến với Liên minh thứ tư
8

 4 Các trận chiến với Liên minh thứ năm
12

o 4.1 Cuộc chiến Tây Ban Nha
o 4.2 Liên minh thứ năm
 5 Các trận chiến với Liên minh thứ sáu
15

o 5.1 Trận chiến tại Nga
o 5.2 Trận chiến ở Đức
o 5.3 Trận chiến ở Pháp
 6 Các trận chiến với Liên minh thứ bảy
19

 7 Các hậu quả của các cuộc chiến tranh này
 8 Xem thêm
 9 Tham khảo
 10 Liên kết ngoài

[ ] Các trận chiến tranh với Liên minh thứ hai
1

Sau mưu toan nghiền nát Cuộc cách mạng Pháp của Liên minh thứ nhất gồm Anh,
Áo, Phổ, Tây Ban Nha và một số nước nhỏ (1792-1797), phe Liên minh bị thất bại
bởi cuộc tổng động viên của Pháp (300.000 người) với việc cải cách quân đội bởi
tướng Lazare Nicolas Marguerite Carnot và chiến thuật chiến tranh toàn diện.
Nước Pháp thắng trận đã sát nhập vùng Rheinland và vùng Bỉ-Hà Lan-
Luxembourg thuộc Tây Ban Nha vào Pháp. Việc chinh phục Cộng hòa Hà Lan
(cũng gọi là "7 tỉnh hợp nhất", tuyên chiến với Pháp năm 1793) và chuyển thành
nước Cộng hòa Batavia bởi Hiệp ước La Haye ngày 19.01.1795, đến trước việc từ
bỏ Phổ rồi Tây Ban Nha trong cùng một năm. Cuối cùng là trận chiến thắng lợi
của vị tướng trẻ Napoléon Bonaparte tại Ý (1796-1797), trước hết tách vùng
Piemonte (của Ý) và sau đó các nước dưới quyền Giáo hoàng ra khỏi phe Liên
minh, cuối cùng đã buộc Áo phải ký hiệp ước Campo-Formio[2] (17 tháng 10 năm
1797) chấm dứt Liên minh.
Vương quốc Anh - cường quốc chính còn chiến tranh với Pháp - tài trợ một Liên
minh thứ hai gồm Anh, Nga, Áo, Đế quốc Ottoman, Thụy Điển, Vương quốc
Lưỡng Sicilia, Đế quốc La mã thần thánh. Chính phủ Pháp thời đó vừa tham
nhũng vừa bất ổn, đã không thể chống lại các cuộc đảo chính, cũng không thể đối
mặt với sự đe dọa từ bên ngoài, thiếu các bộ trưởng giỏi như Carnot, hoặc tướng
tài như Bonaparte (vì sang Ai cập). Quân Pháp bị quân của Liên minh dưới sự chỉ
huy cuả tướng Nga Aleksandr Vasilyevich Suvorov đánh bại.
Bonaparte trao quyền chỉ huy quân đội ở Ai Cập cho tướng Jean Baptiste Kléber,
trở về Pháp làm một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng sương mù (9 tháng 11 năm
1799), lật đổ Ban đốc chính (Directoire) và lên nắm quyền. Sự đe dọa cấp bách
nhất là cuộc tấn công của Áo cùng một lúc tại 2 mặt trận ở Ý và Đức. Viên Đệ
nhất tổng tài (Napoléon) tổ chức một đạo quân gọi là trừ bị, vượt qua dãy núi Alps
sang Ý. Ngày 18 tháng 6 năm 1800 Napoléon thắng trận Marengo (Ý) và ngày 3
tháng 12 năm 1800, tướng Jean Victor Marie Moreau cũng thắng quân Áo tại

