Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.07 KB, 75 trang )

Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Đề tài
Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Mục lục
Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 3
Chương I. Các vấn đề chung và Chính sách quản lý nhà nước 5
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam 5
1.1. Tình hình chung về quản lý, sử dụng tài nguyên khoáng sản 5
1.2. Các khái niệm chung 12
1.2.1. Khoáng sản 12
1.2.2. Chính sách quản lý 16
1.2.3. Sự cần thiết quản lý 19
1.3. Chính sách, pháp luật hiện hành về quản lý tài nguyên 24
1.3.1. Quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản 24
1.3.2. pháp luật (luật tài nguyên khoáng sản) 26
1.4. Các công cụ khác 34
1.4.1. Quyết định cá biệt 34
1.4.2. Công văn 40
1.4. Một số chính sách thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên 42
Chương II. Thực trạng quản lý tài nguyên khoáng sản 46
2.1. Tình hình quản lý về tài nguyên khoáng sản 46
2.1.1. Công tác điều tra thăm dò 47
2.1.2. Công tác lập quy hoạch, chiến lược 47
2.1.3. Công tác cấp phép hoạt động khoáng sản 47
2.1.4. Sử dụng công nghệ trong ngành khai khoáng 48
2.2. Quản lý nhà nước về một số loại khoáng sản đặc biệt 49
2.2.1. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm có dầu khí, than khoáng, urani và địa nhiệt 49
2.2.2. Nhóm khoáng sản kim loại 50
2.2.3. Nhóm khoáng chất công nghiệp 51


1
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
2.2.4. Nhóm vật liệu xây dựng 51
2.2.5. Nhận xét 52
2.3. Một số tồn tại và bất cập trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản 52
2.3.1. Về tư duy, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về bảo vệ tài
nguyên khoáng sản: 56
2.3.2. Về xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
và huy động nguồn lực để bảo vệ tài nguyên khoáng sản: 58
2.3.3. Trong thực hiện nhiệm vụ, hoạt động bảo vệ tài nguyên môi trường: 60
Chương III. Hoàn thiện quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản 61
3.1. Mục đích, yêu cầu và tổng thể biện pháp quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản 61
3.1.2. Đổi mới, hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để chủ động với bảo vệ tài nguyên 63
3.1.3. Kiện toàn và tăng cường cơ quan tham mưu cho Đảng, Quốc hội, bộ máy quản lý nhà nước,
xây dựng và pháp triển nguồn nhân lực về quản lý tài nguyên 66
3.1.4. Tăng cường huy động nguồn tài chính cho quản lý tài nguyên 67
3.2. Các biện pháp Fnh theo thời gian 67
3.2.1. Biện pháp ngắn hạn 67
3.2.2. Biện pháp dài hạn 72
2
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, nhu cầu tiêu thụ khoáng sản trong và ngoài nước tăng
mạnh, dẫn đến hiện tượng khai thác khoáng sản tràn lan, gây tổn thất lớn tài
nguyên khoáng sản, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nhằm góp phần
quản lý, sử dụng tiết kiệm có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, Nhà nước cần
nghiên cứu xây dựng các chính sách tài chính trong lĩnh vực hoạt động khoáng
sản sao cho cân đối lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư trên cơ sở sử dụng tối đa,

có hiệu quả tài nguyên khoáng sản trong lòng đất.
Khoáng sản là tài nguyên có hạn, hầu hết không tái tạo. Vì vậy, trong
nhiều thập kỷ gần đây, Chính phủ cũng như các nhà nghiên cứu nhiều nước trên
thế giới đã đưa ra những lời cảnh báo về tình trạng cạn kiệt tài nguyên khoáng
sản. Trong số các nguyên nhân làm cho tài nguyên khoáng sản cạn kiệt nhanh
chóng có những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan đó là tài nguyên không tái tạo được, trong khi
đó nhu cầu về nguyên liệu khoáng cho sự phát triển đòi hái ngày càng tăng. Để
hạn chế nguyên nhân này, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu và
đưa vào ứng dụng các sản phẩm thay thế. Nhưng, giải pháp này cũng chỉ giải
quyết được một phần rất nhá yêu cầu đặt ra. Lý do cơ bản là nhu cầu của thế
giới về sản phẩm từ nguyên liệu khoáng ngày càng tăng với tốc độ rất nhanh,
nước ta cũng không phải là ngoại lệ.
Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta ban hành một số chính sách tài
chính chưa thực sự phù hợp với đặc thù của tài nguyên khoáng sản, chưa được
nghiên cứu đầy đủ cơ sở khoa học và thực tiễn dẫn đến tổn thất đáng kể tài
nguyên khoáng sản. Thông thường, khi quyết định phương án đầu tư vào hoạt
động khoáng sản (HĐKS), nhà đầu tư căn cứ vào các khoản thu của Nhà nước
(theo quy định), các chi phí cần thiết và giá cả thị trường của sản phẩm nguyên
liệu khoáng.
Trong trường hợp nhà đầu tư quyết định phương án khai thác thì họ sẽ
chọn phương án có thu nhập cao nhất, thu hồi vốn đầu tư nhanh nhất. Như vậy,
3
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
họ sẽ chọn khai thác khu vực (điểm) có điều kiện khai thác thuận lợi (đất phủ ít,
điều kiện địa chất thủy văn, địa chất công trình ít phức tạp, điều kiện giao thống,
các dịch vụ khác thuận lợi nhất) và quặng có chất lượng tốt nhất (quặng giàu,
tính khả tuyển cao).
Theo đó, tài nguyên thu hồi được là thấp nhất dẫn đến sản phẩm cung cấp

cho xã hội ít (trên mỗi khu vực khai thác) hơn khả năng có thể. Từ đó, Nhà nước
thất thu (do sản lượng thu hồi thấp), tổn thất tài nguyên nhiều (khó khai thác
lại). Vì lẽ đó, trên thế giới, khi triển khai dự án đầu tư khai thác khoáng sản nào
người ta tính toán cân bằng các lợi ích: Nhà nước (bao gồm cả người dân, nơi có
khoáng sản được khai thác) và nhà đầu tư. Và các khoản thu đều được tính trên
cơ sở bài toán cân bằng các lợi ích trên.
Thời gian qua, nhu cầu tiêu thụ khoáng sản trong và ngoài nước tăng
mạnh, dẫn đến hiện tượng khai thác khoáng sản tràn lan, gây tổn thất lớn tài
nguyên khoáng sản, gây á nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh đó, cùng
với các quy định hiện hành về chính sách tài chính trong lĩnh vực khoáng sản
không những gây tổn thất lớn tài nguyên khoáng sản mà còn gián tiếp gây thất
thu ngân sách.
Nhằm lập lại trật tự trong hoạt động khai thác khoáng sản, các chính sách
tài chính thường xuyên được thay đổi, theo chiều hướng tăng thu trên đưn vị sản
phẩm khoáng sản. Hiện nay, các khoản thu trong hoạt động thăm dò, khai thác
khoáng sản có rất nhiều, gồm thuế các loại: Thuế tài nguyên, thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu (nếu khoáng sản xuất khẩu),
thuế BVMT (đối với than); phí và lệ phí các loại. Để góp phần quản lý, sử dụng
tiết kiệm có hiệu quả tài nguyên khoáng sản, Nhà nước cần có các chính sách tài
chính hài hòa, phù hợp với đặc thù của tài nguyên khoáng sản. Để đạt được mục
tiêu đó, Nhà nước nghiên cứu hoàn thiện các chính sách tài chính trong lĩnh vực
HĐKS sao cho cân đối lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư trên cơ sở sử dụng tối
đa, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản trong lòng đất. Do đó, để hoàn thiện
chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên khoáng sản để đạt được mục tiêu
phát triển nhanh, bền vững là rất quan trọng và cần thiết.
4
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Chương I. Các vấn đề chung và Chính sách quản lý nhà nước
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam

