Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

trách nhiệm sản phẩm (product liability) và những vấn đề đặt ra khi xuất khẩu vào thị trường nước phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.46 KB, 118 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM (PRODUCT LIABILITY)
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI XUẤT KHẨU
VÀO THỊ TRƯỜNG NƯỚC PHÁT TRIỂN
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hương Giang
Lớp : Anh 1 Luật Kinh Doanh Quốc Tế
Khóa : 44
Giáo viên hướng dẫn : TS. Tăng Văn Nghĩa
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
3-MCPD 3- MonoChloropropane Diol Chất 3-MCPD
AFSCA
Federal Agency for the Safety of the
Food Chain
(Agence fédérale pour la sécurité de
la chaîne alimentaire)
Cơ quan chất lượng an toàn thực
phẩm liên bang Bỉ
ALI The American Law Institute Viện luật Hoa Kỳ
ASEAN
The Assosiation of the South East
Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASTA American Spice Trade Association Hiệp hội gia vị Hoa Kỳ
DIN
German Institute for Standardization


(Deutsches Institut für Normung)
Tiêu chuẩn công nghiệp Đức
DN Doanh nghiệp
DNVN Doanh nghiệp Việt Nam
DNXK Doanh nghiệp xuất khẩu
EU The European Union Liên minh châu Âu
FTC Federal Trade Commission of US Uỷ ban thương mại liên bang Mỹ
HACCP
Hazard Analysis and Critical Control
Point
Hệ thống phân tích mối nguy hiểm
và kiểm soát điểm tới hạn
JIS Japanese Industrial Standards tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản
TBT
Technical Barriers to Trade
Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong
thương mại
TQM Total Quality Management
phương pháp quản lý chất lượng
đồng bộ
TNSP Trách nhiệm sản phẩm
VASEP
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu
thủy sản Việt Nam
MỤC LỤC
2. Những nội dung chủ yếu của pháp luật trách nhiệm sản phẩm 15
2. 2. Đối tượng áp dụng Luật trách nhiệm sản phẩm 16
2. 4. Nguyên tắc về TNSP của nhà sản xuất 20
2. 5. Hậu quả pháp lý do vi phạm pháp luật trách nhiệm sản phẩm 22
ii

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập toàn cầu và tự do hóa thương mại, thị trường các nước
phát triển là những thị trường đầy tiềm năng hấp dẫn các nhà xuất khẩu. Tuy nhiên
đây cũng là những thị trường “khó tính” với yêu cầu cao về sản phẩm nhập khẩu.
Hàng hoá nhập khẩu vào thị trường các nước phát triển được kiểm soát bằng một hệ
thống luật pháp tương đối chặt chẽ vì các lý do bảo vệ quyền lợi an ninh quốc gia,
lợi ích kinh tế hoặc bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng. Hàng
hoá nhập khẩu còn bị chi phối bởi hàng loạt các quy định về trách nhiệm của nhà
sản xuất và người kinh doanh sản phẩm về việc phải bồi thường đối với các thiệt hại
do sử dụng những sản phẩm chất lượng không đảm bảo.
Doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường các nước phát triển nói
chung gặp phải những vẫn đề về trách nhiệm sản phẩm (TNSP). Thực tiễn cho thấy
nhiều doanh nghiệp đã phải bồi thường cho người tiêu dùng những khoản tiền
khổng lồ do hàng hóa có khuyết tật, thiếu an toàn gây tổn hại đến tài sản, sức khỏe,
thậm chí tính mạng của người tiêu dùng. Việc khối lượng lớn đồ chơi sản xuất ở
Trung Quốc nhập vào Mỹ bị thu hồi, các công ty thuốc lá phải bồi thường cho nhiều
bệnh nhân ung thư là một vài minh chứng. Các quy định về TNSP buộc các doanh
nghiệp phải đảm bảo độ an toàn của sản phẩm khi đưa vào lưu thông và phải cảnh
báo cho người tiêu dùng những tác động xấu của việc sử dụng sản phẩm mà họ
buộc phải thấy tại thời điểm thiết kế, sản xuất hoặc đưa sản phẩm vào thị trường. Vi
phạm nghĩa vụ này, doanh nghiệp, người sản xuất phải bồi thường những tổn hại
gây cho người tiêu dùng. TNSP còn bảo vệ người tiêu dùng ở mức độ cao hơn nữa,
đó là khi nhà sản xuất, nhập khẩu bồi thường những tổn hại gây cho người tiêu
dùng được áp dụng ngay cả khi không có lỗi của họ.
Trước thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm sản phẩm (Product
Liability) và những vấn đề đặt ra khi xuất khẩu vào thị trường nước phát triển”
để làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Hi vọng khóa luận này có thể góp một phần
1
trong việc giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thành công hơn khi xuất

khẩu vào thị trường các nước phát triển. Thành công của doanh nghiệp không chỉ là
xuất khẩu và tiêu thụ được hết hàng hóa tại thị trường đó, mà thành công này chỉ có
khi chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp tốt, đảm bảo an toàn cho người tiêu
dùng. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp có thể giải quyết được những vấn đề về trách
nhiệm sản phẩm đặt ra khi xuất khẩu.
2. Mục đích nghiên cứu khóa luận
- Làm rõ các vấn đề cơ bản về trách nhiệm sản phẩm và pháp luật trách nhiệm
sản phẩm nói chung và của một số nước tiêu biểu.
- Phân tích những thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị
trường các nước phát triển liên quan tới trách nhiệm sản phẩm.
- Đề xuất những giải pháp cho doanh nghiệp khắc phục những mặt trái, những
nguy cơ cũng như việc giải quyết tranh chấp về TNSP.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật của một số nước phát triển.
Đồng thời, khóa luận còn tập trung nghiên cứu vấn đề TNSP đang hình thành
tại Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các khái niệm, đối tượng và nguyên tắc áp
dụng của pháp luật TNSP và các án lệ liên quan đến trách nhiệm sản phẩm của 1 số
nước phát triển và một số khía cạnh về TNSP tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận này, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để
hoàn thành khóa luận bao gồm:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích và so sánh
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
2
- Chương 1: Tổng quan về trách nhiệm sản phẩm và luật trách nhiệm sản
phẩm.