Hohenlinden (Đức). Hòa ước Lunéville[3] được ký ngày 9 tháng 2 năm 1801 giữa
Pháp và Áo.
Chỉ còn Anh là vẫn chống lại Pháp. Anh có một hạm đội mạnh, làm chủ trên biển.
Sau một chiến thắng trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở mũi Saint Vincent
(1797), rồi trận diệt hạm đội Pháp ở Aboukir (Ai Cập) ngày 1 tháng 8 năm 1798,
hạm đội Anh tiếp tục đe dọa Quần đảo Antilles thuộc Pháp, và họ đủ sức kết hợp
các cường quốc ở lục địa châu Âu chống lại Pháp. Quân đội Áo cũng vậy, mặc dù
bị nhiều thất bại, vẫn còn là một mối đe dọa đối với Pháp.
[ ] Hòa ước Amiens
Hòa ước Amiens[4] được ký ngày 25 tháng 3 năm 1802 giữa một bên là Anh và
bên kia là Pháp, đại diện cho phe Liên minh (gồm Pháp, Tây Ban Nha, Đan Mạch,
Na Uy, Cộng hòa Batavia), chấm dứt chiến tranh giữa phe Pháp và Liên minh thứ
hai. Nền hòa bình coi như không lâu dài, vì cả hai bên đều không hài lòng. Ngày
18 tháng 5 năm 1803, sự thù địch lại tái diễn, nhưng mục tiêu của cuộc xung đột
lần này chuyển từ việc tái thiết lập chế độ quân chủ ở Pháp sang cuộc đấu tranh
chống Napoléon, khi ông tuyên bố lên làm hoàng đế Pháp ngày 28 tháng 4 năm
1804 và sau đó lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1804.
[ ] Cuộc chiến trên biển


Hải quân Anh đại thắng trong trận Trafalgar.
Cuộc chiến trên biển vẫn tiếp tục, không gián đoạn. Đan Mạch - Na Uy trước kia
trung lập, làm giầu nhờ buôn bán trong chiến tranh. Sau cuộc biểu dương sức
mạnh của Anh trong trận pháo kích Copenhagen
5
năm 1801, hạm đội Anh đã bắt
giữ phần lớn các tàu của Đan Mạch trong trận pháo kích Copenhagen lần 2 (năm
1807). Đan Mạch từ bỏ thái độ trung lập và lao vào cuộc chiến cướp bóc trên biển,
dùng các đại bác nhỏ bắn vào các tàu lớn của Anh. Cuộc chiến này chấm dứt, khi
hạm đội Anh thắng trận Lyngor, đánh đắm tàu hộ tống cuối cùng của Đan Mạch.

Khi sự thù hận tái diễn vào năm 1805, thì vương quốc Anh làm chủ trên biển bằng
chiến thắng quyết định trước hạm đội Pháp - Tây Ban Nha ở Trafalgar (tây nam
Tây Ban Nha) ngày 21.10.1805 và dễ dàng đẩy lui đoàn quân viễn chinh của Pháp
tiến sang Ireland. Tuy nhiên, các trận hải chiến vẫn tiếp tục. Một trận hải chiến ở
vùng Caribbe có hậu quả trực tiếp và tức thời đối với diễn tiến của cuộc chiến, vì
đã đẩy Napoléon quay về lục địa châu Âu.
[ ] Các trận chiến với Liên minh thứ ba
6