1.1. Tình hình chung về quản lý, sử dụng tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản là nguồn lực quan trọng để công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước, là nguyên liệu cho rất nhiều ngành kinh tế như sản xuất năng
lượng, vật liệu xây dựng, các kim loại, các khoáng chất công nghiệp phục vụ
công nghiệp và nông nghiệp. Trên thế giới, một số nước và vùng lãnh thổ đã cạn
kiệt tài nguyên khoáng sản như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Bỉ…,
một số nước, vùng lãnh thổ nghèo tài nguyên khoáng sản như Singapo, Hồng
Kông, Bangladesh đã phải chi khoản kinh phí rất lớn hàng năm để nhập khẩu
khoáng sản.
Trên các diễn đàn quốc tế bên cạnh thuật ngữ an ninh năng lượng và
an ninh lương thực đã được sử dụng rộng rãi, thuật ngữ an ninh nguyên
liệu khoáng bắt đầu xuất hiện. Các nhà kinh tế học trên thế giới cho rằng tài
nguyên khoáng sản có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển nói chung và đặc
biệt quan trọng cho các nước đang phát triển. Do đó, các quốc gia cần thực thi
những chính sách hợp lý để quản lý tài nguyên khoáng sản và bảo tồn di sản địa
chất. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chung quan điểm cho rằng các
nguồn tài nguyên thiên nhiên là lợi thế xuất phát điểm cho sự nghiệp phát triển
của đất nước. Do vậy, để bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng
sản trước hết cần đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về địa chất - khoáng sản
làm căn cứ cho việc định hướng các hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản.
- Vai trò của việc điều tra cơ bản địa chất khoáng sản
Để góp phần đảm bảo”an ninh khoáng sản”cho công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo hướng bền vững, việc điều tra, khảo sát, đánh
giá chính xác các loại khoáng sản của đất nước có một vai trò hết sức quan
trọng. Từ những kết quả điều tra đó, chúng ta có thể hoặch định được những
chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển có tính khả thi phục vụ cho khai
thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản cho từng thời kỳ phát triển của đất
nước.
5
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II

về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
- Tổng quan về chính sách điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng
sản và di sản địa chất của một số nước trên thế giới.

Khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo. Việc khai thác và sử dụng
chúng đáp ứng các nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội cần phải xuất phát
từ những đặc thù cơ bản của tài nguyên khoáng sản. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều chung quan điểm cho rằng các nguồn tài nguyên thiên nhiên là lợi
thế xuất phát điểm cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Do vậy, để bảo vệ,
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản trước hết cần đẩy mạnh công
tác điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản làm căn cứ khoa học cho
việc định hướng các hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng
sản.
Khoáng sản có tính đặc thù, là sự ưu đãi mà thiên nhiên chỉ dành cho một
số quốc gia nhất định tùy theo điều kiện địa lý, địa chất. Vì thế, nên đạo luật về
khoáng sản không phải quốc gia nào cũng có. Ở một số nước có tiềm năng
khoáng sản dồi dào như Canađa, Úc, Philippin, Chilê, Trung Quốc , pháp luật
về khoáng sản rất hoàn thiện và được chú trọng. Đây cũng chính là những kinh
nghiệm quý báu để các nhà làm luật Việt Nam tham khảo trên bước đường sửa
đổi Luật Khoáng sản của mình.
TạiTrung Quốc:pháp luật tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc quy
định rằng, tất cả các nguồn tài nguyên khoáng sản đều thuộc về sở hữu nhà nước
và sự thay đổi về quyền sở hữu đất trên đó có khoáng sản cũng không hề ảnh
hưởng gì đến sự sở hữu khoáng sản vì chúng luôn thuộc về nhà nước. Trong
pháp luật về khoáng sản của Trung Quốc quyền khai thác cũng được đảm bảo.
Tuy nhiên, điều luật quy định rằng chủ giấy phép”có quyền tiến hành hoạt động
thăm dò trong khu vực được chỉ định và được ưu tiên có quyền khai thác trong
khu vực thăm dò”. Cách diễn đạt này khác với nhiều luật khai khoáng khác dùng
thuật ngữ”độc quyền”– là khái niệm mạnh hơn so với”quyền ưu tiên”. Để tránh
tình trạng đầu cơ, luật cũng quy định nghiêm cấm việc trục lợi bằng đầu cơ

6
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
quyền thăm dò và khai thác. Hơn nữa, chủ giấy phép phải đầu tư chi phí thăm dò
tối thiểu.
Tại Philippin:Cách đây 15 năm, năm 1995 Philippin đã thông qua luật
khai thác khoáng sản mới. Tuy được đánh giá là quốc gia đứng thứ 5 trong số
các nước có nhiều khoáng sản nhất trên thế giới, nhưng môi trường luật pháp và
chính sách của Philippin lại bị chỉ trích rất nhiều vì tính không nhất quán trong
luật và tính không chắc chắn liên quan đến áp dụng các điều khoản của luật. Cụ
thể, Luật Khai khoáng Philippin quy đinh rằng cả đất công và đất tư, kể cả đất
rừng đều có thể được đưa vào khai thác. Thế nhưng điều khoản trên đã bị chỉ
trích rằng luật dường như cho phép thực hiện các hoạt động khai khoáng trên
toàn bộ diện tích đất nước không loại trừ cả các khu vực được coi là thiết yếu về
sinh thái. Giấy phép thăm dò ở Philippin được cấp với thời hạn 2 năm và có thể
gia hạn. Luật quy đinh rằng, giấy phép thăm dò sẽ đảm bảo cho chủ giấy quyền
vào, chiếm giữ và thăm dò khu vực liên quan. Theo nhiều chuyên gia, cách diễn
đạt này không nói gì đến độc quyền nào liên quan đến thăm dò, chính vì vậy mà
sự độc quyền thăm dò không được khẳng định rõ ràng.

Di sản địa chất (DSĐC) là phần tài nguyên địa chất có giá trị nổi bật về
khoa học, giáo dục, thẩm mỹ và kinh tế. Chúng bao gồm các cảnh quan địa mạo,
các miệng núi lửa đã tắt hoặc đang hoạt động, các hang động, hẻm vực sông, hồ
tự nhiên, thác nước, các diện lộ tự nhiên hay nhân tạo của đá và quặng, các di
chỉ cổ sinh; các thành tạo, cảnh quan còn ghi lại những biến cố, bối cảnh địa
chất đặc biệt; các địa điểm mà tại đó có thể quan sát được các quá trình địa chất
đã và đang diễn ra hàng ngày, thậm chí cả các khu mỏ đã ngừng khai thác v.v…
Hội nghị quốc tế lần thứ hai về Bảo tồn di sản địa chất và cảnh quan thiên
nhiên họp tại Malvern (nước Anh) vào tháng 7/1973 đã đi đến một Hiệp ước về
Bảo tồn DSĐC. Việc phân loại DSĐC được thực hiện theo Tiêu chuẩn phân loại