- Chương 2: Vấn đề về TNSP đặt ra khi xuất khẩu vào thị trường nước phát
triển
- Chương 3: Một số đề xuất cho doanh nghiệp về TNSP khi xuất khẩu vào thị
trường nước phát triển
Tôi xin bày lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Tăng Văn Nghĩa, thầy đã tận tình chỉ
bảo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện cho tôi thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình tìm
kiếm tài liệu, thu thập thông tin và hoàn thành bản khóa luận tốt nghiệp này.
Xin trân trọng cảm ơn!
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM VÀ
LUẬT TRÁCH NHIỆM SẢN PHẨM
I. Khái quát về trách nhiệm sản phẩm
1. Khái niệm sản phẩm
Khi nói tới “Trách nhiệm sản phẩm” thì “Sản phẩm” là yếu tố cơ bản cần tìm
hiểu. Có nhiều quan niệm khác nhau về sản phẩm.
Theo Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000:2000 thì sản phẩm là kết quả của một
quá trình, trong đó “quá trình” là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc
tương tác với nhau để biến đổi đầu vào (input) thành đầu ra (output). Các chủng loại
sản phẩm phổ biến nhất gồm: hàng hóa (gồm cả phần mềm - software, phần cứng –
hardware, vật liệu chế biến - processed meterial) và dịch vụ. Khái niệm này không
dựa trên tính chất trao đổi (mua bán), chức năng hay dạng vật chất của sản phẩm để
định nghĩa mà dựa trên chu trình sống của sản phẩm. Sản phẩm chỉ trở thành hàng
hoá ở giai đoạn lưu thông sản phẩm trên thị trường.
Dưới giác độ Marketing thì sản phẩm là thứ có khả năng thoả mãn nhu cầu
mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào
bán trên thị trường với khả năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó,
một sản phẩm được cấu tạo và hình thành từ hai yếu tố cơ bản vật chất và phi vật
chất. Như vậy, theo quan điểm của cả Marketing và Tiêu chuẩn quản lý chất lượng
ISO, sản phẩm gồm 2 bộ phận: hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, theo quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành thì: “sản phẩm là kết quả của các hoạt động, các quá
trình bao gồm phần mềm, phần cứng và vật liệu để chế biến hoặc đã được chế
biến”.
1
Khái niệm này tương đồng với khái niệm hàng hóa của tiêu chuẩn Quốc tế
ISO 9000:2000.
Khi xem xét trên góc độ pháp luật, theo khái niệm của Luật Trách nhiệm sản
phẩm Nhật Bản (Luật số 85, 1994) thì thuật ngữ “Sản phẩm” có nghĩa là tài sản
1
Khoản 1, điều 3, nghị định 179/2004/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 21/10/2004 về quy
định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
4
được sản xuất hoặc chế biến có thể di chuyển được
2
. Như vậy, Đối tượng điều
chỉnh của luật này là “sản phẩm” chỉ hạn hẹp trong hàng hóa và hàng hóa đó phải là
tài sản hữu hình. Chỉ những sản phẩm đã qua chế biến mới là đối tượng điều chỉnh
của luật này, Những sản phẩm là kết quả của quá trình lao động nhưng không qua
chế biến như: khoáng sản, sản phẩm nông lâm ngư nghiệp chưa chế biến hoặc đóng
gói, các tài sản vô hình như phát minh, sáng chế, nhãn hiệu thương mại…đều không
được điều chỉnh bởi pháp luật trách nhiệm sản phẩm.
Theo chỉ thị 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu EU
thì sản phẩm là mọi động sản kể cả động sản sáp nhập trong động sản hoặc bất động
sản khác, sản phẩm bao gồm cả điện
3
. Như vậy, sản phẩm với tư cách là đối tượng
điều chỉnh của luật này mở rộng hơn quan điểm của Luật TNSP Nhật Bản, xem xét
sản phẩm trên góc độ đặc tính của chúng. Động sản ở đây có thể bao gồm cả những
nông lâm ngư sản chưa qua chế biến. Điện năng cũng được coi như một loại nhiên
liệu, một bộ phận cấu thành của sản phẩm. Trong khi đó, “Restatements 3

rd
Torts”
(luật bồi thường thiệt hại, bản sửa đổi lần thứ 3) 1997 của Hoa Kỳ định nghĩa sản
phẩm là những tài sản cá nhân hữu hình, bao gồm cả nguyên liệu chưa qua chế biến.
Quy định của pháp luật Hoa Kỳ không quan tâm tới quá trình tạo ra sản phẩm chỉ
xem xét sản phẩm trên khía cạnh hình thái vật chất và chủ thể sở hữu sản phẩm. .
Tóm lại dưới giác độ của TNSP, sản phẩm bao gồm những động sản được sản
xuất hoặc chế biến
4
, nó không phụ thuộc vào việc sản xuất theo dây chuyền công
nghiệp với quy mô lớn hay sản xuất thủ công những sản phẩm riêng lẻ
5
. Cách hiểu
này tương đồng với quy định của pháp luật ở nhiều nước về sản phẩm đồng thời
mang tính chất đặc thù của pháp luật trách nhiệm sản phẩm.
2
Nguyên văn trích Luật trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản số 85/1994: “the term “product “means
movable property manufactured or processed “
3
Nguyên văn trích chỉ thị 34/1999 về trách nhiệm sản phẩm của Liên minh châu Âu EU : ‘product’
means all movables even if incorporated into another movable or into an immovable. ‘Product’
includes electricity
4
Theo điều 2 điểm 2 luật TNSP CHLB Đức (produkthaftungsgetz sửa đổi 2002)
5
TS. Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế “, tạp
chí Nhà nước và pháp luật, (2), trang 41-49
5
2. Khái niệm về người sản xuất
Các quan niệm về sản phẩm đều đồng nhất ở điểm, sản phẩm là kết quả của

một quá trình (sản xuất hoặc/ và chế biến), điều đó dẫn tới việc cần tìm hiểu khái
niệm về chủ thể thực hiện quá trình tạo ra sản phẩm đó, cụ thể là “người sản xuất”.
“Người sản xuất” theo cách hiểu thông thường là những người làm ra sản phẩm, dù
sản phẩm của họ được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân hay kinh doanh.
Dưới giác độ nghiên cứu về TNSP thuật ngữ “người sản xuất” là tất cả
những người tham gia vào quá trình tạo biến đổi đầu vào thành đầu ra để tạo nên
sản phẩm và phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng. Họ đều được coi như là
người sản xuất thực tế của sản phẩm từ góc độ sản xuất, chế biến, nhập khẩu hoặc
kinh doanh, và những trường hợp khác do hành vi của họ nhằm mục đích kinh
doanh thu lợi nhuận. Do vậy, người sản xuất phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của
mình trước pháp luật.
Người sản xuất bao gồm:
- Những người trực tiếp sản xuất: người sản xuất thành phẩm, người chế biến
nguyên liệu thô, người sản xuất bán thành phẩm, những người tương tự như
những người sản xuất (Quasi-producers)
- những người không tham gia sản xuất: người tiêu thụ (bao gồm: người bán
hàng, người xuất nhập khẩu…)
Người sản xuất thành phẩm, người chế biến nguyên liệu thô, người sản xuất
bán thành phẩm là những người trực tiếp tham gia vào sản xuất, tạo ra sản phẩm.
Người tương tự như những người sản xuất là những người mà thông qua việc
dán tên, thương hiệu, nhãn hiệu hay đặc trưng khác của mình trên sản phẩm đã giới
thiệu mình với tư cách là người sản xuất sản phẩm này, hoặc bất cứ ai mà đặt biểu
tượng tên, v.v… trên sản phẩm thể hiện rằng mình là người sản xuất ra sản phẩm và
chịu trách nhiệm đối với sản phẩm đó.
Người không tham gia trực tiếp sản xuất gồm: người bán hàng, người xuất
nhập khẩu Đây là những người không liên quan trực tiếp quá trình sản xuất sản
phẩm nhưng tham gia vào vòng đời của sản phẩm trong quá trình phân phối tới
người tiêu dùng. Họ cũng phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm mà mình phân
6
phối khi sản phẩm đó gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Chẳng hạn, người nhập