Tháng 4 năm 1805, Anh và Nga ký một hiệp ước nhằm đẩy Pháp ra khỏi Hà Lan
và Thụy Sĩ. Sau khi sát nhập Genève vào Pháp và Napoléon tuyên bố mình làm
vua nước Ý, thì Áo cũng quay sang theo phe Liên minh. Ngày 9 tháng 8 năm 1805
Vương quốc Napoli và Thụy Điển cũng gia nhập phe Liên minh thứ ba (gồm Anh,
Nga, Áo, Thụy Điển, Vương quốc Napoli).
Phe đồng minh của Pháp gồm có Tây Ban Nha, Ý, Cộng hòa Bayern, công quốc
Baden và Württemberg. Napoléon chuẩn bị tập trung tại Boulogne (Pháp) để xâm
chiếm Anh, cuộc xâm chiếm mà Pháp cần phải làm chủ được eo biển Manche.
Ông ta lập một kế hoạch phức tạp để lôi kéo hạm đội Anh về phía các thuộc địa ở
vùng Tây Ấn (Caribbe). Quân Áo xâm chiếm CH Bayern với đội quân gồm
70.000 người do tướng Karl Mack chỉ huy. Napoléon lập tức quay về lục địa châu
Âu. Cuối tháng 7 năm 1805, Đại quân của Pháp chia ra 7 mũi lao vào quân Áo.
Tại trận Ulm (Đức) từ 25 tháng 9 tới 20 tháng 10 năm 1805, Napoléon vây hãm
tướng Karl Mack, khiến sau đó Mack phải đầu hàng. Cùng lúc đó đội quân Áo ở
phía nam dãy núi Alpes do Công tước Charles đối đầu với thống chế Pháp André
Masséna cũng không mang lại kết quả. Napoléon chiếm Wien. Nhưng đô đốc
Pháp Pierre-Charles Villeneuve thất trận ở mũi Finisterre (22 tháng 7 năm 1805)
và cố thủ tại Cadiz (Tây Ban Nha). Hạm đội này sau đó lại thua trận Trafalgar (21
tháng 10 năm 1805). Cuộc chiến quyết định này đã kết thúc ý đồ xâm chiếm nước
Anh.
Dù gặp khó khăn vì các tuyến đường tiếp tế quá kéo dài, Napoléon vẫn thắng một

trận chiến lớn trước liên quân Áo - Nga đông hơn do Sa hoàng Aleksandr I của
Nga, tướng Nga Mikhail Kutuzov và hoàng đế Franz II của Áo chỉ huy vào ngày 2
thág 12 năm 1805 tại trận Austerlitz[7] (nay là Slavkov, Cộng hòa Séc). Liên quân
Áo - Nga mất 25.000 quân, trong khi Pháp chỉ mất 7.000. Đây được coi là thắng
lợi lớn nhất của Napoléon. Áo phải ký hòa ước Pressburg (nay là Bratislava,
Slovakia) ngày 26 tháng 12 năm 1805, nhượng Venezia cho Ý (do Napoléon làm
vua) và vùng Tyrol cho Vương quốc Bayern. Liên minh thứ ba giải tán.
[ ] Các trận chiến với Liên minh thứ tư
8

Liên minh thứ tư thành hình chỉ sau Liên minh thứ ba vài tháng, gồm Anh, Nga,
Phổ, Thụy Điển và bang tự do Sachsen. Vào ngày 12 tháng 7 năm 1806, Napoléon
lập Liên bang Rhein (Rheinbund) gồm các bang trong Đế quốc La Mã thần thánh
và Đức, các bang nhỏ thì nhập vào đất công tước hoặc vào vương quốc lớn hơn.
(Các CH Bayern và Sachsen được Napoléon lập thành các vương quốc). Nước Phổ
không chấp nhận ưu thế của Pháp bành trướng tới tận cửa ngõ của mình. Ngày 9
tháng 8 năm 1806, do Anh thúc đẩy, vua Phổ Friedrich Wilhelm III ra lệnh tổng
động viên để gây chiến với Pháp. Khi đó quân đội Nga còn ở xa Phổ. Tháng 9 năm
1806 Napoléon tập trung khoảng 160.000 quân ở vùng sông Rhine rồi tiến tới Phổ
(sau đó còn thêm quân tiếp viện). Cuộc tiến quân nhanh của Pháp đã làm xẹp ý chí
chiến đấu của quân đội Phổ, gồm 250.000 người.
Quả nhiên Napoléon và thống chế Louis-Nicolas Davout đã đánh bại quân Phổ ở
các trận Jena và Auerstedt ngày 14 tháng 10 năm 1806. Quân Phổ bị chết 25.000
người, 150.000 người bị bắt làm tù binh, Pháp tịch thu 100.000 súng trường và
4.000 súng đại bác. Ngày 27 tháng 10 năm 1806, Napoléon vào Berlin. Ông ta
viếng mộ Friedrich II của Phổ và tuyên bố trước các tướng lãnh Pháp: "Nếu ông ta
còn sống thì ngày hôm nay chúng ta không thể tới đây". Tính chung Napoléon chỉ
mất 19 ngày, từ khi bắt đầu trận chiến tới khi vào Berlin. Sau thất bại này, Phổ ký
hiệp ước đình chiến tại Charlottenburg (Berlin). Tại Berlin, Napoléon ban bố một
loạt sắc lệnh, có hiệu lực từ 1 tháng 11 năm 1806, chủ trương một cuộc Phong tỏa