tạm thời các DSĐC của UNESCO gồm 10 kiểu như sau:
7
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Cổ sinh; Địa mạo; Cổ môi trường; Đá (magma, trầm tích, biến chất); Địa
tầng; Khoáng vật (Khoáng sản); Kinh tế địa chất; Kiến tạo (lịch sử địa chất);
Các vấn đề vũ trụ; Những đặc trưng địa chất tầm cỡ lục địa/đại dương.
Năm 1996, bảo tồn các DSĐC – tiền đề cho việc thành lập công viên địa
chất – lần đầu tiên được xác định là một trong những chủ đề chính tại Đại hội
Địa chất quốc tế lần thứ 30 tổ chức tại Bắc Kinh với tư tưởng: các DSĐC là một
dạng tài nguyên không tái tạo, vô cùng giá trị, cần được bảo tồn và khai thác, sử
dụng hợp lý. Tại đại hội đã có một Hội nghị chuyên đề có tên gọi”Các DSĐC
và Danh mục di sản thế giới”, nội dung bàn về vấn đề thành lập các công
viên địa chất ở Châu Âu.
Năm 1997, UNESCO đã đề nghị thành lập Chương trình Công viên Địa
chất (UNESCO Geoparks Program) trên phạm vi toàn cầu nhằm mục đích bảo
vệ an toàn các DSĐC có tầm quan trọng quốc tế và phục vụ cho phát triển kinh
tế xã hội của các khu vực. Mạng lưới toàn cầu về Công viên Địa chất đã được
thiết lập. Trong khoảng hơn chục năm trở lại đây đã xuất hiện một xu hướng bảo
tồn thiên nhiên mới – bảo tồn các di sản địa chất (DSĐC) như là một nội dung
chính trong mối liên quan chặt chẽ với các giá trị di sản khác.
Năm 2000, Mạng lưới Công viên Địa chất Châu Âu được hình thành.
Năm 2004, UNESCO đã cho ra đời mạng lưới Công viên Địa chất đặt trụ
sở tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tháng 6/2004, Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất họp
tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
Tại hội nghị quốc tế lần thứ 2 tại Belfast, Ireland tháng 9/2006 có thêm 13
Công viên Địa chất tham gia mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu. Tháng
6/2008 Hội nghị quốc tế lần thứ 3 về Công viên Địa chất tại Osnabruek, Cộng
hòa Liên bang Đức công nhận thêm 5 thành viên nữa và tháng 9/2009 hội nghị
quốc tế về quản lý Công viên Địa chất tại Taishan, Trung Quốc kết nạp thêm 5

thành viên, đưa tổng số Công viên Địa chất Toàn cầu lên 63 của 19 quốc gia.
Cũng tại hội nghị ở Osnabruek tháng 6/2008, UNESCO đã chính thức ra mắt
mạng lưới DSĐC và Công viên Địa chất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(APGN).
8
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
- Tổng quan nghiên cứu về điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng
sản và di sản địa chất ở Việt Nam.
 !

Năm 1852, trên tập Báo cáo Viện Hàn lâm Khoa học Pháp xuất hiện bài
báo”Ghi chép về địa chất xứ Nam Kỳ (Notes sur la géologie de la
Cochinchine)”của C.J. Arnoux, đánh dấu bước đầu tiên của việc nghiên cứu địa
chất trên lãnh thổ nước ta
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện các công trình khảo
sát địa chất khu vực từng miền của nước ta cùng với việc khảo sát để thành lập
bản đồ địa chất tỷ lệ 1:500.000. Từ kết quả của các công trình khảo sát này, năm
1937 tờ Bản đồ Địa chất Đông Dương tỷ lệ 1:2.000.000 đã ra đời do Fromaget J.
thành lập với sự cộng tác của F. Bonelli, J. Hoffet và E. Saurin.
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc nước ta, năm 1954 Sở Địa chất
được thành lập trên cơ sở Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ ra đời từ năm 1946, sau
đó, năm 1959 chuyển thành Cục Địa chất và năm 1960, thành Tổng cục Địa
chất. Hàng loạt các bản đồ đo vẽ địa chất tỷ lệ 1:500.000, 1:200.000 được hoàn
thành ở Miền Bắc. Sau khi thống nhất đất nước, việc lập bản đồ địa chất các tỷ
lệ 1:200.000 và 1:50.000 đã gần như phủ kín lãnh thổ nước ta, đem lại rất nhiều
tài liệu mới về địa tầng và các thành tạo magma, từ đó có thể đưa đến nhiều luận
giải mới về kiến tạo và sự hình thành khoáng sản ở nước ta.
Năm 2006 một tập thể các nhà địa chất Việt Nam với sự chủ trì của các
GS Trần Văn Trị và Vũ Khúc và tổ chức biên soạn công trình”Địa chất và tài

nguyên Việt Nam”bao gồm: Phần I. Đại cương về cảnh quan và địa chất Việt
Nam; Phần II. Địa tầng; Phần III. Các thành tạo magma; Phần IV. Biến chất;
Phần V. Cấu trúc kiến tạo; Phần VI. Tài nguyên địa chất. Các phụ lục gồm Văn
liệu tham khảo và Bảng tra cứu các phân vị địa chất và tài nguyên. Với cấu trúc
trên, có thể nói đây là một công trình tổng hợp lớn và đầu tiên do các nhà địa
chất Việt Nam thực hiện về địa chất và tài nguyên nước ta.
9
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Đến nay, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã triển khai, thực hiện
hơn mười chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước, hơn 300
đề án góp phần làm sáng tá lịch sử phát triển cấu trúc địa chất lãnh thổ, điều kiện
tạo thành và quy luật phân bổ khoáng sản. Nhiều vấn đề liên quan tới những loại
địa chất như địa chất môi trường, tai biến, đô thị, karst hay nghiên cứu tìm ra
năng lượng sạch, di sản địa chất, vật liệu mới, kinh tế địa chất, nguyên liệu
khoáng
Đặc biệt, công trình nghiên cứu tài nguyên khoáng sản Việt Nam đã xác
lập luận cứ khoa học, đánh giá định lượng, định hướng phát triển việc sử dụng
hợp lý tài nguyên khoáng sản trong nước đến năm 2020.
Hiện nay, công tác tìm kiếm, thăm dò nguồn năng lượng mới cũng là một
nhiệm vụ của ngành địa chất Việt Nam, trong đó việc tìm kiếm, thăm dò tiềm
năng khí hydrate (băng cháy) ở khu vực Biển Đông bước đầu được chú ý từ sau
Quyết định 1270/QĐ-TTg ngày 24/9/2007 về việc bổ sung”Chương trình nghiên
cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa
Việt Nam”vào nhiệm vụ của”Đề án tổng thể điều tra cơ bản và quản lý tài
nguyên – môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”.
 !
Việc nghiên cứu địa chất và khoáng sản ở nước ta được các nhà địa chất
người Pháp thuộc Sở Địa chất Đông Dương (thành lập năm 1898) chính thức
tiến hành trong khuôn khổ toàn bán đảo Đông Dương, bắt đầu bằng các nghiên