khẩu đã không dán nhãn phụ bằng ngôn ngữ trong nước cho sản phẩm mà mình
nhập khẩu, nhằm hướng dẫn người tiêu dùng cách sử dụng, trong trường hợp người
đó dùng sai quy cách dẫn đến có thiệt hại, người nhập khẩu sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Vì thế, đối với pháp luật TNSP, họ
cũng là người sản xuất.
Tóm lại:
Người sản xuất là những người tham gia vào quá trình tạo ra và phân phối
sản phẩm nhằm mục đích kinh doanh. Họ phải chịu trách nhiệm cho những sản
phẩm của mình trước người tiêu dùng. Họ là đối tượng chịu trách nhiệm sản phẩm.
Từ phần sau của khóa luận, thuật ngữ “người sản xuất” sẽ dùng để chỉ chung
những chủ thể phải chịu trách nhiệm sản phẩm như: người sản xuất thực sự, người
tương tự người sản xuất, người phân phối, người xuất nhập khẩu
3. Khái niệm khuyết tật sản phẩm
Sau khi sản phẩm tới tay người tiêu dùng, người sản xuất vẫn phải chịu trách
nhiệm đối với sản phẩm đó nếu sản phẩm gây thiệt hại cho người tiêu dùng dù thời
gian bảo hành sản phẩm còn hay không. Trước đây, trách nhiệm sản phẩm dựa trên
nguyên tắc lỗi, người bị thiệt hại chỉ được bồi thường khi chứng minh được hành vi
có lỗi của người sản xuất có quan hệ nhân quả với thiệt hại của mình. Ví dụ, một
chi tiết máy không được lắp chặt đúng mức, người sử dụng bị tai nạn. Giám định
kết luận, chi tiết đó không đảm bảo độ an toàn. Trong trường hợp này người sản
xuất sẽ phải bồi thường do có lỗi. Trong một trường hợp khác, người tiêu dùng sử
dụng nước uống có ga, sau đó ăn kẹo Mentos và bị phản ứng phụ dẫn tới ngộ độc. Ở
đây không có lỗi của nhà sản xuất do sản phẩm đó an toàn. Tuy nhiên, người nhập
khẩu sản phẩm đó đã không dán nhãn phụ để cảnh báo đầy đủ cho khách hàng về
những khả năng nguy hiểm có thể xảy ra. Trong trường hợp này người tiêu dùng có
được bồi thường hay không?
Để bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật nhiều nước đã chuyển từ nguyên tắc
trách nhiệm dựa trên lỗi sang nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật của sản
7
phẩm. Người sử dụng bị thiệt hại không quan tâm đến lỗi của nhà sản xuất mà chỉ

cần chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại của mình và khuyết tật của sản
phẩm. không phụ thuộc vào lỗi cố ý hay vô ý của nhà sản xuất.
Dưới góc độ nghiên cứu về TNSP, có thể hiểu: “khuyết tật của sản phẩm là
sự thiếu an toàn mà một sản phẩm thông thường cần có, dẫn đến các tổn thất liên
quan đến sức khỏe, tính mạng và tài sản cho người sử dụng”
6
Khuyết tật của sản phẩm được chia thành 3 loại chính:
- Khuyết tật do thiết kế (Design defects)
- Khuyết tật do sản xuất (Manufacturing defects)
- Khuyết tật do cảnh báo không đầy đủ (Failure to warn defects)
Khuyết tật do thiết kế là những khuyết tật của sản phẩm trong trường hợp
thiệt hại do sản phẩm gây ra có thể tránh hoặc được giảm nhẹ bằng một mẫu thiết kế
hợp lý khác. Theo nguyên tắc này, nhà sản xuất phải thiết kế các sản phẩm sao cho
sản phẩm phải an toàn đối với mọi mục đích sử dụng có thể dự đoán trước. Bên
nguyên có thể kiện nhà sản xuất với lí do thân chủ của họ bị tổn hại khi sử dụng sản
phẩm mà đáng ra các tổn thương đó hoàn toàn có thể tránh được nếu nhà sản xuất
đưa ra một mẫu thiết kế phù hợp hơn. Bên nguyên cần đưa ra các bằng chứng có
tính thuyết phục và có xác nhận của các chuyên gia trong lĩnh vực liên quan về mẫu
thiết kế chưa hợp lý của nhà sản xuất. Ví dụ, một nhà sản xuất ô tô thiết kế một
chiếc xe với các bồn chứa nhiên liệu được đặt trong một vị trí mà nó có thể phát nổ
dưới tác động của tốc độ có thể được coi như một khiếm khuyết
Khuyết tật do sản xuất là những khuyết tật của sản phẩm khi sản phẩm sai lệch
với thiết kế gốc mặc dù đã thực hiện tất cả những biện pháp cẩn trọng trong quá
trình sản xuất và marketing. Một sản phẩm được coi như là có khuyết tật do sản
xuất khi sản phẩm đó không được sản xuất tuân theo đặc điểm thiết kế hoặc các tiêu
chuẩn kĩ thuật hoặc sản xuất với chất liệu không thích hợp. Khuyết tật do sản xuất
có thể phát sinh từ việc lắp ráp nhầm thiết bị, lắp ráp thiếu bộ phận, các bộ phận lắp
ráp bị biến dạng hoặc sử dụng những nguyên liệu kém chất lượng hoặc có khuyết
tật. Hiện tượng này xuất hiện khi các thành phẩm được sản xuất ra không tuân theo
6

TS. Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế “, tạp
chí Nhà nước và pháp luật, (2), trang 41-49
8
dự kiến hoặc các quy cách phẩm chất của nhà sản xuất đề ra. Ví dụ, khung xe ô tô
được hàn làm thân một máy móc thiết bị khác không phù hợp sẽ được phân loại như
là một lỗi sản xuất
Khuyết tật do cảnh báo không đầy đủ là những khuyết tật của sản phẩm trong
trường hợp thiệt hại có thể tránh hoặc giảm nhẹ nếu sử dụng những chỉ dẫn hay
cảnh báo phù hợp.
Ngoài các khuyết tật vốn có trong sản phẩm, các khuyết tật còn có thể tự
xuất hiện trong quá trình phân phối. Ví dụ, hóa chất có tính ăn mòn phải được đóng
gói trong container thích hợp. Việc không dán nhãn phụ, hướng dẫn, hoặc các cảnh
báo về một sản phẩm hay cách thức vận chuyển khi nhập khẩu cũng có thể tạo nên
khiếm khuyết cho sản phẩm. Những trường hợp gây nguy hiểm phải được cảnh báo
cho người tiêu dùng, giải thích cách sử dụng thích hợp, các trường hợp có khả năng
gây hại, và các bước giải quyết trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến sản phẩm.
Nguyên tắc dán nhãn đúng quy cách bao gồm các đơn xin bồi hoàn đính
trong brochures (tài liệu quảng cáo), sản phẩm trưng bày, và quảng cáo công khai.
Việc này phải được tự nguyện thực hiện ngoài bảo hành và các quy định bắt buộc
khác bởi vì người bán bị ràng buộc chặt chẽ các nghĩa vụ đối với người sử dụng
hoặc mua các sản phẩm dù không do người bán sản xuất.
Thậm chí khi một nhà sản xuất quảng cáo hàng hóa thông qua các phương
tiện thông tin truyền thông thì họ phải có trách nhiệm đảm bảo rằng các sản phẩm
có chất lượng tốt cho đại bộ phận công chúng, nghĩa là quảng cáo đó phải đúng sự
thực. Một số các tòa án cho phép người tiêu dùng bị thiệt hại được khởi kiện ngay
cả khi họ không đọc nhãn mác trên sản phẩm. Điều này có nghĩa là một khi quảng
cáo hướng tới đối tượng là phần lớn công chúng và làm ảnh hưởng tới quyết định
mua hàng của họ thì các nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu có
thiệt hại đối với người tiêu dùng.
Tóm lại:

