Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.52 KB, 62 trang )

LỜI CẢM ƠN.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình cùng tập thể các thầy cô
giáo đang công tác và giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội đã
quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt khóa học và trong quá
trình thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt, xin được cảm ơn cô giáo - tiến sĩ Cao Thị Oanh -
giảng viên trường đại học Luật Hà Nội là người hướng dẫn khoa học
đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
ĐỀ CƯƠNG
Đề tài: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.3. Phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Cơ cấu khóa luận
Chương 1:
1.1. Lịch sử lập pháp
1.1.1. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong thời kỳ trước khi
BLHS năm 1999 (01/07/2000) có hiệu lực
1.1.1.1. Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trước ngày BLHS 1985 có hiệu
lực
1.1.1.2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong BLHS 1985
1.1.2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong BLHS 1999
1.2. Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định pháp luật một số
nước trên thế giới
Chương 2:
2.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội truyền bá văn hóa phẩm đồi


trụy theo BLHS năm 1999
2.1.1. Khái niệm tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
2.1.2.1. Khách thể
2.1.2.2. Mặc khách quan
2.1.2.3. Chủ thể
2.1.2.4. Mặt chủ quan
2.2. Đường lối xử lý tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo BLHS 1999
2.2.1. Khung hình phạt cơ bản
2
2.2.2. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất
2.2.3. Khung hình phạt tăng nặng thứ hai
2.2.4. Hình phạt bổ sung.
Chương 3:
3.1. Thực tiễn xét xử tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
3.1.1. Về việc định tội
3.1.2. Về việc quyết định hình phạt
3.2. Một số kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật
KẾT LUẬN
MỤC LỤC
Tran
g
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………… 4
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………… 4
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu……………………………… 5
2.1. Mục đích nghiên cứu………………………………………………. 5
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………. 5
2.3. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………… 6
3. Phương pháp nghiên cứu……………………………………….………. 6
4. Cơ cấu của khóa luận………………………………………………… 6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TỘI TRUYỀN BÁ VĂN HÓA PHẨM
ĐỒI TRỤY TRONG LỊCH SỬ LẬP PHÁP CỦA NƯỚC TA VÀ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI………………………………………………………………… 7
1.1. Lịch sử lập pháp……………………………………………………… 7
1.1.1. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong thời kỳ
trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành…………….……. 7
1.1.2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong Bộ luật
hình sự năm 1999…………………………………………………………… 11
1.2. Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định của pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới………………………………………… 12
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ TỘI TRUYỀN BÁ VĂN HÓA PHẨM
ĐỒI TRỤY TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999………………… 19
3
2.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội truyền bá văn hóa phẩm
đồi trụy theo Bộ Luật Hình sự năm 1999…………………………………… 19
2.1.1. Khái niệm tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy…………………. 19
2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý…………………………………………… 20
2.2. Đường lối xử lý tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy……………… 30
4
CHƯƠNG BA. THỰC TIỄN XỬ LÝ TỘI TRUYỀN BÁ VĂN HÓA
PHẨM ĐỒI TRỤY VÀ KIẾN NGHỊ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT……………………………………………………………………… 34
3.1. Thực tiễn xử lý tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy…………………
34
3.1.1. Về việc định tội…………………………………………………
35
3.1.2. Về việc quyết định hình phạt……………………………………
38
3.2. Một số kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật………………………

42
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………. 48
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
NXB Nhà xuất bản
TAND Toà án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TP Thành phố
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà Nước ta, ngay từ những ngày đầu giành lại độc lập cũng như
trong suốt quá trình xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước, luôn coi trọng vai
trò của văn hóa, coi “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là
động lực, là nguồn nội sinh thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, thể hiện tầm
cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc và đặc biệt chú ý đầu tư
cho công tác phát triển và quản lý văn hóa.
Những năm qua, khi bộ mặt của đời sống đang dần dần được đổi mới một
cách toàn diện, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa
xã hội; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhu
cầu văn hóa của người dân đã được chú ý, coi trọng và đáp ứng tốt hơn. Đặc
biệt, trong quá trình mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế, đời sống tinh thần của
chúng ta đã được phong phú hơn nhờ được tiếp cận, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, quá trình hội nhập văn
hóa cũng có những mặt tiêu cực, chúng đã và đang từng ngày xâm nhập vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, để lại những hậu quả khiến chúng ta nhiều khi phải