lục địa
9
, cấm mọi việc buôn bán với Anh trong các nước chịu ảnh hưởng của Pháp.
Quân đội Anh thời đó đã giảm bớt còn khoảng 220.000 người, đối với Đại quân
Pháp có lúc trên 1 triệu quân, kể cả quân các nước đồng minh và vệ binh. Trái lại
hạm đội Anh gây khó cho việc buôn bán hàng hải của Pháp, nhưng không gây trở
ngại cho việc buôn bán trên lục địa, và cũng không đe dọa lãnh thổ Pháp. Hơn nữa,
dân số và việc sản xuất (kỹ nghệ, nông nghiệp) của Pháp cũng vượt trội Anh. Tuy
nhiên việc làm chủ trên biển đã cho Anh một sức mạnh đáng kể, khiến cho Pháp
khó có một nền hòa bình vững chắc, và Anh cũng có thể lập Liên minh chống
Pháp bất cứ lúc nào.
Napoléon tiến lên phía Bắc để đối đầu với quân Nga và mưu toan chiếm thủ đô
mới của Phổ là Königsberg (nay là Kaliningrad (Nga), một động tác chiến thuật
trong trận ác chiến tại Eylau
10
(Phổ) ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1807, buộc Nga phải
rút lui. Sau khi chiếm Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan), Napoléon cũng thắng trận
quyết định ở Friedland ngày 14 tháng 6 năm 1807. Cuộc bại trận này buộc sa
hoàng phải ký hòa ước Tilsit
11
(Phổ) ngày 7 tháng 7 năm 1807. Mạnh vì chiếm
đưuợc các đất đai mới của Phổ, Napoléon cho tái lập nước Ba Lan khi lập Đại
công quốc Warsawa. Tại Hội nghị Erfurt (1808), Napoléon và Sa hoàng Aleksandr
I ký một hiệp định, theo đó Nga sẽ buộc Thụy Điển tham gia vào cuộc Phong tỏa
lục địa. Lời hứa này dẫn tới Chiến tranh Phần Lan (1808 - 1809) giữa Nga và
Thụy Điển, và Nga thắng. Thụy Điển bị chia cắt thành 2 phần, ranh giới ở vịnh
Bothnia, phần phía đông sát nhập vào Nga, tạo thành Đại công quốc Phần Lan.
[ ] Các trận chiến với Liên minh thứ năm
12


