A-PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề An sinh xã hội (ASXH) đang là vấn
đề thu hút quan tâm của toàn xã hội. Sau hơn 25 năm đổi mới và phát triển,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng đất nước. Mặc dù
vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường cũng xuất hiện những mặt tiêu cực tác động đến đời sống xã
hội. Trong đó, vấn đề ASXH cần được quan tâm hơn cả. Hàng loạt các vấn
đề về ASXH nảy sinh ở các lĩnh vực đời sống, đặc biệt trong các lĩnh vực
Bảo hiểm y tế (BHYT) và ASXH cho người nghèo và những nhóm dân cư
bị thiệt thòi như trẻ em, người già, dân di cư, người khuyết tật.
Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) còn thấp (khoảng
15%). Phần lớn nông dân, lao động tự do và các đối tượng khác trong khu
vực phi chính thức chưa được tham gia BHYT hoặc người dân không muốn
tham gia BHYT do chất lượng khám, chữa bệnh theo chế độ BHYT chưa
tốt. Hệ thống chính sách trợ giúp đặc biệt (người có công) quá phức tạp,
nhiều chế độ, rất khó quản lý từ khâu giám định, xét duyệt đến chi trả trợ
cấp. Công tác xoá đói giảm nghèo chưa bền vững; nguy cơ tái nghèo cao
nhất là ở vùng thường xuyên bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn; một số chính sách bao cấp kéo dài, chậm được sửa đổi, bổ sung;
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng còn hạn chế; khoảng
cách thu nhập và mức sống giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo, giữa các
vùng kinh tế, giữa thành thị và nông thôn vẫn có xu hướng gia tăng.
Việt Nam đã thành công trong nỗ lực giảm tỷ lệ nghèo từ hơn 60%
năm 1990 xuống còn 18,1% năm 2004 (theo chuẩn cũ), năm 2008 còn 13%
(theo chuẩn mới) phần lớn nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với mức tăng
bình quân 8 - 9% mỗi năm. Duy trì được đà tăng trưởng kinh tế hiện nay là
1
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
1
điều kiện cần nhưng chưa đủ. Tăng trưởng phải đi liền với bình đẳng và
phải mang lại lợi ích cho tất cả các vùng và nhóm dân cư trong nước. Phần
đông người nghèo ở nước ta sống trong hoàn cảnh bị tách biệt về mặt địa lý,
dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế, tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng
xã hội giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư ngày càng tăng. Trong khi
các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải cách, tăng
trưởng kinh tế và hệ thống ASXH, thì tình trạng nghèo vẫn giai dẳng ở
nhiều vùng nông thôn Việt Nam và ở mức độ cao. Cùng với việc nỗ lực
trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự
tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp giảm
nghèo. Cùng với đà tăng trưởng kinh tế, điều hết sức quan trọng là phải tạo
ra các mạng lưới ASXH nhằm giúp các nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất
khỏi bị đẩy trở lại tình trạng nghèo đói do yếu sức khoẻ, tàn tật hay chi phí
giáo dục gia tăng cho con em họ.
ASXH là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta,
giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội đã được nhấn mạnh
trong các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
(Năm 2001) thì Đảng đã đề ra chính sách: “Khẩn trương mở rộng hệ thống
BHXH và ASXH. Sớm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với
người lao động. Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cho cuộc
sống của các thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động
thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội đối với người gặp rủi ro, bất
hạnh, thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia
các hoạt động đền ơn đáp nghĩa”.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đổi mới của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống ASXH
toàn diện theo hướng đảm bảo hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công
2
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
1
bằng xã hội, từng bước bao phủ hết các đối tượng trợ cấp xã hội, mở rộng
các đối tượng trợ giúp cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, em xin được chọn
nghiên cứu đề tài "Vấn đề an sinh xã hội và những thành tựu đạt được
trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam" cho bài tiểu luận của mình.
Do những hạn chế về kiến thức thực tế cũng như nguồn tài liệu , bài
tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được ý
kiến đóng góp của các thầy cô, các ban sinh viên trong lớp để bài tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn nữa.