Khuyết tật của sản phẩm là sự thiếu an toàn mà một sản phẩm thông thường
cần có, có thể gây thiệt hại cho người sử dụng. Khuyết tật sản phẩm là yếu tố cấu
9
thành không thể thiếu của TNSP. Người sản xuất phải thực sự chú ý lường tới các
khuyết tật trong cả quá trình sản xuất và phân phối bởi người sản xuất sẽ phải bồi
thường nếu người tiêu dùng bị thiệt hại chứng minh được mối quan hệ nhân quả
giữa khuyết tật của sản phẩm và thiệt hại của mình, dù người sản xuất có lỗi hay
không.
4. Khái niệm về trách nhiệm sản phẩm
Nghĩa vụ của người sản xuất, phân phối và tiêu thụ là phải cung cấp sản
phẩm không có khuyêt tật, không gây nguy hiểm cho người sử dụng và phải chịu
trách nhiệm đối với những sản phẩm có khuyết tật.
Có thể hiểu Trách nhiệm sản phẩm là khái niệm dùng để chỉ trách nhiệm của
nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ (kể cả người xuất khẩu) liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe khi sản phẩm có khuyết tật.
7
Trong đó, sản phẩm có khuyết tật là nguyên nhân và kết quả là thiệt hại xảy
ra cho người sử dụng hoặc người có liên quan. Như vậy, người bị thiệt hại chỉ cần
chứng minh sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó dẫn tới thiệt hại của mình. Tuy
nhiên, khuyết tật có thể xuất hiện ở một trong các khâu trong quá trình sản xuất ,
phân phối sản phẩm, người bị thiệt hại cần xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do khuyết tật đó thuộc về người sản xuất nào
8
.
Trong hầu hết các vụ việc đã được xét xử, trách nhiệm của nhà sản xuất được
xem xét theo bốn trường hợp sau
9
:
- Lỗi bất cẩn (Negligence)
- Vi phạm điều khoản bảo hành (breach of warranty)

- Miêu tả không trung thực (mispresentation)
- Trách nhiệm pháp lý tuyệt đối (strict tort liability)
Lỗi bất cẩn có thể được hiểu là nhà sản xuất đã không hoặc ít có sự quan tâm
cần thiết, đúng mức, không thực hiện một số nghĩa vụ pháp lý của mình đối với sản
7
TS. Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế “, tạp
chí Nhà nước và pháp luật, (2), trang 41-49.
8
Khái niệm về người sản xuất được nêu trong phần I. 2 chương 1 của luận văn này
9
Theo http://legal-dictionary. thefreedictionary. com/Product+Liability
10
phẩm. Nhà sản xuất đó có thể bị buộc phải chịu trách nhiệm cho những sơ sót trong
khâu sản xuất, thiêt kết, lắp ráp sản phẩm mà sơ sót đó dẫn tới thiệt hại cho người
tiêu dùng. Ví dụ, một công ty sản xuất sẽ mắc lỗi sơ xuất nếu không quản lý công
nhân thực hiện đúng quy trình sản xuất dẫn tới tạo ra một sản phẩm không đủ an
toàn.
Vi phạm điều khoản bảo hành có thể được hiểu là người bán đã không thực
hiện đầy đủ các điều khoản trong cam kết trong thời hạn bảo hành hàng hóa. Pháp
luật quy định rằng người bán phải đảm bảo thực hiện những cam kết về nghĩa vụ
bảo hành và phải chịu trách nhiệm về những cam kết đó.
Miêu tả không trung thực trong các chương trình quảng cáo và xúc tiến bán
hàng của một sản phẩm có thể hiểu là nhà sản xuất đưa tới người tiêu dùng những
thông tin sai lệch về độ an toàn cần có của sản phẩm, không cảnh báo những trường
hợp có thể gây nguy hiểm khi sử dụng, cố tình che giấu các mối nguy hiểm tiềm ẩn
hay sơ xuất khi miêu tả sản phẩm. Nguyên đơn muốn khởi cho những thiệt hại của
mình cần chứng minh khi sử dụng sản phẩm người đó đã thực sự tin tưởng vào
những thông tin mà nhà sản xuất đã quảng cáo. Lỗi miêu tả không trung thực có thể
được xét xử theo hướng đó chỉ là hành vi vi phạm điều kiện bảo hành hoặc là một
sự vi phạm pháp luật.

Trách nhiệm pháp lý tuyệt đối hay trách nhiệm không phụ thuộc vào lỗi là
việc nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp sản phẩm phải chịu trách nhiệm đối với mọi cá
nhân bị thiệt hại do sản phẩm, cho dù có lỗi hay không. Điều này cho phép người bị
thiệt hại, nhân chứng hoặc người thứ 3 đều có quyền khởi kiện nhà sản xuất trong
trường hợp có thiệt hại cho người tiêu dùng khi họ ở vị thế yếu hơn trong việc
chứng minh nhà sản xuất có lỗi hay không. Bên bị thiệt hại chỉ phải chứng minh
rằng sản phẩm đó có khuyết tật, khuyết tật đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra các
thương tích, và làm sản phẩm có những nguy hiểm không lường trước được. Xét
trên góc độ kinh tế, trách nhiệm pháp lý tuyệt đối được đặt ra xuất phát từ tiềm lực
tài chính của nhà sản xuất và khả năng san sẻ trách nhiệm với xã hội thông qua chi
phí kinh doanh và thể hiện ở giá sản phẩm.
11
Nhà sản xuất thường có trách nhiệm :
- Đảm bảo người tiêu dùng có đầy đủ thông tin cần thiết giúp họ lường trước
được những rủi ro có thể xảy ra.
- Giám sát, đảm bảo sự an toàn của các sản phẩm - ví dụ, thường xuyên thử
nghiệm các sản phẩm, lưu trữ các đăng ký, điều tra, chứng nhận chất lượng
sản phẩm.
- Có hành động tích cực nếu phát hiện trường hợp sản phẩm có khuyết tật.
- Tích cực hợp tác khắc phục hậu quả do khuyết tật của sản phẩm
- Bồi thường cho người bị thiệt hại theo phán quyết của tòa án
Những nhà phân phối, tiêu thụ sản phẩm tuy không trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm:
- Tiếp tục cung cấp những thông tin về độ an toàn của sản phẩm
- Trợ giúp giám sát an toàn của sản phẩm, chẳng hạn điều tra các khiếu nại và
thông báo cho nhà sản xuất
- Hợp tác với người sản xuất và bên thứ ba (chẳng hạn đại lý ủy quyền) trong
việc tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn sản phẩm
- Thông báo cho chính quyền về các biện pháp bảo đảm an toàn và lưu trữ các
giấy tờ, chứng nhận nguồn gốc, giấy chứng nhận bán hàng, bảo hành