[ ] Cuộc chiến Tây Ban Nha
Cuộc nổi dậy của dân chúng Tây Ban Nha chống sự chiếm đóng của Pháp ngày 2
tháng 5 năm 1808 đã gây ra một cuộc chiến tại đây, và dẫn tới việc trục xuất vua
Joseph Banaparte (anh của Napoléon, làm vua Tây Ban Nha) vào năm 1814, thay
bằng vua Fernando VII của Tây Ban Nha, sau đó là việc xâm nhập miền nam Pháp.
Quân Pháp bị thua ở trận Bailén [13] (18 - 22 tháng 7 năm 1808). Napoléon phải
chuyển quân sang Tây Ban Nha và đánh bại dễ dàng liên quân Tây Ban Nha - Anh,
khiến đội quân viễn chinh của Anh phải rời bán đảo Iberia. Một cuộc tấn công từ
sau lưng của Áo làm cho Napoléon bị bất ngờ và buộc phải bỏ bán đảo Iberia.
Tình thế thay đổi, nhất là khi tướng Anh Arthur Wellesley lên nắm quyền chỉ huy
quân Anh.
[ ] Liên minh thứ năm
Liên minh thứ năm được thành lập năm 1809 gồm Anh và Áo, khi Anh đã chống
Pháp tại bán đảo Iberia, và chưa huy động các lực lượng quan trọng. Anh cũng có
các chiến thắng nhỏ tại các thuộc địa của Pháp và ở trên biển. Trên bộ, họ chỉ thử
làm cuộc tiến quân Walcheren[14] với 40.000 người tới vùng Zeeland (Hà Lan) do
Pháp kiểm soát từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809.
Cuộc đối đầu chuyển sang lãnh vực kinh tế: cuộc Phong tỏa lục địa đối kháng với
cuộc Phong tỏa trên biển mà hai kẻ thù cố gắng củng cố. Trong lúc đó Anh phải
chiến đấu chống Hoa Kỳ (cuộc chiến tranh năm 1812) và Pháp đánh nhau ở Tây
Ban Nha. Cuộc xung đột trên bán đảo Iberia bắt đầu, khi Bồ Đào Nha tiếp tục
buôn bán với Anh, bất chấp lệnh cấm của Pháp. Khi Pháp thua trận Bailén thì Tây
Ban Nha không muốn liên minh với Pháp nữa, do đó Pháp phải nhanh chóng tiến
chiếm Tây Ban Nha. Điều đó khiến Anh phải can thiệp. Áo thoáng thấy cơ hội lấy
lại vương quyền trên nước Đức của mình đã bị bãi bỏ sau trận thua ở Austerlitz,
nên quay lại đánh Pháp. Áo thắng vài trận vì quân của Davout quá yếu, chỉ có
170.000 người để bảo vệ vùng biên giới phía đông, trong khi vào năm 1790 thì số
quân là 800.000. Áo cũng tấn công Đại công quốc Warszawa, nhưng bị thua trong
trận Raszyn (19 tháng 4 năm 1809). Quân đội Ba Lan chiếm vùng Galicia phía tây.
Napoléon chỉ huy quân đội phản công Áo và thắng một loạt trận nhỏ, nhưng tới

trận lớn Aspern-Essling ngày 20 - 22 tháng 5 năm 1809, thì Napoléon bị thua về
chiến thuật. Tuy nhiên Đại công tước Charles, chỉ huy quân Áo, đã mắc sai lầm,
khi không truy kích quân Pháp. Sau đó Napoléon chuẩn bị vây hãm Wien bắt đầu
từ tháng 7 năm 1809, ông ta thắng Áo ở trận Wagram (5 - 6 tháng 7 năm 1809).
Cuộc chiến với Liên minh thứ năm chấm dứt bằng hòa ước Schönbrunn ngày 24
tháng 10 năm 1809 do Áo xin đình chiến.
Năm 1810, Đế quốc Pháp mở rộng tới mức tối đa. Napoléon kết hôn với Marie-
Louise, Công chúa Áo, để thiết lập Liên minh lâu dài với Áo và để có con thừa kế,
mà người vợ trước - Joséphine de Beauharnais - không có. Ngoài Pháp, Napoléon
cũng là vua Ý, người trung gian (và lãnh đạo) Liên bang Thụy Sĩ (Swiss
Confederation), Liên bang sông Rhine. Viên đại sứ của ông ta tại Warszawa điều
khiển không chính thức Đại công quốc Warszawa. Các đồng minh của ông ta là
Tây Ban Nha (do người anh Joseph Bonaparte làm vua), công quốc Westphalen
(do em út Jérôme Bonaparte cai trị), Vương quốc Napoli (em rể là thống chế
Joachim Murat làm vua), công quốc Lucca (Ý) và Piombio (Ý) (do em rể Félix
Baciocchi cai trị) cùng các nước cựu thù Phổ, Áo.
[ ] Các trận chiến với Liên minh thứ sáu
15