cứu lẻ tẻ về khoáng sản ở các nước thuộc địa này phục vụ cho việc phát triển
nền công nghiệp của nước Pháp. Những năm gần đây, tiếp thu xu hướng mới
của thế giới về bảo tồn thiên nhiên, các nhà địa chất Việt Nam (thuộc Cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam, Viện Tài nguyên và Môi trường Biển, Bảo tàng
Địa chất, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên Hà Nội) đã bắt đầu có những hoạt động điều tra, nghiên cứu các di sản địa
chất tiến tới thành lập các khu bảo tồn địa chất và xây dựng công viên địa chất.
Công tác nghiên cứu di sản địa chất (giai đoạn 1) được các nhà địa chất
Việt Nam thực hiện khá tốt, cách tiếp cận vấn đề và giải quyết vấn đề nghiên
10
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
cứu di sản địa chất có cơ sở khoa học, phù hợp với cách làm của thế giới, đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Việc thành lập các khu bảo tồn địa chất (thuộc
giai đoạn 2 kế tiếp) mới chỉ đạt được mục tiêu quản lý di sản địa chất. Và xây
dựng công viên địa chất (thuộc giai đoạn 3) mới đạt được mục tiêu bảo tồn và
khai thác hiệu quả, hợp lý các giá trị của di sản địa chất cho sự phát triển bền
vững. Cả hai công việc này đã được các nhà địa chất đề xuất và bước đầu mới
chỉ có Cao nguyên đá Đồng văn mới gia nhập mạng lưới Công viên địa chất
toàn cầu.
Việt Nam có những khu vực địa chất cảnh quan kỳ thú như ghềnh đá đĩa
Tuy An (Phú Yên), bazan dạng cột Ba Làng An (Quảng Ngãi), bazan dạng cột
thác Trinh Nữ (Đắk Nông) Những cảnh quan này có giá trị khoa học độc đáo,
hấp dẫn du khách, nhưng từ trước đến nay chưa được quan tâm. Cục địa chất và
khoáng sản đang đề nghị xếp hạng quốc gia 20 di sản địa chất đầu tiên, đồng
thời thành lập những công viên địa chất để giới thiệu với du khách.
Đã triển khai điều tra, đánh giá tiềm năng DSĐC và triển vọng xây dựng
Công viên Địa chất ở 25 khu vực miền Bắc Việt Nam, qua đó xác định được 15
khu vực có triển vọng trở thành Công viên Địa chất quốc gia và/hoặc quốc tế.
Tổng cộng đã đánh giá được 1.168 DSĐC, trong đó 525 thuộc các tỉnh Đông

Bắc (kể cả Việt Bắc, các tỉnh duyên hải Bắc Bộ và một số khu vực thuộc đồng
bằng sông Hồng), 363 thuộc các tỉnh Tây Bắc và 280 thuộc các tỉnh Bắc Trung
Bộ (con số thực chắc chắn sẽ lớn hơn). 149 DSĐC được đề xuất xếp hạng cấp
quốc tế, 471 cấp quốc gia và 548 - cấp địa phương. 94 biểu hiện thuộc kiểu Di
sản cổ sinh; 518 biểu hiện thuộc kiểu Di sản Địa mạo; 2 biểu hiện thuộc kiểu Di
sản Cổ môi trường; 38 biểu hiện thuộc kiểu Di sản Đá; 76 biểu hiện thuộc kiểu
Di sản Địa tầng; 116 thuộc kiểu Di sản Khoáng vật/Khoáng sản; 303 biểu hiện
thuộc kiểu Di sản Tương tác Lục địa/Đại dương. Như vậy trên phạm vi miền
Bắc Việt Nam đã xác định được 8/10 kiểu DSĐC. Chưa kể các biểu hiện DSĐC
kiểu (kinh tế địa chất) và (Các vấn đề vũ trụ) chưa thực sự là trọng tâm của các
điều tra. Cũng chưa kể một số DSĐC có thể đồng thời thuộc một vài kiểu
DSĐC. Kết quả trên khẳng định sự đa dạng các kiểu loại DSĐC, sự phong phú
11
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
về số lượng và chất lượng cao của các DSĐC, khẳng định triển vọng xây dựng
Công viên Địa chất có đẳng cấp ở nhiều khu vực miền Bắc Việt Nam.
Đã triển khai điều tra, đánh giá chi tiết, xác lập luận cứ khoa học, luận
chứng kinh tế - kỹ thuật cho việc xây dựng thí điểm ba Công viên Địa chất ở
miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt cao nguyên đá Đồng Văn đã được công nhận là
thành viên của mạng lưới Công viên Địa chất toàn cầu. Đã tìm hiểu và đề xuất
một số biện pháp bảo tồn và khai thác bền vững các DSĐC và Công viên Địa
chất ở Việt Nam, đặc biệt đã đề xuất chương trình phát triển mạng lưới Công
viên Địa chất ở Việt Nam và đề xuất xây dựng cơ sở pháp lý cho việc quản lý
mạng lưới Công viên Địa chất ở Việt Nam.
1.2. Các khái niệm chung
1.2.1. Khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn
chất trong vá trái đất, mà ở điều kiện hiện tại con người có đủ khả năng lấy ra
các nguyên tố có ích hoặc sử dụng trực tiếp chúng trong đời sống hàng ngày

Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có tác động
mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là nguồn vật
chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người. Bên cạnh đó,
việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô nhiễm như bụi,
kim loại nặng, các hoá chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v ).
Tài nguyên khoáng sản được phân loại theo nhiều cách:
Theo dạng tồn tại: Rắn, khí (khí đốt, Acgon, He), láng (Hg, dầu, nước
khoáng).
Theo nguồn gốc: Nội sinh (sinh ra trong lòng trái đất), ngoại sinh (sinh ra
trên bề mặt trái đất).
12
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Theo thành phần hoá học: Khoáng sản kim loại (kim loại đen, kim loại
màu, kim loại quý hiếm), khoáng sản phi kim (vật liệu khoáng, đá quý, vật liệu
xây dựng), khoáng sản cháy (than, dầu, khí đốt, đá cháy
Theo Từ điển onlie wikimedia thì Khoáng sản là thành tạo khoáng vật
của lớp vá Trái đất, mà thành phần hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho
phép sử dụng chúng có hiệu quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật
chất của nền kinh tế quốc dân.
Khoáng sản là từ Hán-Việt, trong đó theo Hán-Việt thì (quáng/khoáng)
nghĩa là "#$%và phàm vật gì lấy ở mỏ ra đều gọi là ", người Việt quen
đọc là 
Các dạng khoáng sản:
Theo mục đích và công dụng người ta chia ra thành các dạng khoáng sản
sau:
- Khoáng sản nhiên liệu (hay nhiên liệu hóa thạch): dầu mỏ, hơi đốt, đá
phiến dầu, than bùn, than….