2.Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu hệ thống hóa một số kiến thức
chung về vấn đề ASXH. Thực trạng ,thành quả hệ thống ASXH ở Việt Nam
và một số giải pháp nâng chất lượng ASXH.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng chính của đề tài là: Nghiên cứu những kiến thức tổng quan
về ASXH, thực trạng và các thành quả của hệ thống ASXH ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay; đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng ASXH ở nước nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống ASXH ở nước ta.
b. Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về Vấn đề ASXH và các thành quả
đạt được ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính
sách của Đảng, các quy định của nhà nước về luật ASXH. Đề tài nghiên cứu
3
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
1
có sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê logic, đánh giá,
so sánh để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài .
5. Ý nghĩa của đề tài
Nhằm nâng cao hiểu biết về hệ thống ASXH ở Việt nam từ đó góp
phần tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về chính sách nhân đạo của
Đảng và nhà nước ta.
Góp phần làm phong phú thêm lí luận về vấn đề ASXH; phản ánh
thực trạng và các thành tựu của hệ thống ASXH ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
Đóng góp một số ý kiến, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chât
lượng hoạt động của hệ thống ASXH ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế.
4
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
1
NỘI DUNG
Chương 1: Lí luận chung về vấn đề An sinh xã hội
1.1.Tổng quan về An sinh xã hội
1.1.1. Quá trình hình thành và ý nghĩa của An sinh xã hội
1.1.1.1.Quá trình hình thành An sinh xã hội
Lao động tạo ra con người và thông qua quá trình này con người tồn
tại. Con người ngoài chịu sự tác động với nhau còn phải chịu sự tác động
của tự nhiên, nhưng không phải lúc nào con người cũng gặp những may
mắn, thuận lợi, gặp những điều kiện sinh sống bình thường mà trong một số
trường hợp con người đã phải đối mặt với những thiên tai, dịch bệnh, hỏa
hoạn, ốm đau hay các biến cố rủi ro khác nhau. Để tồn tại và đối mặt với
các vấn đề đó con người đã liên kết, hợp tác với nhau tạo ra những phương
thức phù hợp nhằm trợ giúp nhau trong cuộc sống. Hình thức “Tích cốc
phòng cơ, tích y phòng hàn” là hình thức giản đơn nhất được cộng đồng, gia
đình, các thành viên trong xã hội lựa chọn sử dụng. Bên cạnh đó còn có một
số những biện pháp trợ giúp khác nhau có tính chất tự nguyện của cộng
đồng, tương thân tương ái với các đối tượng khác nhau trong xã hội.
Trong quá trình phát triển xã hội, nền công nghiệp và kinh tế thị
trường phát triển đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội làm xuất
hiện việc thuê mướn nhân công. Song song với sự tồn tại đó, cuộc sống của
thành viên gia đình những nhân công này phụ thuộc mật thiết vào mức thu
nhập của chính họ. Nhưng bản thân họ lại phải chịu những rủi ro, bất trắc;
do đó để tạo cơ sở cho sự ổn định cuộc sống, những nhân công này đã thông
qua một số các hoạt động của quỹ tương tế của các hội đoàn, hội bằng hữu
do những người làm thuê liên kết lập ra. Bên cạnh đó, những nhân công này
phải hợp tác với nhau để được làm việc trong những điều kiện lao động bảo
5
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
1
đảm nhằm giảm thiểu các yếu tố rủi ro xảy ra. Đây là một trong những việc
làm cần thiết buộc giới chủ phải quan tâm xem xét tạo điều kiện cho người
lao động ổn định cuộc sống. Một trong các hình thức hạn chế những rủi ro
do ốm đau, do tuổi già, do mất việc làm, do bị tai nạn phải kể đến việc thành
lập quỹ bảo hiểm ốm đau và hệ thống BHXH tại Đức từ năm 1883 đến năm
1889 dưới thời thủ tướng Bismark.