giật mình. Lối sống hưởng thụ, sự coi trọng giá trị cá nhân một cách cực đoan…
là những biểu hiện của lối sống phương Tây, cùng với những giá trị khác của
văn hóa phương Tây đã và vẫn đang thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội bằng nhiều
con đường khác nhau, hoặc công khai qua các phương tiện thông thường như
phim ảnh, báo chí, truyền hình, truyện, băng hình… hoặc qua các công nghệ
dịch vụ văn hóa hiện đại ngày nay như máy vi tính có nối mạng Internet, qua trò
chơi điện tử… Tất cả những điều đó đang tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận dân cư, trong đó phần lớn là thanh thiếu niên; ảnh hưởng
đến các giá trị văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.
Đặc biệt,, tình trạng truyền bá những vật phẩm đồi trụy tràn lan, khó kiểm
soát trong thời gian gần đây đã gây ra tâm trạng lo lắng, bức xúc trong nhân dân
truyền bá những vật phẩm đồi trụy tràn lan, khó kiểm soát. Hành vi này vẫn
đang phát triển ngầm một cách mạnh mẽ và từng ngày, từng giờ tác động tiêu
cực đến đời sống xã hội, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên của đất nước.
Không những làm xuống cấp những giá trị đạo đức, những thuần phong mỹ tục
7
từ bao đời qua, hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy thậm chí còn là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm và
các tội phạm liên quan đến tình dục…
Nhận thức được sự nguy hiểm cho xã hội này, tội truyền bá văn hóa phẩm
đồi trụy đã được quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1985. Tiếp dó, tại Bộ
luật hình sự năm 1999, tội này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 253. Tuy nhiên,
sau gần mười năm áp dụng BLHS năm 1999, thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự cho thấy Điều luật này vẫn còn chứa đựng những điểm bất cập, điều này
khiến cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này còn chưa hiệu quả.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống trên phương diện lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật đối với tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, từ
đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật, giúp nâng cao hiệu quả xử lý tội
phạm này là một yêu cầu cấp thiết. Do đó, em tôi lựa chọn đề tài: “ Tội truyền
bá văn hóa phẩm đồi trụy – - một số vấn đề lý luận và thực tiễnn ” làm đề tài

khóa luận tốt nghiệp đại học.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá, phân tích các quy định về tội truyền bá văn hóa
phẩm đồi trụy trong lịch sử lập pháp luật hình sự Việt Nam, với trọng tâm
nghiên cứu là quy định của BLHS hiện hànhtại các văn bản pháp luật hình sự về
tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong lịch sử luật hình sự Việt Nam đặc biệt
là BLHS hiện hành, cùng với thực tiễn xét xử loại tội phạm này, cũng nhưcùng
với việc tham khảo các quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội truyền
bá văn hóa phẩm đồi trụy, khóa luận nhằm nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định của luật hình sự
Việt Nam, từ đó đưa ra các ý kiến đề xuấtmột số kiến nghị góp phần hoàn thiện
BLHS, nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy;
- Nghiên cứu quy định trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy;
8
- Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 về tội truyền bá văn hóa
phẩm đồi trụy;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong hoạt động xét xử;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định
của BLHS hiện hành về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy nhằm nâng cao hiệu
quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các vấn đề nêu trên của tội truyền bá văn hóa phẩm
đồi trụy trên dưới góc độ của luật hình sự, đặc biệt trên cơ sở củalà BLHS năm
1999 cùng các văn bản pháp luật có liên quan.