- Tích cực khắc phục hậu quả nếu có thiệt hại, bồi thường theo phán quyết của
tòa án nếu khuyết tật thuộc về trách nhiệm của người phân phối.
Tóm lại:
Pháp luật TNSP các nước đều quy định các nhà sản xuất, phân phối, tiêu
thụ… đều phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm
gây ra cho người sử dụng. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên những nguyên
tắc pháp lý về sự bất cẩn, miêu tả không trung thực, vi phạm bảo hành và trách
nhiệm pháp lý tuyệt đối.
II. Khái quát về pháp luật trách nhiệm sản phẩm
1. Lịch sử phát triển của pháp luật trách nhiệm sản phẩm
12
Lịch sử của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm chủ yếu là sự biến chuyển
từng bước của học thuyết quan hệ độc lập (the doctrine of privity)
10
, theo đó người
bị thiệt hại có thể khởi kiện những người có hành vi gây lỗi chỉ khi hai bên độc lập
và có giao kết hợp đồng. Nói cách khác, một bị đơn chỉ phải chịu trách nhiệm thực
hiện những điều khoản đảm bảo an toàn được quy định trong các hợp đồng, và chỉ
một bên hợp đồng có thể khởi kiện cho các vi phạm. Điều này có nghĩa là một nhà
sản xuất bán sản phẩm có khuyết tật cho người đại lý, đại lý lại bán tới tay người
tiêu dùng là nguyên đơn thì chỉ nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của
sản phẩm. Trong trường hợp đó, người bị thiệt hại sẽ không có quyền khiếu kiện đòi
bồi thường do đã mua sản phẩm từ đại lý.
Nguồn gốc của những quy định về TNSP ban đầu là pháp luật dân sự các
nước, dựa trên cơ sở các yêu cầu đảm bảo chất lượng của nhà cung cấp trong hợp
đồng mua bán. Đồng thời Bộ luật Dân sự cũng được sử dụng như cơ sở pháp lý cơ
bản trong việc giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của nhà sản
xuất đối với những thiệt hại của người tiêu dùng do khiếm khuyết của sản phẩm.
Điều 709 Bộ luật Dân sự Nhật Bản 1896 cho phép áp dụng nguyên tắc trách nhiệm
dựa trên khuyết tật và quy định những khuyết tật đó tồn tại phải có lỗi của nhà sản

xuất. Điều 823 của Bộ luật Dân sự Đức 1896 quy định chế tài bồi thường thiệt hại
do có hành vi có lỗi của nhà sản xuất
Tuy nhiên, những quy định của Bộ luật dân sự không cụ thể và gây nhiều
khó khăn trong áp dụng. Đồng thời nguyên tắc chứng minh trách nhiệm dựa trên lỗi
gây rất nhiều khó khăn cho người bị thiệt hại. Các quy định pháp lý dựa trên học
thuyết quan hệ độc lập không có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào cho những người bị
thiệt hại. Do nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi, họ buộc phải chứng minh thiệt hại
của mình đồng thời phải chứng minh lỗi của người sản xuất, quan hệ nhân quả giữa
lỗi và thiệt hại phát sinh Một vài hợp đồng mua bán thậm chí không có chế tài đối
với trường hợp người bán gian lận hoặc giấu giếm các khuyết tật hoặc các sản phẩm
10
Theo http://legal-dictionary. thefreedictionary. com/Product+Liability
13
vốn đã tiềm ẩn nguy hiểm cho người sử dụng và cộng đồng như súng đạn, hóa chất
độc hại
11
.
Các quyết định sau đó đã bắt đầu mở rộng các trường hợp ngoại lệ. Một số
tòa án đã đặt ra các quy định về gian lận. Nguyên đơn khởi kiện hành vi giấu giếm
khuyết tật sản phẩm sẽ được bồi hoàn sản phẩm đúng chất lượng. Trong một vài
trường hợp, thuật ngữ nguy hiểm có thể xảy ra được hiểu là nguy hiểm đặc biệt do
khuyết tật của sản phẩm và không phụ thuộc vào mức độ của nguy hiểm đó. Ví dụ,
một bình cà phê có khuyết tật về thiết kế có khả năng gây nổ sẽ được coi là nguy
hiểm có thể xảy ra. Người tiêu dùng bị thiệt hại chỉ cần chứng minh sản phẩm có
khuyết tật và khuyết tật có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại của mình. Người sản
xuất sẽ phải bồi thường cho những thiệt hại đó bất kể có lỗi hay không.
Khoảng cuối thể kỷ 19, các trường hợp nguy hiểm “tiềm ẩn” hoặc “sắp xảy
ra” được mở rộng dần loại bỏ lý thuyết quan hệ độc lập. Nếu có thể dự đoán được
trước các nguy hiểm gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà người phân phối hoặc
người bán lẻ vẫn cố tình mắc sơ xuất, họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường, phạm

vi liên đới trách nhiệm không chỉ bó hẹp trong chủ thể người sản xuất.
Điều khoản về đảm bảo an toàn cũng được quy định như một phần bắt buộc
trong hợp đồng. Từ đầu thế kỷ XX, những ngoại lệ nằm ngoài lý thuyết quan hệ độc
lập phát triển tới các trường hợp liên quan đến sản phẩm dành cho nhu cầu tiêu
dùng hàng ngày (thức ăn, đồ uống, thuốc…), các sản phẩm dành cho nhu cầu xa xỉ
(ví dụ như mỹ phẩm). Những sản phẩm này không có thời gian bảo hành, nhưng
nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về độ an toàn của sản phẩm trong thời hạn sử
dụng, nghĩa vụ của nhà sản xuất được quy định thành trách nhiệm pháp lý.
Năm 1979, Luật TNSP lần đầu tiên ra đời ở Hoa Kỳ. Pháp luật TNSP của
Các nước thuộc liên minh châu Âu (EU) ra đời vào thập niên 80, và được cụ thể hóa
tại chỉ thị của Ủy ban châu Âu (EC) về trách nhiệm sản phẩm số 85/374/EEC (sau
11
Chẳng hạn thuốc diệt cỏ chứa trong các thùng màu da cam mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến
tranh Việt Nam có chứa dioxin, gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe và tính mạng những người
sống trong khu vực đó và các thế hệ con cháu. Các công ty cung cấp chất này phủ nhận trách nhiệm
đối với người Việt Nam do cho rằng mục đích của sản phẩm chỉ nhằm “khai hoang “. Tham khảo
http://dongtac. net/spip. php?article1888
14
đây gọi là chỉ thị 85), ban hành ngày 25 tháng 7 năm 1985 (được sửa đổi thành chỉ
thị 34/1999/EC năm 1999). Trên cơ sở đó, các nước thành viên EU áp dụng và xây
dựng cho mình một Luật TNSP riêng như Luật TNSP của Đan Mạch tháng 6/1989,
CH Ailen tháng 12/1991, Tây Ban Nha tháng 7/1994 … Một số nước ở châu Âu
nhưng chưa là thành viên của EU tại thời điểm đó cũng áp dụng quy định chỉ thị 85,
xây dựng Luật TNSP như Nauy tháng 1/1989, Aixlen tháng 1/1992, Hungary tháng
1/1994 …
Ở châu Á, Luật TNSP xuất hiện khá muộn như Luật TNSP Nhật Bản năm
1994 có hiệu lực tháng 7/1995; Luật TNSP Hàn Quốc năm 2001 có hiệu lực tháng
7/2002
Bên cạnh đó tại một số quốc gia, các quy định về TNSP không được tập
trung lại thành một luật riêng mà lại được đưa thêm vào luật cũ, nhằm bổ sung luật