Liên minh thứ sáu gồm các vương quốc Anh, Nga, Phổ rồi Thụy Điển, Áo và CH
Bayern (từ 1813). Bên phía Pháp gồm Pháp, Đại công quốc Warsawa, Ý, Vương
quốc Napoli, Liên bang sông Rhein, Sachsen và CH Bayern (tới 1813).
[ ] Trận chiến tại Nga
Năm 1812 Napoléon xâm lấn Nga để buộc sa hoàng phải tuân thủ việc Phong tỏa
lục địa và không được xâm chiếm Ba Lan. Đại quân Pháp gồm 650.000 người,
trong đó 270.000 là quân Pháp, vượt qua sông Nemen ngày 23 tháng 6 năm 1812.
Nga tuyên bố cuộc đại chiến vệ quốc và dùng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến (đốt
sạch trước khi rút lui). Hai bên đối đầu nhau trong trận Borodino[16] (ngoại ô
Moskva) ngày 7 tháng 9 năm 1812, một trận chiến đẫm máu và buộc Nga phải rút
lui. Quân Pháp vào Moskva ngày 14 tháng 9 năm 1812, nhưng Sa hoàng

Aleksandr I không chịu thương thuyết. Napoléon cũng không hy vọng chiến thắng,
đành phải rút khỏi Nga. Đợt chiến trận tại Nga này khiến phe Pháp thiệt mất
370.000 người (kể cả bị chết vì dịch bệnh và rét lạnh, ngoài các trận đánh nhau) và
200.000 bị bắt làm tù binh. Sau trận thua ở Berezina từ 26 tới 29 tháng 12 năm
1812, quân Pháp chỉ còn khoảng 90.000. Thêm nữa, lúc đó có tin ở Paris tướng
Claude François de Malet định làm một cuộc đảo chính, nên Napoléon phải rời
đạo quân, gấp rút trở về Pháp. Bên phía Nga cũng bị mất 400.000 quân.
Sau đó, trên mặt trận Tây Ban Nha, liên quân Anh - Tây Ban Nha do tướng
Wellesley chỉ huy cũng đánh bại quân Pháp trong trận Vitoria ngày 21 tháng 6
năm 1813 khiến Joseph Bonaparte và quân đội Pháp phải tháo chạy về Pháp, kết
thúc việc chiếm đóng của Pháp trên bán đảo Iberia.
[ ] Trận chiến ở Đức
Nước Phổ vào cuộc, khi thấy có cơ hội để thắng Pháp. Napoléon tái lập một đạo
quân gồm các đội quân thoát nạn ở nước Nga trở về và mộ thêm được tổng cộng
khoảng 400.000 người. Liên quân Nga - Phổ đối đầu với liên quân Pháp ở trận
Lützen ngày 2 tháng 5 năm 1813 và trận Bautzen ngày 20 và 21 tháng 5 năm 1813,
bị thua và thiệt mất 40.000 quân. Cuộc đình chiến được ký ngày 4 tháng 6 và kéo
dài tới ngày 13 tháng 8 năm 1813. Trong thời gian này, hai phe đều tìm cách tăng
cường lực lượng. Phe Liên minh thuyết phục nước Áo tham gia chống Pháp. Phe
Liên minh lập 2 đạo quân khoảng 800.000 người, cùng với một đội quân trừ bị
chiến lược khoảng 350.000. Về phần mình, Napoléon tập hợp được khoảng
650.000 quân ở Đức, trong đó chỉ có 250.000 dưới quyền chỉ huy trực tiếp,
120.000 dưới quyền chỉ huy của Thống chế Nicolas Oudinot và 30.000 do Thống
chế Davout chỉ huy, phần còn lại là của Liên bang Rhein, CH Sachsen và Bayern.
Vương quốc Napoli của Murat và vương quốc Ý của Eugènge de Beauharnais có
một đạo quân hỗn hợp khoảng 100.000 cộng thêm 150.000 quân rút khỏi Tây ban
nha. Tổng cộng phe Pháp có khoảng 900.000 quân, nhưng các lính Đức trong phe
Pháp kém khả năng chiến đấu và có xu hướng muốn đào tẩu sang phe quân Liên
minh.
Hết thời hạn đình chiến, Napoléon tấn công và thắng trận Dresden (25 - 26 tháng 8