Mô hình BHXH của Đức đã phát triển và lan sang các nước khác như
Mỹ, Canada, một số nước ở Châu Phi, Châu Á và vịnh Caribe. Ngoài ra một
số quốc gia khác trên cơ sở hệ thống BHXH này đã ban hành một số đạo
luật riêng điều chỉnh về các lĩnh vực khác như bảo hiểm thất nghiệp ,bảo
hiểm tự nguyện ,…
Bên cạnh hình thức BHXH,các hình thức tương tế, cứu tế xã hội, các
hình thức cứu giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh,
các dịch vụ công cộng như dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc người già, dịch
vụ bảo vệ trẻ mồ côi, người tàn tật, người góa bụa…từng bước được phát
triển và hoàn thiện. Hệ thống ASXH được hình thành và được ghi nhận
trong các đạo luật của các nước như Đạo luật ASXH của Mỹ năm 1935.
Thuật ngữ ASXH được sử dụng trong Hiến chương Đại Tây Dương năm
1931 và được ghi nhận cụ thể trong công ước số 102 Công ước các mức tối
thiểu về an toàn xã hội ngày 27.4.1952 bao gồm các chế độ về chăm sóc y
tế, trợ cấp ốm đau, trợ giúp thất nghiệp, trợ giúp tuổi già, trợ giúp trong
trường hợp bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ giúp gia đình, trợ
cấp thai sản, trợ giúp tàn tật, trợ giúp mất người trụ cột gia đình .
1.1.1.2. Ý nghĩa của an sinh xã hội
ASXH là một biện pháp của chính sách xã hội và là một trong những
chỉ báo quan trọng về định hướng XHCN ở nước ta trong điều kiện phát
6
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
1
triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi ro,
bất trắc trong cuộc sống .
ASXH vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có giá trị về mặt xã hội,
đặc biệt nó thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc
.ASXHcó các ý nghĩa cụ thể sau :
ASXH lấy con người làm trung tâm, coi trọng quyền con người, bảo
vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực của
sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong Tuyên
ngôn về nhân quyền do Liên hợp quốc thông qua ngày 10.12.1948 đã khẳng
định : “Tất cả mọi người ,với tư cách là thành viên xã hội có quyền hưởng
bảo đảm xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh
tế ,xã hội và văn hóa cần cho sự tự do phát triển con người”.
ASXH vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp cho các đối tượng
đặc biệt có cơ hội để phát huy hết các thế mạnh của cá nhân đồng thời thể
hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo ra cơ hội giúp họ hòa
nhập vào cộng đồng.
ASXH góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội và thể hiện
truyền thống tương thân tương ái ,đoàn kết giúp đỡ nhau của cộng đồng.
ASXH góp phần phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,
giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có công
với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người
nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa …
1.1.2. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội
1.1.2.1. Khái niệm an sinh xã hội
Khái niệm ASXH là một thuật ngữ được dịch ra từ cụm từ social
security (tiếng Anh ) hoặc từ sescurites sociale (tiếng Pháp ). Đây là thuật
ngữ xuất hiện trong một đạo luật của Mỹ năm 1935. Trong đạo luật này
7
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
1
ASXH được hiểu là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị cá
nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu
ích để phát triển tài năng đến tột độ .
Thuật ngữ ASXH cũng được Tổ chức lao động quốc tế ILO ghi nhận:
“ ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua
một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế
và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo
các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.”
ASXH là một vấn đề phong phú, phức tạp, là một “khái niệm mở” nên
có thể hiểu theo hai nghĩa : nghĩa rộng và nghĩa hẹp .
Theo nghĩa rộng, ASXH bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con
người. Đó là các quan hệ hình thành trong các lĩnh vực nhằm ổn định đời
sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn
định, phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này, ASXH có thể bao gồm
các nhóm quan hệ sau :
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp .
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực căm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe
nhândân…
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực cứu trợ xã hội.
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực ưu đãi xã hội .
Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường…
Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình, trước hết và chủ yếu là những trường hợp bị giảm sút thu nhập
đáng kể do gặp những rủi ro như : Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
8
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
1
nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ thai sản, về già
cũng như các trường hợp bị thiên tai, địch họa. Đồng thời, xã hội cũng ưu
đãi những thành viên của mình đã có hành động xả thân vì nước, vì dân, có
những cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Theo nghĩa này, an sinh xã hội bao gồm ba nhóm quan hệ chủ yếu
sau:
Nhóm các quan hệ bảo hiểm xã hội.
Nhóm các quan hệ cứu trợ xã hội .
Nhóm các quan hệ ưu đãi xã hội .
Ở Việt Nam ,thuật ngữ “an sinh xã hội” được tiếp cận dưới nhiều tên
gọi khác nhau như: Bảo trợ xã hội, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội, trật tự an
toàn xã hội. Có quan điểm cho rằng ASXH trước hết là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình nhờ một loạt các biện pháp công cộng
nhằm giúp đỡ chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải do
mất đi hoặc giảm quá nhiều nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau. ASXH còn thể hiện sự giúp đỡ, chăm sóc về văn hóa, y tế và trợ giúp
cho các gia đình góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có thể nói
“Khái niệm ASXH được hiểu một cách chung nhất đó là sự bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động và gia đình khi họ bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất hoặc có các sự kiện
pháp lí khác, cho người có công với cách mạng; cho những người già cô
đơn không nơi nương tựa, cho trẻ mồ côi, cho người tàn tật, cho những
người gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, dịch bệnh và cho những
người nghèo đói trong xã hội.
1.1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội
a. Nhà nước quản lí hoạt động an sinh xã hội
9
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
1
Nhà nước có trách nhiệm trong việc tổ chức các biện pháp bảo đảm
xã hội đối với các đối tượng bị giảm hoặc bị mất thu nhập .
Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lí điều
chỉnh các hoạt động của ASXH.
Nhà nước thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của ASXH.
Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lí nghiêm
minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về ASXH.
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để thực hiện hoạt động ASXH
trong phạm vi cả nước .
b. Phải bảo đảm xã hội cho mọi người bị giảm hoặc bị mất khả năng
lao động dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập, do bị mất việc làm, do gặp
thiên tai, hỏa hoạn hoặc các rủi ro khác.
c. Thực hiện ASXH trên cơ sở sự đóng góp của các bên và sự trợ giúp
của xã hội, sự chia sẻ của cộng đồng.
d. Mức ASXH nhằm trợ giúp và bảo đảm nhu cầu tối thiểu cho những
người thụ hưởng.
e. Hoạt động ASXH được thực hiện trên cơ sở mức đóng góp của các
bên, sự trợ giúp của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cũng như sự
bảo trợ của nhà nước.
1.1.3. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
Theo khái niệm ASXH ở trên, có thể thấy: “ ASXH trước hết đó là sự
bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình. Sự bảo vệ này được
thực hiện thông qua các biện pháp công cộng. Mục đích của sự bảo vệ này
nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố, những “ rủi
ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập…”
10
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
1
Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo
thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt
động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “An sinh” cho
mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu
sắc. Có thể thấy rõ bản chất của ASXH từ những khía cạnh sau:
1.1.3.1. ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được
Liên hợp quốc thừa nhận.
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu
của ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho
tất cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc
bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình
do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi
chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn
gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm
và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức,
phương thức và các biện pháp khác nhau.
Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm
thay thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là
“Những chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những biện pháp phân
phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người
“ Yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất – TG) trong cộng
đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ
cho các thành viên của xã hội trước mọi “Biến cố xã hội” bất lợi.
11
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
1.1.3.2. ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo
khác nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội.
Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo
đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân
biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất
hạnh, những người kém may mắn hơn những người bình thường khác có
thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “Biến
cố”, những “Rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng
đồng. ASXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả
những người giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn,
giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một
mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư
tưởng mạnh ai nấy lo, “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên
sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị
trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, góp
phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
1.1.3.3. ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau,
tương thân tương ái của cộng đồng.
Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những
nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ
những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con
người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
12
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
1
ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình
diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các
tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó, những nhóm
dân cư “Yếu thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ
phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện
theo hai chiều ngang và dọc. Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là
sự phân phối lại giữa những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người
đang làm việc và người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những
người có gánh nặng gia đình. Một bên là những người đóng góp đều đặn
vào các loại quỹ ASXH hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được
hưởng trong các trường hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự
phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm người
được quyền hưởng trợ cấp (một “Tập hợp đóng” tương đối).
ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có
những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu
được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người
“yếu thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “Yếu thế”,
những người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh
những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ
sở để hệ thống ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá
trình phát triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú,
đa dạng
1.1.4.Chức năng ,vai trò của an sinh xã hội
1.4.1. Chức năng :
13
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
1
Tạo lập nên quỹ tiền tệ tập trung trong XH để phân phối lại cho
những người không may gặp phải những hoàn cảnh éo le.
Gắn kết các thành viên trong cộng đồng XH để phòng ngừa, giảm
thiểu và chia sẻ rủi ro đối phó với những hiểm họa xảy ra do các nguyên
nhân khác nhau giúp cho cuộc sống ổn định và an toàn.
Đảm bảo an toàn cho mọi thành viên trong xã hội ở mức tối thiểu về
thu nhập, dịch vụ y tế và xã hội để cho phép họ sống một cuộc sống xã hội
có ý nghĩa.
Duy trì thu nhập, khi các thành viên xã hội đang hoạt động kinh tế
hoặc mọi công dân, khi nghỉ hưu, cho phép họ duy trì được mức sống hiện
tại trong các trường hợp thất nghiệp, ốm đau, thai sản, tuổi già, tàn tật, mà
không có khả năng tạo thu nhập.
1.4.2. Vai trò
Góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội .
Khơi dậy tinh thần đoàn kết và giúp đờ lẫn nhau trong cộng đồng xã
hội .
Là chất xúc tác giúp các nước các dân tộc tìm hiểu và xích lạ gần
nhau, không phân biệt các thể chế chính trị, màu da, văn hóa.
1.1.5. Các bộ phận của ASXH
14
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
1
Về mặt cấu trúc, trên giác độ khái quát nhất, ASXH gồm những bộ phận
cơ bản là:
Bảo hiểm xã hội.
Trợ giúp xã hội.
Trợ cấp gia đình.
Các quỹ tiết kiệm xã hội.
Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…
1.1.5.1.Bảo hiểm xã hội (BHXH)
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có
BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH ra đời và phát
triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu. BHXH nhằm
bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và gia đình họ
trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm…, làm giảm
hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính lịch sử và phức tạp của vấn đề,
khái niệm BHXH đến nay cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và gần
đây có xu hướng hòa nhập giữa BHXH với ASXH. Khi đề cập đến vấn đề
chung nhất, người ta dùng khái niệm SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là
BHXH, nhưng khi đi vào cụ thể từng chế độ thì BHXH được hiểu theo
nghĩa của từ SOCIAL INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có
nghĩa là hai thuật ngữ này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu
BHXH là “ sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người
lao động khi họ mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất
hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành
15
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
1
và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo
hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động
và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng
chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia
phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ
khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ
được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của
những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và
người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt
buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ
được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ
BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không
liên quan đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức
hưởng tỷ lệ với thu nhập trước khi hưởng BHXH…
1.1.5.2.Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện
sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những
trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được
cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp
đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm
hòa nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
16
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
Trợ giúp xã hội có đặc điểm:
Thuế được dùng để tài trợ cho các chương trình xã hội đa dạng để
chi trả trợ cấp.
Trợ cấp được chi trả khi các điều kiện theo quy định được đáp ứng.
Thẩm tra tài sản (thu nhập, tài sản và vốn) thường dùng được xác
định mức hưởng trợ cấp.
1.1.5.3.Trợ cấp gia đình
Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ BHXH dựa
trên những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để
gắn với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn
những người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông
con…
1.1.5.4.Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các
quỹ tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi
sự cố xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những
quy định.
Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời,
không chia sẻ rủi ro cho người khác…
17
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
1
1.1.5.5.Dịch vụ xã hội khác
Quy định thêm về ASXH dưới các hình thức khác.
Khi không có hệ thống ASXH. Có thể được thực hiện bởi các tổ chức
tự nguyện hoặc phi Chính phủ.
Bao gồm các dịch vụ đối với người già, người tàn tật, trẻ em, phục
hồi chức năng cho người bị tai nạn và tàn tật, các hoạt động phòng chống
trong y tế (ví dụ tiêm phòng), kế hoạch hóa gia đình.
1.2. Mô hình tổ chức và cơ chế tài chính của hệ thống ASXH.
1.2.1. Về mô hình tổ chức của hệ thống an sinh xã hội: Một số
quốc gia xem việc cung cấp các điều kiện đảm bảo ASXH là công việc của
Chính phủ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ, một số quốc gia khác lai coi
công việc này thuộc sự quản lý của cộng đồng hoặc các tổ chức ngoài Chính
phủ. Tương tự, chương trình ASXH ở một số quốc gia do Chính phủ trung
ương quản lý trong khi một số quốc gia khác lại do chính quyền địa phương
quản lý. Như vậy, thiết kế mô hình và tổ chức thực hiện an sinh xã hội tùy
thuộc vào lựa chọn chính sách của mỗi quốc gia cũng như các điều kiện đặc
thù về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và lịch sử. Khảo lược các công
trình ở một số quốc gia phát triển cho thấy có thể khái quát thành 3 mô hình
chủ yếu :
Mô hình công cộng hoặc bán công cộng: Đây là mô hình mà đối
tượng thụ hưởng được xác định theo phân nhóm hoặc mức độ đóng góp
trước đó.
18
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
1
Mô hình đóng góp: Thụ hưởng phụ thuộc vào tài sản có trong tài
khoản hưu trí cá nhân.
Mô hình tự nguyện hoặc bán tự nguyện: Có thể do Chính phủ hoặc
tư nhân quản lý, mức độ thụ hưởng và đóng góp được xác định theo cách
thức chung.
Ngoài ra, còn có một số mô hình đặc thù Nhà nước bao cấp toàn bộ
theo nguyên tắc bình quân như của Liên Xô và một số nước Xã hội chủ
nghĩa trước đây. Mô hình của Mỹ xác định sự thụ hưởng dựa trên nguyên
tắc có đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Mô hình này là sự “pha trộn”
giữa mô hình công cộng và mô hình tự nguyện với việc huy động sự quan
tâm của toàn xã hội theo nguyên tắc bảo hiểm (lấy số đông bù số ít).
1.2.2.Về cơ chế tài chính của hệ thống an sinh xã hội:
Mức đóng góp và chi trả là nội dung rất quan trọng trong việc đảm
bảo sự thành công của tất cả các mô hình an sinh xã hội. Nguyên tắc chung
là: sự thụ hưởng trong tương lai phụ thuộc vào những đóng góp ở hiện tại.
Tuy nhiên, những biến động khó dự đoán của lãi suất, lạm phát đã tác động,
gây khó khăn cho những tính toán ban đầu. Do đó, đóng góp theo tỷ lệ nào,
đóng bao nhiêu và mức chi trả căn cứ vào tiêu chí nào đang là nội dung gây
nhiều tranh luận. Bên cạnh đó, cơ chế đảm bảo cho những người tàn tật -
không có khả năng đóng góp trong hiện tại sẽ phải giải quyết như thế nào để
đảm bảo một hệ thống an sinh xã hội vừa mang tính trợ giúp, vừa mang tính
nhân đạo cũng là một chủ đề được quan tâm.
Một số nghiên cứu mới đây chỉ ra những thách thức đang đặt ra đối
với cơ chế tài chính trong việc đảm bảo hệ thống an sinh xã hội hoạt động
19
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
bền vững và hiệu quả, đó là tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tuổi thọ ngày càng
tăng, tỷ lệ số người làm việc trên số không làm việc có xu hướng giảm…
làm cho việc đảm bảo nguồn chi trả trong tương lai khó bền vững.