cũ như Bộ luật Dân sự (như trường hợp của Pháp), Luật bảo vệ người tiêu dùng
(như trường hợp của Anh) hoặc Luật chất lượng sản phẩm (như trường hợp của
Trung Quốc) …
Đến nay, đa số pháp luật các nước trên thế giới đều có qui định về vấn đề
TNSP. Đặc biệt tại các nước phát triển, pháp luật TNSP rất hoàn thiện và việc thực
thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng khá hiệu quả. Điều đó vô hình chung tạo nên
một rào cản cho hàng hóa nhập khẩu xâm nhập thị trường các nước này.
Tóm lại:
Lịch sử pháp luật TNSP cho thấy quá trình phát triển và hoàn thiện của luật
TNSP. Song hành cùng sự phát triển của kinh tế thị trường, tư tưởng bảo vệ người
sản xuất dần chuyển sang tư tưởng bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. Pháp luật
TNSP chuyển từ áp dụng nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi sang trách nhiệm dựa
trên khuyết tật của sản phẩm. Điều đó giúp người tiêu dùng bị thiệt hại dễ dàng hơn
trong việc yêu cầu người sản xuất bồi thường đồng thời tăng ràng buộc trách nhiệm
của người sản xuất trong việc đảm bảo an toàn cần thiết cho sản phẩm của mình.
2. Những nội dung chủ yếu của pháp luật trách nhiệm sản phẩm
2. 1 Tổng quan
15
Để có cơ sở pháp lý cho việc quy kết trách nhiệm của nhà sản xuất đối với
thiệt hại gây nên bởi khuyết tật của sản phẩm, Luật TNSP đã được ban hành tại
nhiều nước. Luật TNSP là một lĩnh vực luật trong hệ thống pháp luật các nước, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa
người sản xuất và khuyết tật trong sản phẩm. Pháp luật TNSP là cơ sở pháp lý cho
việc quy trách nhiệm cho người sản xuất để bồi thường các chi phí tổn thất về tính
mạng, tài sản xảy ra do khuyết tật của sản phẩm. Với mục đích đó, pháp luật TNSP
góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và chế độ sản xuất hàng
hóa an toàn, lành mạnh.
Trước kia, TNSP được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự nên chỉ phát sinh
trong những hợp đồng cụ thể. Chỉ những bên liên quan trong hợp đồng mua bán
hàng hóa mới có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại. Ngày nay, pháp luật TNSP áp

dụng nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật đã cho phép bất cứ người tiêu dùng
và người thứ ba bị thiệt hại bởi khuyết tật của sản phẩm đều có thể được bồi thường
bởi bất kỳ chủ thể nào trong chuỗi phân phối sản phẩm (người sản xuất, bán hàng,
nhập khẩu…). Người sản xuất buộc phải đảm bảo sản phẩm đủ an toàn cần thiết khi
đưa vào lưu thông trên thị trường.
Nguồn của pháp luật TNSP các nước chủ yếu là luật TNSP hoặc văn bản
pháp lý tương đương, chẳng hạn: chỉ thị của Ủy ban châu Âu (EC) về trách nhiệm
sản phẩm số 85/374/EEC, Luật TNSP Nhật Bản năm 1994…Ngoài ra, tại một
TNSP còn được quy đinh trong bộ luật dân sự, bộ luật hình sự, chẳng hạn: bộ luật
dân sự Pháp quy định trách nhiệm do lỗi (Tort liability) quy định từ điều 1382-1383
của Bộ luật Dân sự; trách nhiệm hợp đồng (Contractual liability) quy định tại điều
1641 của Bộ luật Dân sự; trách nhiệm do khuyết tật sản phẩm (Defective product
liability) quy định tại điều 1386-1 đến 1386-18 của Bộ luật Dân sự và trách nhiệm
phạt bồi thường (Penal liability) quy định tại điều 222-19 của Bộ luật Hình sự.
2. 2. Đối tượng áp dụng Luật trách nhiệm sản phẩm
16
Hầu hết pháp luật TNSP các nước đều quy định các đối tượng áp dụng của
Luật trách nhiệm sản phẩm là người sản xuất
12
bao gồm: người sản xuất thành
phẩm, người chế biến nguyên liệu thô, người sản xuất bán thành phẩm, những
người tương tự như những người sản xuất (Quasi-producers) và kể cả những người
không tham gia sản xuất như người phân phối (gồm: người bán hàng, người xuất
nhập khẩu…)
Đối tượng áp dụng của luật TNSP là bất cứ cá nhân, tổ chức có hành vi tham
gia vào quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm, nghĩa là biến đổi đầu vào thành
đầu ra và đưa sản phẩm đó tới tay người tiêu dùng. Họ thực hiện hành vi đó vì mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận. Những đối tượng này được xem như là người sản
xuất thực tế của sản phẩm, từ góc độ sản xuất, chế biến, nhập khẩu hoặc kinh
doanh, và những trường hợp khác. Trong trường hợp những người có tham gia vào

quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm tuy nhiên không vì mục đích lợi nhuận,
chẳng hạn làm ra sản phẩm và đem biếu tặng…họ sẽ không phải chịu trách nhiệm
về sản phẩm của mình trước pháp luật TNSP. Đây không phải là đối tượng áp dụng
của pháp luật TNSP.
Mọi đối tượng áp dụng của luật TNSP sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho người bị thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm mà mình sản xuất hoặc phân phối.
Trong kinh doanh quốc tế, không chỉ người sản xuất là đối tượng áp dụng
của luật TNSP. Dù với tư cách là nhà sản xuất, nhà cung cấp, người kinh doanh hay
nhà xuất khẩu, DN đều phải đối mặt với rủi ro về trách nhiệm sản phẩm. Bởi trong
quy định của pháp luật TNSP các nước và thực tế áp dụng, bất kỳ một mắt xích nào
trong dây chuyền thương mại cũng đều có thể phải gánh chịu rủi ro này.
Đối tượng áp dụng của pháp luật TNSP là người sản xuất, được hiểu là mọi
đối tượng có hành vi tham gia trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm vì
mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Đây là những đối tượng có trách nhiệm bồi
thường nếu thiệt hại xảy ra. Thực tiễn các án lệ cho thấy, đối tượng bị kiện đòi bồi
thường đa phần là nhà sản xuất trực tiếp, tuy nhiên người xuất nhập khẩu cũng phải
chịu trách nhiệm liên đới. Do hệ thống luật pháp các nước phát triển rất chặt chẽ
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các doanh nghiệp có thể phải chịu
12
Khái niệm về người sản xuất đã nêu trong mục 2 phần I chương 1 của luận văn này.
17
phán quyết của tòa án với những số tiền bồi thường khổng lồ cùng chi phí pháp lý
đắt đỏ có thể dẫn đến việc phá sản của bất kỳ nhà sản xuất nào. Đây là một khó
khăn lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam khi trở thành đối tượng áp dụng của
pháp luật TNSP của các nước phát triển khi xuất khẩu vào những thị trường này.
2. 3. Nguyên tắc áp dụng Luật trách nhiệm sản phẩm
Áp dụng luật trong phạm vi quốc gia:
Đối với từng quốc gia, hệ thống pháp luật có rất nhiều quy định bảo vệ sự an
toàn của người tiêu dùng trong đó pháp luật TNSP là đạo luật chuyên ngành đóng
vai trò luật chung. Tại các quốc gia có những quy tắc pháp luật phức tạp như Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản những xung đột pháp luật phái sinh và xung đột giữa luật quốc
gia với các quy định dưới luật về độ an toàn của sản phẩm là không thể tranh khỏi.
Trong những trường hợp đó, luật chuyên ngành của quốc gia và các quy định pháp
luật của nơi có thiệt hại sẽ được ưu tiên áp dụng.
Trong những trường hợp mà Luật TNSP không đề cập, trách nhiệm của
người sản xuất, v. v đối với những thiệt hại gây ra bởi khuyết tật trong hàng hóa sẽ
phải quy kết dựa trên những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Tại Hoa Kỳ, các nhà sản xuất phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn về an toàn
của sản phẩm theo quy định của từng bang. Trong trường hợp có xung đột giữa luật
liên bang và luật trách nhiệm sản phẩm chung thì ưu tiên áp dụng luật liên bang
trước.
Tại EU: EU không có một đạo luật chung về TNSP cho toàn EU mà chỉ ban
hành các chỉ thị hướng dẫn về trách nhiệm sản phẩm. Các quốc gia thành viên phải
nội luật, dựa vào các chỉ thị đó tự xây dựng quy định về TNSP riêng cho mình,
không được mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của chỉ thị. Các nội luật đó phải được
đệ trình lên Ủy ban châu Âu xem xét, nếu được chấp nhận, các nội luật đó mới được
phép thi hành
Áp dụng luật trong phạm vi quốc tế
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, hàng hóa thường xuyên được vận chuyển
qua biên giới các nước. Các chủ thể thực hiện hợp đồng có thể mang quốc tịch khác
nhau. Khi chủ thể là người sản xuất trực tiếp, người xuất khẩu và người tiêu dùng bị
thiệt hại do khuyết tật của sản phẩm nhập khẩu có quốc tịch khác nhau, vấn đề đặt
18
ra là TNSP đối với người sản xuất được giải quyết theo luật nước nào? Chịu trách
nhiệm về sản phẩm thông thường được quy định bởi một đạo luật cụ thể của nước
người bị thiệt hại. Vì vậy, những nguyên lý của tư pháp quốc tế khó có thể áp dụng
cho những vụ kiện về TNSP.
Trong lĩnh vực mua bán quốc tế hiện nay không có điều ước quốc tế nào điều
chỉnh vấn đề trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm có khuyết tật. Điều 5
công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế quy định rõ những thiệt hại rõ