- Khoáng sản phi kim: gồm các dạng vật liệu xây dựng như đá vôi, cát,
đất sét…; đá xây dựng như đá hoa cương….và các khoáng sản phi kim khác.
- Khoáng sản kim loại hay quặng: Bao gồm các loại quặng kim loại đen,
kim loại màu và kim loại quý.
- Nguyên liệu đá màu bao gồm ngọc thạch anh (jasper), đá
mã (agat), onyx, canxedon, charoit, nefrit… và các loại đá quý như kim cương,
ngọc lục bảo, hồng ngọc, xa-phia.
- Thủy khoáng: Bao gồm nước khoáng và nước ngọt ngầm dưới đất.
- Nguyên liệu &': Bao gồm apatit và các muối khoáng khác như
photphat, barit, borat
Dựa trên trạng thái vật lí phân ra:
- Khoáng sản rắn: như quặng kim loại…
- Khoáng sản láng: như dầu mỏ, nước khoáng…
- Khoáng sản khí: khí đốt, khí trơ.
13
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Sự tích tụ của khoáng sản tạo ra các mỏ (hay còn gọi là khoáng sàng), còn
trong trường hợp chiếm một diện tích lớn thì gọi là các vùng mỏ, bồn hay bể.
Người ta cũng phân biệt các loại khoáng sản rắn, láng và khí.
Khoáng sản nằm trong lớp vá Trái Đất ở dạng tích tụ với các đặc trưng
khác nhau (gân, mạch, cán, bướu, nham cán, vỉa, ổ, sa khoáng…)
Việc khai thác các khoáng sản gọi là khai khoáng.
Các nguồn khoáng vật.
Thảm thực vật.
Trong quá trình thăm dò khoáng sản, người ta thường sử dụng các phương
pháp như đào giếng, mương, hào, rãnh, các đường xẻ hay tiến hành khoan các lỗ
khoan v.v. để bắt gặp thân quặng.
Diện tích phổ biến
Theo diện tích phổ biến của khoáng sản, người ta chia ra như sau:

( khoáng sản là một phần lớn lớp vá Trái Đất, tương quan với nền địa
chất, các đới uốn nếp hay đáy đại dương, với các mỏ khoáng sản phân bố trong
phạm vi của nó và vốn có của nó.
)*+,-./0 khoáng sản chiếm một phần của tỉnh và được đặc
trưng bằng một tập hợp các mỏ khoáng sản xác định về thành phần và nguồn
gốc, được xếp vào một và chỉ một nhóm thành phần kiến tạo bậc nhất (nếp lồi
ghép, nếp lâm v.v). Các đới khoáng sản có thể là thuần nhất mà cũng có thể là
không thuần nhất theo thành phần khoáng sản, kích thước của nó dao động trong
các giới hạn rộng. Các bể khoáng sản tạo thành các vùng có sự phổ biến liên tục
hay gần như liên tục của các khoáng sản dạng vỉa.
1 khoáng sản tạo thành một phần của vùng và thường được đặc trưng
bằng sự tập trung cục bộ của các mỏ, và liên quan tới điều này, khu khoáng sản
không hiếm khi được gọi là đầu mối khoáng sản.
23"# là một nhóm các mỏ đồng nhất về nguồn gốc và thống nhất về
cấu trúc địa chất. Bãi khoáng sản cấu thành từ các mỏ, còn các mỏ cấu thành từ
các thân quặng.
14
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
4"# hay ("# là sự tích tụ cục bộ của nguyên liệu khoáng vật
thiên nhiên, có thành phần cấu trúc-thạch học xác định hay tổ hợp của các thành
phần này.
Vùng, khu, bãi mỏ có thể lộ ra hoàn toàn trên bề mặt đất và được nói tới
như là mỏ lộ thiên; nó cũng có thể bị phủ một phần bởi các loại đất đá khác
nhau, thuộc về loại mỏ bán kín hoặc có thể bị vùi lấp hoàn toàn thì được xếp vào
loại mỏ kín.
Các nhóm trữ lượng khoáng sản rắn theo giá trị kinh tế-thương mại
Các trữ lượng khoáng sản rắn và hàm lượng của các thành phần hữu ích
có trong chúng theo giá trị kinh tế được chia ra thành 2 nhóm chính, theo các
kiểm định và tính toán riêng biệt:

- Cân đối/kinh tế/thương mại
- Không cân đối/kinh tế tiềm tàng/thương mại tiềm tàng.
567894:/;/8$<. Chúng được phân chia thành:
Các trữ lượng, mà sự khai thác và thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá
theo các tính toán kinh tế-kỹ thuật là có hiệu quả về mặt kinh tế, trong điều kiện
cạnh tranh thị trường trong việc sử dụng các kỹ thuật và công nghệ khai thác và
chế biến nguyên liệu, đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về sử dụng hợp lý lòng đất
và bảo vệ môi trường trong và sau quá trình khai thác, chế biến khoáng sản.
Các trữ lượng, mà sự khai thác hay thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá
theo các tính toán kinh tế-kỹ thuật không đảm bảo tính hiệu quả có thể thực hiện
được về mặt kinh tế-thương mại trong việc khai thác-chế biến chúng trong điều
kiện cạnh tranh thị trường do các chỉ số kinh tế-kỹ thuật thấp, nhưng sự khai
thác nó trở thành có thể về mặt kinh tế-thương mại khi có những sự hỗ trợ đặc
biệt từ phía nhà nước đối với các pháp nhân khai thác khoáng sản dưới các dạng
như ưu đãi thuế, trợ cấp, trợ giá v.v. (trữ lượng kinh tế/thương mại có giới hạn).
56789=4:+;$>/?;0. Chúng chia
ra thành:
Các trữ lượng, đảm bảo các yêu cầu được đề ra đối với các trữ lượng cân
đối, nhưng việc sử dụng chúng tại thời điểm đánh giá là không thể, theo các điều
15
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
kiện và tình trạng của kỹ thuật khai mỏ, các yêu cầu của luật pháp, các yêu cầu
sinh thái-môi trường và/hoặc các điều kiện khác;
Các trữ lượng, mà việc khai thác hay thu hồi chúng tại thời điểm đánh giá
là không hợp lý về mặt kinh tế do hàm lượng thành phần khoáng sản thấp, bề
dày thân quặng máng hay sự phức tạp chuyên môn đặc biệt trong các điều kiện
khai thác và/hoặc chế biến nó, nhưng việc sử dụng nó trong tương lai gần có thể
trở thành hiệu quả về mặt kinh tế-thương mại do sự gia tăng giá cả của khoáng
sản trên thị trường hay do các tiến bộ khoa học-kỹ thuật đảm bảo cho việc giảm

giá thành sản xuất của khoáng sản đó.
Các trữ lượng không cân đối được kiểm định và tính toán trong trường
hợp, nếu các tính toán kinh tế-kỹ thuật đưa ra khả năng hoặc là bảo tồn nó trong
lòng đất để khai thác sau này; hoặc chỉ ra sự hợp lý của việc vừa khai thác hiện
tại vừa lưu giữ và bảo tồn để sử dụng trong tương lai.
Trong tính toán các trữ lượng không cân đối người ta chia chúng ra thành
các tiểu thể loại, phụ thuộc vào nguyên nhân làm chúng trở thành không cân đối
( kinh tế, kỹ thuật, kỹ thuật khai mỏ, sinh thái, môi trường …).
Đánh giá tính chất cân đối của các trữ lượng khoáng sản được thực hiện
trên cơ sở các luận chứng kinh tế-kỹ thuật chuyên môn, được thẩm định bởi các
chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau. Trong các luận chứng này cần phải dự
kiến trước các phương pháp khai thác mỏ có hiệu quả nhất, đánh giá về mặt giá
thành và đề xuất các tham số tiêu chuẩn, đảm bảo việc sử dụng đầy đủ và tổng
hợp nhất đối với các trữ lượng, với sự tính toán tới các yêu cầu của luật pháp
trong lĩnh vực bảo vệ và phục hồi môi trường-sinh thái trong và sau khi khai
thác.
1.2.2. Chính sách quản lý
Khái niệm về quản lý:
Là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm chỉ huy,
điều hành, hướng dẫn các quá trình XH và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. Quản lý về cơ bản và
trước hết là tác động đến con người để họ thực hiện, hoàn thành những công
16
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
việc được giao; để họ làm những điều bổ ích, có lợi. Điều đó đòi hái ta phải hiểu
râ và sâu sắc về con người
+ Quản lý là thực hiện những công việc có tác dụng định hướng, điều tiết,
phối hợp các hoạt động của cấp dưới, của những người dưới quyền. Biểu hiện cụ
thể qua việc, lập kế hoặch hoạt động, đảm bảo tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm

soát các hoạt động của tổ chức.
+ Quản lý là thiết lập, khai thông các quan hệ cụ thể để hoạt động đông
người được hình thành, tiến hành trôi chảy, đạt hiệu quả cao bền lâu và không
ngừng phát triển. Chẳng thế mà người Nhật khẳng định rằng:” Biết cái gì, biêt
làm gì là quan trọng nhưng quan trọng hơn là biết quan hệ.” Người Mỹ cho
rằng:” Chi phí cho thiết lập, khai thông các quan hệ thường chiếm 25% đến 50%
toàn bộ chi phí cho hoạt động.". Trong hoạt động kinh tế biết thiết lập, khai
thông cá quan hệ sản xuất cụ thể thì các yếu tố thucộc lực lượng sản xuất mới ra
đời và phát triển nhanh chóng. Quản lý doanh nghiệp trong kinh tế thị trường
cần nhận thức và thực hiện tốt các mối quan hệ như: quan hệ với những người
chủ vốn; quan hệ với tổ chức của những người lao động, với người lao động;
quan hệ với những người bán hàng cho doanh nghiệp.
+ Quản lý là tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý một cách
gián tiếp và trực tiếp nhằm thu được nhưng diễn biến, thay đổi tích cực.
1@$"7A8,B
Là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan nhà nước ( lập pháp,
hành pháp và tư pháp) để thực thi quyền lực nhà nước, thông qua các văn bản
quy phạm pháp luật
1@$CB
Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích
nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra
hoặc”Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một
chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội".
Quan niệm về chính sách công có nhiều cách tiếp cận:
- Cách tiếp cận thứ nhất:
17
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
+ Chính sách công là quyết định lựa chọn của NN.
+ Chính sách công là cách xứng xử của NN đối với cách quá trình kinh tế

– xã hội.
+ Chính sách công là những gì NN nên làm hay không nên làm.
- Cách tiếp cận thứ hai: Chính sách công là thái độ, quan điêm, lập
trườnưc của NN đối với các quá trình kinh tế xã hội được thể hiện bằng một hệ
thống các biện pháp nhằm thực hiện một mục tiêu cụ thể trong quá trình tiến tới
mục tiêu chung.
Chính sách công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những
hiện tượng nảy sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình
thức khác nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng.
- Chính sách công có đặc điểm:
+ Do Nhà nước ban hành.
+ Chính sách công phải tác động đến đời sống của cộng đồng, có mục tiêu
và ổn định.
+ Chính sách công phải đựng cả mục tiêu và biện pháp chính trị và đặc
biệt là phải phù hợp với đường lối của Nhà nước.
- Chính sách công có cấu trúc gồm 2 bộ phận: đó là mục tiêu của chính
sách là những giá trị trong tươmg lai mà Nhà nước theo đuổi phù hợp với thái độ
ứng xử của Nhà nước, đây là bộ phận cơ bản của chính sách.
+ Biện pháp chính sách: là những cách thức, việc làm mà cơ quan quản lý
các cấp dựng, dựng để thực hiện mục tiêu của chính sách.
Tác dụng của loại cụng cụ này đối với đời sống xã hội là rất cụ thể, rõ
ràng. Dây là 1 công cụ mà các Nhà nước dùng để quản lý kinh tế xã hội bởi các
chính sách này tạo sự điều khiển đồng bộ, theo định hướng nhất định để Nhà
nước quản lý đất nước.
Đồng thời, chính sách có thể chuyển tải được ý chớ của Nhà nước đối với
các đối tượng quản lý, nghĩa là những mục tiêu của chính sách mà Nhà nước
đang theo đuổi, sẽ đến được với đối tượng trong xã hội và với mọi người biết
được nguyện vọng, mong muốn của Nhà nước có phù hợp với mình hay không.
18
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II

về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Hơn nữa, chính sách phản ánh mối quan hệ Nhà nước với người dân, đó là
việc xem xét những giá trị Nhà nước theo đuổi có phù hợp với nguyện vọng,
mong muốn của dân chúng hay không, có phản ánh mối quan hệ chặt chẽ hay
không giữa Nhà nước và nhân dân; nếu cuộc sống tốt thì sẽ phù hợp và được
người dân ủng hộ.
Chính sách còn có thể đánh giá được kết quả quản lý, điều hành của Nhà
nước, đó là Nhà nước quản lý tốt, điều hành trôi chẩy sẽ thể hiện qua các chính
sách hiệu quả và khả thi.
Đặc biệt trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước thì chính sách có
vai trò hết sức quan trọng đó là:
+ Khuyến khích các hoạt động kinh tế xã hội để mọi thành viên trong xã
hội có thể đóng góp sức mình, kìm hãm hay hạn chế các mặt tiêu cực của xã hội.
+ Đảm bảo cho sự cân đối, ổn định về mọi mặt của xã hội.
+ Phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường.
+ Tạo lập sự cân đối, phân phối nguồn lực cho quá trình phát triển của đất
nước. Ví dụ như chính sách phân bố nguồn nhân lực.
+ Tạo lập môi trường thích hợp cho các yếu tố của nền kinh tế xã hội vận
động như chúng ta thực hiện chính sách mở cửa tăng cường giao lưu và hợp tác
kinh tế với thế giới.
+ Dẫn dắt, hỗ trợ các bộ phận của nền kinh tế theo định hướng, phối hợp
các hoạt động của các ngành các cấp.
1.2.3. Sự cần thiết quản lý
Việt Nam có vị trí địa chất, địa lý độc đáo, là nơi giao cắt của hai vành đai
sinh khoáng lớn Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, là nước nhiệt đới gió mùa
phát triển mạnh các quá trình phong hoá thuận lợi cho sự hình thành khoáng sản.
Qua 65 năm nghiên cứu điều tra cơ bản và tìm kiếm khoáng sản của các nhà địa
chất Việt Nam cùng với các kết quả nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp từ
trước Cách mạng Tháng 8 đến nay chúng ta đã phát hiện trên đất nước ta có