Mặt khác, để đảm bảo cho hệ thống an sinh xã hội hoạt động ổn định
thì phải có nguồn thu ổn định, được luật hóa hoặc có khế ước chặt chẽ. Nếu
hệ thống an sinh chỉ dựa vào những đóng góp của cộng đồng, các chương
trình tài trợ… sẽ không đảm bảo các khoản chi tương đối lớn và ổn định.
Trong sự phát triển hệ thống an sinh xã hội, nổi lên một số xu hướng chủ
yếu:
Thứ nhất, xã hội hóa công tác an sinh xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu
như Altig David, John Baldock, Barnhart, Reder Harris, Jonh Sabelhaus,
Michael Simpson chỉ ra rằng các khoản đóng góp hiện tại mặc dù là cơ sở
cho thu nhập trong tương lai nhưng giá trị nhận được của đối tượng an sinh
xã hội thường thấp hơn những gì mà cá nhân đó đóng góp. Nguyên nhân
được các tác giả phân tích do thiếu cơ chế quản lý tài chính phù hợp và họ
đề xuất quản lý theo nguyên tắc bảo hiểm, Nhà nước tạo lập hành lang pháp
lý, việc thu và quản lý những đóng góp của người lao động sẽ do các công
ty chuyên ngành đảm nhận. Các công ty này sẽ sử dụng số tiền đó để kinh
doanh, sinh lời như các công ty bảo hiểm hiện nay và thực hiện chi trả trong
tương lai nhằm đảm bảo lợi ích (số tiền sinh lời) của những người tham gia.
Tất nhiên, nhóm đối tượng không đóng góp trong hiện tại (tàn tật, mất khả
năng lao động…) sẽ có cơ chế chi trả riêng, có thể do Nhà nước đảm nhận
hoặc Nhà nước ban hành những quy định cụ thể để các công ty hoạt động
trong lĩnh vực này đảm nhận chi trả theo một tỷ lệ và nguyên tắc phù hợp.
20
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
Thứ hai, cải cách hệ thống an sinh xã hội theo hướng tư nhân hóa. Tư
nhân hóa ASXH là nội dung gây tranh cãi nhất trong các vấn đề liên quan
đến ASXH không chỉ với giới nghiên cứu. Những người ủng hộ tư nhân hóa
hệ thống ASXH cho rằng cải cách theo hướng tư nhân hóa là phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội hiện tại và tương lai, đảm bảo lợi ích cho những
người có đóng góp trong hiện tại, đồng thời vẫn duy trì mạng lưới an sinh
tốt đối với những người không có khả năng đóng góp. Xuất phát từ thực tiễn
hoạt động của hệ thống an sinh ở một số quốc gia, nhóm những người phản
đối lại cho rằng hệ thống an sinh xã hội cần được điều hành bởi Chính phủ
vì việc đảm bảo quyền lợi của bộ phận dân cư nghỉ hưu hoặc những người
không có khả năng lao động, vị “Thiệt thòi” là trách nhiệm của nhà nước.
Bên cạnh đó, chỉ có nhà nước mới đảm bảo tính ổn định, bao quát và công
bằng đối với tất cả các cư dân của mình, đồng thời đảm bảo về mặt tài chính
- nhân tố quan trọng cho hệ thống ASXH tồn tại.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, vai trò của hệ thống ASXH
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ngày càng to lớn.
ASXH góp phần ổn định đời sống của người lao động. Hệ thống ASXH sẽ
góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm
đau, mất khả năng lao động, mất việc làm, hoặc chết…
Hệ thống ASXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt
đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và
đang phấn đấu, đó là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.3. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam
21
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
1
1.3.1. Bảo hiểm xã hội
Khái niệm
BHXH là một chế định pháp lý nhằm bảo vệ người lao động bằng cách
thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động,
người sử dụng lao động, cộng với sự hỗ trợ của Nhà nước, thực hiện việc
trợ cấp vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người tham gia BHXH và
gia đình họ trong những trường hợp quy định.