ràng do TNSP chẳng hạn như chế người, bị thương, theo công ước sẽ không được
bồi thường
13
. Do đó, tại đa số các quốc gia, TNSP thường được quy kết dựa trên
nguyên tắc Luật nơi thực hiện hành vi (lex coci delicti comissi)
14
. Nơi thực hiện
hành vi có thể là nơi thự hiện sản xuất, chế biến, bán hàng cho đến nơi xảy ra thiệt
hại trong phạm vi của một quốc gia
15
. Trong kinh doanh quốc tế, nơi thực hiện hành
vi có thể tại nhiều quốc gia khác nhau. Điều này dẫn tới hệ quả người sản xuất vi
phạm TNSP có thể phải chịu trách nhiệm theo cả pháp luật nơi có cơ sở sản xuất và
tại nước xảy ra thiệt hại. Điều này dẫn tới những xung đột nhất định trong việc giải
quyết những vụ việc tranh chấp cụ thể do pháp luật của các nước quy định không
giống nhau. Thông thường, pháp luật TNSP của nước người nhập khẩu quy định
nghiêm ngặt hơn pháp luật của nước người xuất khẩu để bảo vệ quyền lợi của công
dân nước mình. Trên thực tế, tại nhiều quốc gia pháp triển, người bị thiệt hại thường
kiện trực tiếp đến tòa án có thẩm quyền tại quốc gia họ. Tòa án sẽ căn cứ vào luật
nước tòa án thụ lý sự việc (lex fori) để giải quyết. Lex fori là nguyên tắc giải quyết
khi có xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế, theo đó tòa án áp dụng pháp luật
của nước mình để giải quyết những tranh chấp dân sự có nhân tố nước ngoài.
13
Tham khảo Công ước Vienna 1980 http://luathoc. vn/phapluat/showthread. php?p=1994
14
Lex coci delicti comissi là nguyên tắc giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế.
Theo nguyên tắc này việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ pháp luật dân sự có nhân tố nước
ngoài được giải quyết theo pháp luật của nơi thực hiện hành vi. Nguyên tắc lex loci actus được ghi
nhận trong pháp luật của nhiều nước và trong các điều ước quốc tế như Điều 7 – Bộ luật dân sự
Đức, Điều 17 – Bộ luật dân sự Italia năm 1942. Tham khảo thêm http://lawsoft. thuvienphapluat.

com/Default. aspx?CT=TVBT&c=L&P=3
15
TS. Tăng Văn Nghĩa (2008), “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế “, tạp
chí Nhà nước và pháp luật, (số 2), trang 41-49.
19
Nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật của mỗi nước và trong các điều ước
quốc tế
16
.
2. 4. Nguyên tắc về TNSP của nhà sản xuất
Nguyên tắc về TNSP là nguyên tắc bắt buộc Người sản xuất, v. v phải có
trách nhiệm đối với những thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho tính mạng, cơ
thể hoặc tài sản của người tiêu dùng hàng hóa do anh ta sản xuất, chế biến, nhập
khẩu hoặc thể hiện tên lên sản phẩm
Tùy pháp luật của từng quốc gia quy định mà người sản xuất sẽ phải chịu
TNSP dựa trên nguyên tắc trách nhiệm dựa lỗi hay nguyên tắc trách nhiệm dựa trên
khuyết tật của sản phẩm.
Nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi:
Khi luật trách nhiệm sản phẩm bắt đầu được xây dựng, người sản xuất chỉ
dựa trên nguyên tắc trách nhiệm do mắc lỗi (Negligence). Lỗi có thể hiểu là sự sơ
xuất hoặc thiếu sự quan tâm cần thiết của nhà sản xuất, người phân phối, xuất nhập
khẩu sản phẩm trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Lỗi đó phải trực
tiếp gây nên thiệt hại cho người sử dụng. Người sản xuất phải chịu trách nhiệm
trong trường hợp người bị hại chứng minh được họ có lỗi khi đưa ra thị trường
những sản phẩm không đủ an toàn.
Tuy nhiên, người sản xuất thường thường đưa người tiêu dùng vào thế bị
động, gây nhiều khó khăn cho người bị thiệt hại trong quá trình chứng minh lỗi của
nhà sản xuất. Chính vì vậy, với sự phát triển của Luật TNSP, nguyên tắc trách
nhiệm dựa trên lỗi dần được thay thế bởi nguyên tắc TNSP khác, tiến bộ hơn, tạo
điều kiện dễ dàng hơn cho người tiêu dùng đòi bồi thường thiệt hại và qui trách