năm 1813), dù quân Liên minh đông hơn. Tuy nhiên tới trận Leipzig
17
, cũng gọi là
Trận đánh Liên Quốc gia từ 16 tới 19 tháng 10 năm 1813 giữa 191.000 quân phe
Pháp với 450.000 quân phe Liên minh (Đế quốc Áo, Vương quốc Phổ, Đế quốc
Nga, Vương quốc Thụy Điển), thì Napoléon thua và buộc phải rút lui.
[ ] Trận chiến ở Pháp
Các nước Liên minh muốn chấm dứt 20 năm chiến tranh và đánh bại Napoléon mà
họ gọi là "kẻ tiếm quyền". Quân Liên minh gồm 500.000 người tiến vào Pháp,
trong khi Napoléon chỉ có thể huy động được một đạo quân nhỏ gồm 70.000
người. Tuy nhiên quân Pháp đã chống trả quyết liệt quân Liên minh bị chia cắt, ở
từng tấc đất, đặc biệt ở các trận Champaubert (10 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp và
liên quân Áo - Nga, trận Montmirail (11 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp với Liên
quân Áo - Nga, trận Mormant (17 tháng 2 năm 1814) giữa Pháp vói Liên quân
Nga - Wurtemberg, và trận Montereau (18 tháng 2 năm 1814) chống Liên quân Áo
- Wutemberg.
Dù thất bại ở một số trận, nhưng phe Liên minh ký Hiệp ước Chaumont ngày 8
tháng 3 năm 1814 (gồm Anh, Áo, Nga, Phổ), quyết tâm đánh bại Napoléon. Quân
Liên minh tiến chiếm Paris ngày 30 tháng 3 năm 1814, do sự thông đồng của
thống chế Marmont (rút lui, không chiến đấu với Liên quân). Tuy nhiên, Hoàng đế
Napoléon vẫn hy vọng có thể tập hợp được 900.000 quân của mình đang ở Đức,
Bỉ, Hà Lan cùng các tân binh, nhưng kế hoạch này không thực hiện được.
Napoléon phải tuyên bố thoái vị ngày 6 tháng 4 năm 1814 tại Fontainebleau và bị
đày tới làm hoàng đế đảo Elba. Các nước Liên minh thắng trận và Pháp họp Hội
nghị Wien[18] từ 1 tháng 10 năm 1814 tới 9 tháng 6 năm 1815, quyết định trả lại
biên giới của các nước châu Âu như cũ, trước khi có cuộc Cách mạng Pháp. Trước
đó Liên minh và Pháp cũng đã ký Hiệp ước Paris ngày 30 tháng 5 năm 1815, trả
cho Pháp biên giới nguyên trạng như trước ngày 1 tháng 1 năm 1792.
[ ] Các trận chiến với Liên minh thứ bảy
19


Thời kỳ chiến tranh với Liên minh thứ bảy gồm vương quốc Anh, Nga, Áo, Phổ,
Thụy Điển, Hà Lan và một số nước nhỏ ở Đức, thường được gọi là Thời kỳ 100
ngày[20], kể từ 1 tháng 3 năm 1815 (khi Napoléon trở về Pháp) tới 18 tháng 6
năm 1815 (ngày Pháp thua trận Waterloo).
Napoléon lúc đó bị đày ở đảo Elba, nhưng ông ta trốn trở lại Pháp, nắm lại quyền
hành từ vua Louis XVIII của Pháp. Các nước Liên minh tuyên bố đặt Napoléon ra
ngoài vòng pháp luật và lập tức tập hợp một đạo quân để đánh gồm 700.000, dự
trù sẽ tăng cường thêm 1 triệu nữa, cộng với sự hỗ trợ của 200.000 quân đồn trú.
Trước khi Napoléon trở về, thì Pháp có một đội quân 90.000 người, Napoléon
triệu tập thêm các cựu chiến binh, tổng cộng được 280.000 quân và ban bố sắc
lệnh động viên 2,5 triệu quân.
Napoléon dẫn một đạo quân 124.000 người tấn công Bỉ để ngăn không cho quân
Liên minh tập trung, hy vọng đẩy được quân Anh ra biển và buộc Phổ rút khỏi
Liên minh. Cuộc tiến quân nhanh khiến cho Napoléon đạt được ý đồ gây bất ngờ
cho địch, khiến Phổ phải rút lui trong hỗn loạn ở trận Ligny (Bỉ) ngày 16 tháng 6
năm 1815 (2 ngày trước trận quyết định Waterloo). Cùng ngày thống chế Pháp
Michel Ney chận bắt các toán quân Anh do Wellesley gửi đi tiếp viện cho thống
chế Phổ Blücher ở trận Quatre-Bras (gần Brussels). Tuy nhiên Thống chế Ney
cũng không thể giải tỏa các vị trí bị vây hãm của Pháp. Napoléon đem đạo quân
trừ bị lên phía Bắc, họp chung với Ney để truy kích Wellesley. Napoléon trao cho
Thống chế Emmanuel de Grouchy giữ bên cánh hữu và ngăn không cho Phổ tập
hợp lại quân sĩ, nhưng Grouchy không thể hoàn thành nhiệm vụ, dù đã đánh bại
tướng Phổ Johann von Thielmann trong trận Wavre (Bỉ) ngày 18 - 19 tháng 6 năm
1815.
Khi bắt đầu trận quyết định ở Waterloo (Bỉ)
21
ngày 18 tháng 6 năm 1815,
Napoléon thúc quân tiến đánh Liên quân ở các vị trí cố thủ trong thung lũng này,
nhưng tới cuối ngày quân Pháp vẫn không thể đẩy Liên quân Anh - Hannover ra