Chế độ:
Chế độ trợ cấp ốm đau
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Chế độ trợ cấp thai sản
Chế độ hưu trí
Chế độ tử tuất
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Đặc điểm
Về Hình thức : Gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Về Đối tượng tham gia: Người lao động làm công ăn lương và người
lao động tự do.
22
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
1
Về Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội: Do người sử dụng lao
động đóng góp, người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình,
nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
1.3.2. Bảo hiểm y tế.
1.3.2.1. Khái niệm:
Bảo hiểm y tế là một hình thức bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm
sẽ được cơ quan bảo hiểm trả thay một phần hoặc toàn bộ chi phí khám
chữa bệnh cũng như chi phí mua thuốc men khám chữa bệnh .
1.3.2.3. Đặc điểm :
Về đối tượng của người được bảo hiểm y tế: Sức khỏe của đối tượng
được bảo hiểm.
Về hình thức: Bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện.
Về nguồn hình thành quỹ bảo hiểm y tế: Ngân sách nhà nước cấp ;tài trợ
của các tổ chức xã hội ,từ thiện ;phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo
hiểm ; phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động .
1.3.3. Cứu trợ xã hội
1.3.3.1. Khái niệm :
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của
Nhà nước và cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và
rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu…dẫn đến
mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn, nhằm giúp họ đảm
23
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
1
bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên
cuộc sống bình thường .
1.3.3.2. Đặc điểm :
Về đối tượng của cứu trợ xã hội: Là người nghèo và hộ gia đình
nghèo ,người già cô đơn ,trẻ em mồ côi ,người tàn tật ,nhiễm HIV/AIDS ;
nạn nhân của thảm họa thiên tai,lũ lụt ,hạn hán …
Về hình thức cứu trợ xã hội :
Theo mức cứu trợ gồm : Cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất .
Theo hình thức cứu trợ gồm: Cứu trợ bằng tiền và cứu trợ bằng hiện
vật.
Về nguồn tài chính cứu trợ xã hội : Ngân sách nhà nước là chủ yếu,
Từ trong nhân dân, các tổ chức đoàn thể (Hội người mù, Hội người
cao tuổi, Làng trẻ mồ côi SOS, viện dưỡng lão…)
Từ sự trợ giúp quốc tế.
1.3.4. Ưu đãi xã hội
1.3.4.1. Khái niệm :
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về thể chất và tinh thần của Nhà
nước và xã hội nhằm ghi nhận và đền đáp công lao đối với những cá nhân,
tập thể có cống hiến đặc biệt cho cộng đồng xã hội.
1.3.4.2. Đặc điểm
24
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
1
Về Đối tưởng hưởng ưu đãi là : Những người có công với cách mạng:
liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh
Những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất
nước trong mọi lĩnh vực: nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà khoa học, bác học, anh
hùng lao động…
Về hình thức ưu đãi
Ưu đãi về vật chất: Trợ cấp bằng tiền, hiện vật, trợ cấp nghỉ dưỡng,
du lịch, …
Ưu đãi về tinh thần: Tặng bằng khen, huân chương, phong tặng danh
hiệu (Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân,
Nghệ sĩ ưu tú…); dựng tượng đài, đặt tên đường, tên trường học, bệnh viện
…, ưu tiên cho con em chính sách trong giáo dục đào tạo (miễn giảm học
phí…)
Về Nguồn tài chính: Ngân sách nhà nước là chủ yếu ; sự đóng góp
của các tổ chức Kinh tế-xã hội, cá nhân .
1.4. Mối quan hệ giữa an sinh xã hội với phát triển kinh tế
ASXH là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến nền kinh tế của
mỗi quốc gia, nhất là khi quy mô và diện bảo vệ của ASXH ngày càng được
mở rộng.
Qua các thời kì lịch sử, Việt Nam luôn coi ASXH là phương sách
quan trọng nhất trong duy trì sự ổn định và phát triển đất nước. Tuy nhiên
25
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
1