nhiệm cho người sản xuất. Đó là lí do mà nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết
tật ra đời.
Nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật:
16
Ví dụ Khoản 3 – Điều 22 – Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga: “Trong trường hợp
nói ở các Khoản 1 và 2 trên đây, các cơ quan tư pháp của các nước kí kết chỉ áp dụng pháp luật của
nước mình “.
20
Nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật có nghĩa là người sản xuất, phân
phối phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại của người tiêu dùng do khuyết tật
của sản phẩm, bất kể họ có mắc lỗi hay không. Theo nguyên tắc này, quyền lợi của
người tiêu dùng được bảo vệ một cách tốt hơn. Người thiệt hại dễ dàng hơn trong
việc đệ trình các bằng chứng về khuyết tật của sản phẩm khi khiếu kiện người sản
xuất. Đây là một bước hoàn thiện hơn của pháp luật TNSP
Hiện nay, đa phần pháp luật TNSP của các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc
này. Điều đó không chỉ hữu hiệu khi người tiêu dùng bị thiệt hại mà còn có tác
dụng tăng trách nhiệm của người sản xuất. Người sản xuất buộc phải tự động tăng
cường các biện pháp đảm bảo để giảm thiểu các khuyết tật có thể có của sản phẩm.
Sản phẩm có thể bị cấm tiêu thụ nếu các sản phẩm đó không có các tiêu chuẩn có
tính khả thi để bảo vệ thỏa đáng công chúng; kiểm tra; khi xác định một sản phẩm
nguy hiểm, nhà sản xuất có thể bị yêu cầu thông báo cho công chúng biết khuyết tật
hoặc sự không phù hợp của sản phẩm đó và yêu cầu nhà sản xuất hoặc phải sửa
chữa, thay thế sản phẩm hoặc trả lại tiền cho người tiêu dùng; và đưa ra lệnh thu hồi
sản phẩm có khuyết tật hoặc yêu cầu những sản phẩm đó được sửa chữa. Tuy nhiên
chi phí cho bất kỳ hoạt động nào trong số đó cũng rất lớn. Vì vậy, khi xuất khẩu vào
các nước phát triển mà phát luật TNSP của họ áp dụng nguyên tắc trách nhiệm dựa
trên khuyết tật của sản phẩm, người sản xuất và xuất khẩu Việt Nam cần hết sức
chú ý đảm bảo giảm thiểu khuyết tật của sản phẩm.
Bên cạnh đó, khi áp dụng nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật, phạm

vi điều chỉnh của pháp luật TNSP sẽ mở rộng sang cả các loại sản phẩm tiêu dùng
phục vụ nhu cầu sống của con người như thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các sản
phẩm như mỹ phẩm, đồ may mặc, giày dép Đây là những sản phẩm mà khó có thể
chứng minh lỗi của nhà sản xuất khi áp dụng nguyên tắc trách nhiệm dựa trên lỗi.
Đối tượng điều chỉnh của luật TNSP cũng được mở rộng cho bất kỳ người sản xuất
nào mà hành vi của họ gây thiệt hại cho người tiêu dùng (người trực tiếp và không
trực tiếp tạo ra sản phẩm) kể cả người xuất nhập khẩu.
Tóm lại:
Pháp luật TNSP về cơ bản dựa trên 2 nguyên tắc đó là: nguyên tắc trách
nhiệm dựa trên lỗi và nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật. Trong đó nguyên
21
tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật là nguyên tắc cơ bản và được áp dụng rộng rãi
trong pháp luật TNSP hiện đại. Nguyên tắc trách nhiệm dựa trên khuyết tật mở rộng
phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của luật TNSP, đảm bảo quyền lợi cho
người tiêu dùng và tăng trách nhiệm của người sản xuất đối với sản phẩm của mình.
2. 5. Hậu quả pháp lý do vi phạm pháp luật trách nhiệm sản phẩm
Khi người sản xuất vi phạm Luật trách nhiệm sản phẩm, bị khiếu nại và có
phán quyết của tòa án, người sản xuất có thể phải chịu các hậu quả pháp lý sau:
- Chịu trách nhiệm dân sự hoặc thậm chí là hình sự tùy mức độ thiệt hại của
người tiêu dùng và khuyết tật của sản phẩm.
- Buộc phải bồi thường cho người bị thiệt hại và chịu các chi phí pháp lý theo
phán quyết của tòa án.
- Các sản phẩm sẽ bị kiểm tra, người sản xuất có thể bị buộc phải thu hồi sản
phẩm có khuyết tật, sửa chữa các sản phẩm có thể khắc phục được.
- Đổi sản phẩm có đủ độ an toàn cho khách hàng mà không được thu thêm
khoản phí nào hoặc hoàn trả lại tiền cho khách hàng.
- Bị cấm tiêu thụ các sản phẩm không theo đúng tiêu chuẩn an toàn cho người
sử dụng.
- Phải Tiến hành nghiên cứu thẩm định chất lượng các sản phẩm có thể gây
nguy hại; báo cáo kết quả cho cơ quan chức năng và chịu mọi chi phí cho

việc nghiên cứu đó.
- Thông báo cho công chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng về
khuyết tật của sản phẩm
- Người sản xuất là nhà xuất khẩu có thể bị buộc thu hồi sản phẩm có khuyết
tật, cấm xuất khẩu sản phẩm vào thị trường nơi gây ra thiệt hại cho người
tiêu dùng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu những rủi ro rất lớn nếu vấp phải
những vụ kiện đòi bồi thường TNSP. Nhiều vụ kiền đòi bồi thường không thỏa
22
đáng đã tiến hành đối với các bị đơn nước ngoài làm họ gặp phải nhiều khó khăn về
kinh tế, thậm chí phá sản do số tiền bồi thường trong các vụ kiện TNSP quá lớn, nó
không phụ thuộc vào hợp đồng mà trên cơ sở tính toán thiệt hại của nguyên đơn
theo luật định. Ở các thị trường khó tính, đặc biệt là Hoa Kỳ, những khoản bồi
thường này được tính toán rất bất hợp lý đối với bị đơn là doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong trường hợp DNXK phải chịu các hậu quả pháp lý khác thì thiệt hại về
kinh tế và uy tín của doanh nghiệp đều không nhỏ. Tóm lại, trong kinh doanh quốc
tế, nếu đã bị quy kết là vi phạm pháp luật TNSP, người sản xuất sẽ phải chịu hậu
quả rất nặng nề.
Tóm lại:
Sản phẩm có khuyết tật khi lưu thông trên thị trường và gây thiệt hại sẽ làm
phát sinh nhiều hậu quả pháp lý. Dù phải chịu chế tài nào, người sản xuất cũng phải
chịu những tổn thất nặng nề. Để tránh những hậu quả pháp lý này, cách tốt nhất đối
với người sản xuất phải có những biện pháp phòng trừ khuyết tật cho sản phẩm, đặc
biệt là khi sản phẩm đó được xuất khẩu sang các nước phát triển có hệ thống pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng hoàn chỉnh.
2. 6. Các trường hợp miễn trách :
Không phải lúc nào người sản xuất sản phẩm cũng phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hoặc các chế tài khác khi sản xuất và lưu thông sản phẩm. Tùy vào
pháp luật của từng quốc gia, Trong một số trường hợp đặc biệt, người sản xuất được
hưởng miễn trách nếu người đó chứng minh được

- Người sản xuất không đưa sản phẩm đó vào lưu thông, sản phẩm có thể được
người thứ 3 đưa vào lưu thông do nhầm lẫn hoặc cố ý.
- Sản phẩm được phân phối không vì mục đích kinh tế, hoặc người sản xuất
không phân phối sản phẩm đó trong quá trình kinh doanh của mình.
- Khuyết tật của sản phẩm có là do người sản xuất bắt buộc phải tuân theo các
quy định của cơ quan chức năng.
23

×