khỏi các vị trí của họ. Hôm sau, khi quân Phổ tới tấn công cánh hữu của Pháp thì
chiến thuật chia cắt quân Liên minh của Napoléon hoàn toàn thất bại và phải tháo
chạy hỗn loạn.
Trở về Paris 3 ngày sau trận Waterloo, Napoléon buộc phải thoái vị lần thứ hai
vào ngày 22 tháng 6 năm 1815 và bị phe Liên minh đày ra đảo Saint Helena trên
Đại Tây Dương cho tới chết.
[ ] Các hậu quả của các cuộc chiến tranh này
Các cuộc chiến tranh của Napoléon đã có những hậu quả lớn lao trên toàn thế giới,
đặc biệt ở lục địa châu Âu:
 Pháp không còn là cường quốc thống trị châu Âu, như dưới thời vua Louis
XIV của Pháp
 Trong nhiều nước châu Âu, việc du nhập các lý tưởng và các tiến bộ của
cuộc Cách mạng Pháp (dân chủ, bãi bỏ các đặc quyền của giới tăng lữ và quí tộc,
bãi bỏ việc tra tấn, quyền bình đẳng trước pháp luật v.v.) đã để lại dấu ấn lâu dài.
Các vua ở châu Âu khó tái lập chế độ chuyên chế thời tiền Cách mạng Pháp và đôi
khi buộc phải áp dụng một số cải cách (vd. Bộ luật dân sự Pháp thời Napoléon,
được một số nước áp dụng lâu, hoặc ảnh hưởng tới luật của một số nước).
 Một phong trào mới và mạnh đã xuất hiện: chủ nghĩa dân tộc đã làm thay
đổi tiến trình lịch sử châu Âu, là sức mạnh giết chết các đế quốc. Bản đồ châu Âu
được vẽ lại hoàn toàn trong 100 năm sau các cuộc chiến này.
 Cuộc chiến ở Tây Ban Nha đã hủy hoại quân đội (hạm đội và lục quân)
nước này, tình trạng trầm trọng thêm vì các cuộc cách mạng xẩy ra ở các thuộc địa
của Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tới năm 1825 hầu như toàn bộ thuộc địa của Tây
Ban Nha hoặc đã độc lập hoặc đã sát nhập vào Hoa Kỳ (các tiểu bang Florida,
Louisiana) hoặc vào Vương quốc Anh (Trinidad) hay Haiti (Saint Domingue).
 Vương quốc Anh trở thành cường quốc bá chủ thế giới trên đất liền và trên
biển.
 Việc Pháp chiếm đóng Hà Lan (trong thời kỳ chiến tranh) đã cho phép
Pháp chiếm các thuộc địa của nước này: Tích Lan (nay là Sri Lanka), Malacca,
Nam Phi, Guyana


×