hàng nghìn điểm mỏ và tụ khoáng của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau từ các
19
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
khoáng sản năng lượng, kim loại đến khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây
dựng.
Có thể chia ngành khoáng sản của nước ta thành các nhóm sau:
Nhóm khoáng sản năng lượng nước ta có tiềm năng dầu khí đáng kể. Đến
ngày 2-9-2009, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã đạt mốc khai thác 300
triệu tấn dầu quy đổi. Với sản lượng khai thác dầu khí hằng năm, hiện nay Việt
Nam đứng hàng thứ ba ở Đông - Nam Á, sau In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a. Than
biến chất cao (anthracit) ở nước ta phân bố chủ yếu ở các bể than Quảng Ninh,
Thái Nguyên, sông Đà, Nông Sơn, với tổng tài nguyên đạt hơn 18 tỷ tấn. Bể
than Quảng Ninh là lớn nhất, với trữ lượng đạt hơn ba tỷ tấn. Bể than Quảng
Ninh đã được khai thác từ hơn 100 năm nay, phục vụ tốt cho các nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.
Các nhà khoa học địa chất đã phát hiện nhiều tụ khoáng u-ra-ni ở Đông
Bắc Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Tổng tài nguyên u-ra-ni ở Việt Nam
được dự báo hơn 218 nghìn tấn U308, có thể là nguồn nguyên liệu khoáng cho
các nhà máy điện hạt nhân trong tương lai. Việt Nam có nhiều nguồn nước
nóng, ở phần đất liền có 264 nguồn có nhiệt độ 300C trở lên. Các nguồn nước
nóng chủ yếu được phân bố ở Tây Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ngoài
ra nhờ khoan thăm dò, khai thác dầu khí chúng ta cũng phát hiện được nhiều
nguồn nước nóng ở dưới sâu thuộc Bể Sông Hồng và Bể Cửu Long. Tiềm năng
địa nhiệt của Việt Nam không lớn nhưng có thể coi là nguồn năng lượng bổ
sung cho các nguồn năng lượng truyền thống, phục vụ nhu cầu CNH, HĐH đất
nước.
Nhóm khoáng sản kim loại nước ta có nhiều loại như sắt, man-gan, crôm,
ti-tan, đồng, chì, kẽm, cô-ban, ni-ken, nhôm, thiếc, vàng, bạc, v.v. Trong số
khoáng sản kim loại kể trên có các loại tài nguyên trữ lượng lớn tầm cỡ thế giới

như bô-xít (quặng nhôm), đất hiếm, ti-tan, vôn-phram, crôm, v.v.
Nhóm khoáng chất công nghiệp nước ta có nhiều loại như a-pa-tit, phốt-
pho-rít, than bùn, sét gốm sứ, thạch anh tinh thể. Các khoáng chất công nghiệp
ở Việt Nam đã được đánh giá và nhiều mỏ đã được khai thác phục vụ các ngành
20
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
nông nghiệp, công nghiệp. Nhóm vật liệu xây dựng nước ta có nhiều mỏ vật liệu
xây dựng: sét gạch ngói, sét-xi măng, puzzolan, cát sái, đá vôi, đá hoa trắng, đá
ốp lát, đá ong. Các mỏ vật liệu xây dựng đã và đang được khai thác phục vụ cho
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. Ngoài các loại khoáng
sản kể trên, từ năm 1987 chúng ta đã phát hiện nhóm đá quý ruby, saphia,
peridot, nhưng trữ lượng không lớn. Riêng ruby ở Yên Bái và Nghệ An có
chất lượng cao, được thế giới đánh giá đạt chất lượng quốc tế, tương đương với
ruby nổi tiếng của Mi-an-ma.
Điểm qua tiềm năng khoáng sản của đất nước ta kể trên, nếu so sánh với
các nước ở trong khu vực Đông- Nam Á và thế giới, thì nước ta tuy có diện tích
đất liền không lớn, nhưng có vị trí địa chất, địa lý thuận lợi cho sự sinh thành và
phát triển khoáng sản. Với nguồn tài nguyên khoáng sản đó, có thể xếp nước ta
vào hàng các nước có tiềm năng khoáng sản đáng kể.
Theo tính toán, vốn thiên nhiên chiếm khoảng 27% tổng giá trị tài sản
quốc gia của Việt Nam. Khoáng sản là một trong những phần quan trọng của
nguồn vốn thiên nhiên. Thời gian qua, ngành công nghiệp khai thác khoáng sản
ở Việt Nam dù chưa phát triển mạnh mẽ nhưng đã có những đóng góp đáng kể
cho ngân sách quốc gia, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp, ngành kinh tế
khác phát triển và góp phần vào sự phát triển của các địa phương nơi khai thác.
Đóng góp của ngành khai khoáng chiếm 4,81% thu nhập quốc dân năm 1995 đã
tăng lên khoảng 9,65%-10,59% trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Ngoài ra,
ngành công nghiệp khai khoáng cũng là ngành tạo nhiều công ăn việc làm cho
xã hội……

Tuy nhiên, theo dự báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu lơi lỏng
việc khai thác tài nguyên khoáng sản thì đến năm 2050 Việt Nam là nước phải
nhập khẩu nhiều loại khoáng sản.
Cũng theo báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong 5 năm qua, Bộ
mới quyết định cấp trên 100 giấy phép hoạt động khai thác khoáng sản với quy
trình thẩm định và đánh giá rất kỹ càng. Đây là giấy phép cấp quốc gia, nhưng
21
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
với sự phân cấp quản lý hiện nay, tại các địa phương cả nước đã cấp tới gần
5.000 giấy phép hoạt động khai thác khoáng sản.
Như vậy đồng nghĩa với gần 5.000 công trường ngày đêm khai thác
khoáng sản từ trong lòng đất, trên mặt đất, dưới lòng nước. Khai thác khoáng
sản kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như phá vỡ cảnh quan tự nhiên, đa dạng sinh
học, ô nhiễm môi trường nặng nề, an toàn lao động, an ninh trật tự, nhất là tổn
hao và lãng phí tài nguyên khoáng sản do không được quản lý chặt chẽ.
Khi bàn về vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản tại nghị trường Quốc
hội, tư lệnh ngành Tài nguyên và Môi trường đã thẳng nhắn cảnh báo, nếu
không quản lý tốt, trong tương lai không xa, đất nước ta sẽ có nguy cơ lớn hết
tài nguyên khoáng sản.
Có thể nói, việc phân cấp cho các địa phương có thẩm quyền cấp phép
hoạt động khai thác khoáng sản vẫn chủ yếu là khai thác, xuất khẩu ồ ạt quặng
thô ra nước ngoài, gây bức xúc và lo lắng của cộng đồng.
Khoáng sản than là ví dụ. Hàng triệu tấn than được đưa nước ngoài qua
đường tiểu ngạch, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Việt Nam vốn là quốc gia
được thế giới biết đến khoáng sản than, nhưng mới đây đã chính thức nhập khẩu
than để phục vụ nhu cầu sản xuất, hoặc như thời gian gần đây ở Tây Nguyên
đang nổi lên vấn đề được quan tâm – khai thác quặng Boxit, một loại tài nguyên
quý giá của quốc gia, hoạt động khai thác bôxit kéo theo những ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các nguồn tài nguyên khác (rừng – nguồn tài nguyên lớn sẽ bị

ảnh hưởng, một diện tích lớn đất đai bị san ủi phục vụ việc khai thác và xây
dựng cơ sở hạ tầng, tài nguyên nước bị ảnh hưởng ) và ảnh hưởng lớn đến môi
trường của từng vùng.
Như vậy, không cần đến năm 2050 mới nhập khẩu khoáng sản mà ngay
tại lúc này; gây lo lắng cho cộng đồng.
Nhiều chuyên gia so sánh, cấp phép khai thác khoáng sản dễ dàng như
cấp phép xây dựng sân gold mất nhiều đất trồng lúa, đất bờ xôi ruộng mật như
thời gian qua. Thế nhưng, sân gold dù sao cũng còn có thể cải tạo, phục hồi
được, nhưng tài nguyên khoáng sản mất đi thì không bao giờ tái tạo được.
22
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang thực hiện nghiêm túc chính sách
đóng cửa hoặc cấm việc khai thác tài nguyên khoáng sản để dành và chấp nhận
mua nguyên liệu khoáng sản từ các nước khoáng sản với giá rất đăt đá.
Điển hình như Trung Quốc, họ dự tính đến năm 2050 nguồn tài nguyên
khoáng sản của cả thế giới sẽ rất khan hiến vì bị khai thác không kế hoặch. Từ
nhiều năm qua, Trung Quốc đã áp dụng chính sách thu mua khoáng sản của thế
giới, tích trữ thành các mỏ nhân tạo. Đến khi thế giới không còn khoáng sản thì
họ vẫn còn nguồn nguyên liệu khoáng sản để phục vụ sản xuất. Thậm chí Trung
Quốc sẽ là quốc gia làm chủ về khoáng sản.
Còn đối với Ôxtraylia, đất nước rất giàu tài nguyên khoáng sản nhưng
triệt để không khai thác mà tập trung nghiên cứu khoa học công nghệ khai
khoáng với các phần mềm, máy móc để chuyển giao cho các nước khác.
Với Nhật Bản, tuy không giàu có về khoáng sản nhưng lại chế tạo được
các mặt hàng, công nghệ, linh kiện rất hiện đại và đắt đá có nguồn gốc từ
nguyên liệu khoáng sản nhập khẩu, sau đó xuất bán sản phẩm đó ra nước ngoài
thu lợi nhuận cao.
Luật Khoáng sản đã được Quốc hội ban hành; Luật Thuế tài nguyên đang
trong quá trình dự thảo nhằm tăng cường quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng

tài nguyên. Nhiều văn bản pháp lý đã được ban hành nhưng thực trạng khai thác
và lãng phí tài nguyên vẫn cứ tái diễn phức tạp.
Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành, địa phương
dừng cấp phép hoạt động khai thác khoáng sản; tăng cường công tác rà soát,
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động khai thác khoáng sản; đặc biệt là cấm xuất
khẩu thô khoáng sản ra nước ngoài. Đây là một động thái tích cực nhằm góp
phần ngăn chặn nguy cơ cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên của đất nước.
Trong khoảng hơn nửa thế kỷ qua, nhu cầu của con người về tài nguyên
khoáng sản rất lớn. Tình trạng cạn kiệt tài nguyên khoáng sản của nhiều nước
trên thế giới trong những năm gần đây đó trở thành vấn đề nóng báng mà Việt
Nam không phải là ngoại lệ. Cùng với sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
23
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
nước nhu cầu về tài nguyên khoáng sản ngày càng tăng dẫn đến việc khai thác
cạn kiệt tài nguyên khoáng sản. Do đó, để đất nước có điều kiện phát triển bền
vững, thế hệ sau có điều kiện và nguồn lực để xây dựng, bảo vệ đất nước; đáp
ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội không những cho trước mắt mà nhu
cầu ngày càng tăng trong tương lai, để vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa đảm bảo
nguồn lực tài nguyên cho công cuộc phát triển bền vững, tránh việc khai thác
bừa bãi gây sự bức xúc của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người
dân, lãng phí tài nguyên quốc gia thì sự vào cuộc của các cấp, ngành, nâng cao
hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản nói riêng là yêu cầu hết
sức cần thiết trước yêu cầu thực tế.
1.3. Chính sách, pháp luật hiện hành về quản lý tài nguyên
1.3.1. Quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản
Trong vài năm trở lại đây, hoạt động khoáng sản đã và đang thực hiện
theo quy hoạch, kế hoặch của Nhà nước; một số doanh nghiệp đã chú ý đầu tư
chiều sâu vào công nghệ khai thác, chế biến và tạo thêm nhiều công ăn việc làm,

góp phần cải tạo từng bước cơ sở hạ tầng của các địa phương, nhất là ở những
vùng sâu, vùng xa; nhiều tổ chức cá nhân tham gia hoạt động khoáng sản đã có
ý thức tuân thủ quy định của pháp luật về khoáng sản, gắn mục tiêu lợi ích sản
xuất, kinh doanh khoáng sản với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội,
bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh, quốc phòng và an toàn lao động. Nhìn chung
hoạt động khai thác khoáng sản trái phép ngày càng giảm. Tuy nhiên, ngành
công nghiệp khai khoáng nước ta vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần được tiếp
tục khắc phục, đó là:
1. Công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản còn ở mức độ thấp, chưa
khai thác triệt để được quặng nghèo, các thành phần có ích đi kèm trong quặng;
khoáng sản chưa được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả. Tình trạng”dễ làm
- khó bá”khai thác không theo quy hoạch, không theo thiết kế vẫn còn diễn ra,
nhất là đối với các mỏ khoáng sản kim loại; tổn thất tài nguyên khoáng sản trong
quá trình khai thác và chế biến còn ở mức cao, chưa kiểm soát được . Điều này
24
Đề tài: Hoàn thiện chính sách về quản lý nhà nước Thực hiện: Nhóm II
về tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam
dẫn tới việc tài nguyên khoáng sản nhanh chóng cạn kiệt (quặng thiếc sa
khoáng, quặng chì - kẽm v.v );
2. Các doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản hầu hết có quy mô
nhá, trung bình nên thiếu vốn, khó khăn trong việc đầu tư công nghệ và thiết bị
tiên tiến (trừ một số đơn vị thuộc các Tập đoàn, Tổng công ty lớn, Công ty liên
doanh với nước ngoài). Trong khi đó, hoạt động khoáng sản, nhất là thăm dò,
khai thác, chế biến khoáng sản kim loại đòi hái vốn đầu tư lớn, có nhiều rủi ro
nên gặp không ít khó khăn cho việc thăm dò để tìm ra mỏ mới; đầu tư cho hoạt
động chế biến, nhất là chế biến sâu để làm tăng giá trị kinh tế sản phẩm, tận thu
tối đa và tiết kiệm tài nguyên còn ở mức thấp;
3. Một số loại khoáng sản như thiếc sa khoáng, chì - kẽm, mangan do đã
khai thác lâu năm, trữ lượng đã và đang dần cạn kiệt, hoặc còn lại không nhiều,
cần phải tiếp tục đầu tư thăm dò mở rộng trên mặt và bổ sung phần trữ lượng

dưới sâu nhằm gia tăng trữ lượng. Tuy nhiên điều này chưa được các doanh
nghiệp thực sự quan tâm đầu tư, một phần là do nguồn vốn đầu tư cho hoạt động
thăm dò của các doanh nghiệp còn hạn chế như đã nêu trên;
4. Đầu tư chế biến sâu là chủ trương đúng đắn của Nhà nước. Tuy nhiên,
do quy định của một số địa phương chưa phù hợp, yêu cầu doanh nghiệp khi xin
giấy phép khai thác phải gắn với dự án chế biến sâu loại khoáng sản đó, nhất là
đối với khoáng sản kim loại. Điều này đã và đang xảy ra thực trạng là, nhiều
doanh nghiệp đầu tư nhà máy chế biến sâu nhưng dựa trên cơ sở giấy phép khai
thác quy mô nhá (ngoài quy hoạch Trung ương), không có nguồn nguyên liệu
bảo đảm cho dự án chế biến sâu hoạt động ổn định, lâu dài. Dẫn tới tình trạng
thiếu nguyên liệu, tăng mức độ rủi ro đối với các dự án chế biến sâu; dễ gây ra
tình trạng tranh mua, tranh bán nguyên liệu;
5. Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, cạnh tranh mua bán không
lành mạnh vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, nhất là đối với khoáng sản quý
hiếm, khoáng sản kim loại. Hậu quả của tình trạng này là gây mất an toàn lao
động, trật tự trị an và ảnh hưởng đến môi trường, môi sinh. Mặc dù Nhà nước có
nhiều văn bản yêu cầu không xuất khẩu khoáng sản thô nhưng trong thực tế vẫn
25

×