3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của khóa luận bao gồm :Các phương pháp
nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận bao gồm: phương pháp phân tích
- Phương pháp phân tí; ch : Sử dụng phương pháp phân tích với những
nguồn tài liệu thu thập được bao gồm các văn bản pháp luật, các sách chuyên
khảo, tham khảo, các số liệu, các phương tiện thông tin đại chúng, các bài báo,
các bài bình luận trên internet. Từ các văn bản pháp luật, sách tham khảo, phân
tích để có cái nhìn khoa học và khái quát hơn, từ đó hiểu rõ và có hệ thống hơn
về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Từ các thông tin trên các phương tiện
mang lại nguồn thông tin cập nhật, thực tế và chính xác, việc phân tích nâng cao
tính thực tiễn của khóa luận.
- pPhương pháp lịch sửử ; p: Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu về
lịch sử lập pháp tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong luật hình sự Việt Nam
từ những thời kỳ trước cho đến BLHS hiện hành.
- Phương pháp so sánh, : So sánh các quy định hiện hành với các quy định của
pháp luật thời kỳ trước và các văn bản pháp luật nước ngoài để từ đó đưa ra
những nhận xét, đánh giá, rút ra kếphương pháp tổng hợp, phương pháp hệ
thống -– thống kê…
4. Cơ cầu khóa luận
Khóa luận bao gồm các phần như sau:
Lời nói đầu
9
Chương 1. Khái quát tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong lịch sử
lập pháp của nước ta và trong pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới
Chương 2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong Bộ
luật hình sự năm 1999
Chương 3. Thực tiễn xử lý tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy và kiến
nghị hướng hoàn thiện pháp luật
Kết luận

10
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TỘI TRUYỀN BÁ
VĂN HÓA PHẨM ĐỒI TRỤY TRONG LỊCH SỬ
LẬP PHÁP CỦA NƯỚC TA VÀ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Lịch sử lập pháp
1.1.1. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong thời kỳ
trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành
1.1.1.1. Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực thi hành
11
Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam cho đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn. Bắt đầu từ thời kỳ phong kiến, đặc biệt phải kể đến những quy định về
hình luật trong hai bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là luật Hồng Đức) và
Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long) cho thấy những tiến bộ về mặt lập pháp của
triều đình phong kiến Việt Nam. Tiếp đó, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
cho tới năm 1975 khi đất nước hoàn toàn thống nhất, pháp luật Việt Nam nói
chung và luật hình sự nói riêng đã có những bước phát triển, các quy định về tội
phạm ngày một được hoàn thiện hơn, chi tiết hơn, đáp ứng phần nào nhu cầu
thực tiễn về đấu tranh, phòng chống tội phạm giai đoạn này.
Đặc biệt trong giai đoạn này là sự xuất hiện của là Sắc luật số 03/SL - 7 –
76 quy định về tội phạm và hình phạt do Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành ngày 15/03/1976, đã đánh dấu
giai đoạn mới - giai đoạn pháp luật thống nhất trên cả nước. Tuy nhiên, những
quy định này vẫn còn sơ sài, thiếu tính hệ thống và vẫn có một số tội phạm còn
chưa được đề cập, trong đó có tội về truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Phải đến
Thông tư số 03/BTP - –TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành
Điều 9 Sắc luật 03/SL - 7–76, hành vi “cố ý truyền bá, lưu hành các tác phẩm
văn hóa đồi trụy, không vì mục đích phản cách mạng” mới bị coi là tội xâm

phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và bị xử phạt theo Điều 9 của
Sắc luật.
Tuy nhiên, trước thực trạng “đế quốc Mỹ, bọn bành trướng, bá quyền
Trung Quốc và các bọn phản động tay sai khác đã tăng cường những hoạt động
phá hoại trên mặt trận tư tưởng và văn tưởng và văn hoá ở nước ta”
i
[ ], hóa ở
nước ta” [14] lén lút đưa vào “nhiều loại văn hóa phẩm đồi trụy” và “sao chép
lại các loại văn hoá phẩm đồi truỵ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới còn rơi rớt
lại” với mục đích “phá hoại nhân sinh quan, thế giới quan, đạo đức phong cách
tốt đẹp của nhân dân ta hòng làm tê liệt ý chí đấu tranh cách mạng, chia rẽ nội
bộ, giảm lòng tin vào Đảng, Nhà nước, phá hoại nếp sống mới xã hội chủ nghĩa,
nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên của ta”, Nghị quyết số 3 ngày
25/10/1982 của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ: "Kẻ địch lợi dụng tình hình kinh tế
khó khăn, tiêu cực phát triển, tăng cường phá hoại chính trị, tư tưởng và văn
hoá, ráo riết hoạt động chiến tranh tâm lý, xuyên tạc, đả kích các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, hoạt động văn hoá phản động, đồi truỵ, gieo
12
rắc lối sống sa đoạ, lạc hậu, nhất là trong thanh niên". "Cuộc đấu tranh để bảo
vệ Tổ quốc xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới xã hội
chủ nghĩa phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống chiến tranh tâm lý, chống
địch phá hoại tư tưởng, chống văn hoá phản động, đồi truỵ của địch".
Trước tình hình đó, Thông tư liên bộ văn hóa – - nội vụ số 855 –- TT/LB
ngày 12/5/1984 hướng dẫn công tác đấu tranh chống các hoạt động xâm nhập,
làm ra, sao chép, tàng trữ và lưu hành các loại văn hóa phẩm phản động, đồi
trụy, hành vi “xâm nhập, làm ra, sao chép, tàng trữ và lưu hành văn hóa phẩm
đồi trụy” với mục đích “chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa” và gây hậu quả
nghiêm trọng đã được xem xét, xử lý dưới góc độ hình sự: “ngành văn hoá và
công an cần lập hồ sơ đầy đủ cung cấp cho ngành kiểm sát và toà án xét xử kịp
thời”. Tại Thông tư số 03/BTP–-TT cũng quy định nếu phạm tội vượt quá mức

độ xử lý hành chính, thì bị truy tố và xét xử về hình sự và bị phạt tù từ 3 tháng
đến 5 năm tù; trường hợp nghiêm trọng thì phạt đến 15 năm tù; còn có thể bị
phạt tiền đến 1.000đ
ii
[ ]. phạt tiền đến 1.000 đồng [6, tr 256]. Tuy nhiên, quy
định của Thông tư là đối với hành vi “không vì mục đích phản cách mạng”,
hành vi với mục đích “chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa” thì chưa được các cơ
quan tư pháp có quy định chính thức về việc xét xử.
Như vậy, trong giai đoạn này, hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
bước đầu đã được nhìn nhận về mức độ nguy hiểm cho xã hội, đã được quy định
là tội phạm với các dấu hiệu của CTTP cấu thành tội phạm tương đối đầy đủ,
hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung cũng đã được đưa ra. Tuy
nhiênSong, chúng ta cũng thấy, với việc chưa có một bộ luật hoàn chỉnh, các
văn bản pháp luật còn chồng chéo nhau dẫn đến tình trạng tội phạm bị bỏ lọt.
1.1.1.2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong Bộ luật
hình sự năm 1985
Việc các văn bản pháp luật về hình sự chưa được pháp điển hóa đã gây
nhiều khó khăn cho công tác xét xử cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm.
Do đó, một yêu cầu cấp thiết lúc này là phải có một bộ luật hình sự hoàn chỉnh.
Từ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong suốt
những năm từ sau Cách mạng tháng Tám cùng với việc nghiên cứu các văn bản
pháp luật hiện hành, và tham khảo bộ luật hình sự một số nước trên thế giới, Bộ
13
luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực
từ 01/01/1986, là dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của pháp luật hình sự
Việt Nam.
Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy đã được quy định tại Điều 99 Bộ
luật hình sựBLHS năm 1985 thuộc mục B Chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia. Đây có thể dược coi là một sự tiến bộ vượt bậc về mặt khoa học pháp
lý với các quy định đầy đủ về cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 99), cấu

thành tội phạm tăng nặng (khoản 2 Điều 99) và hình phạt, ngoài ra còn một số
hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 100 BLHS năm 1985.
“Điều 99. Tội truyền bá văn hóa đồi trụy
1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, buôn bán, tàng trữ
nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những
vật phẩm khác có tính chất đồi trụy, cũng như có hành vi khác
truyền bá văn hoá đồi trụy thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt
tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn; gây hậu quả nghiêm trọng;
c) Tái phạm nguy hiểm.”
Tuy nhiên, những quy định tại Điều 99 BLHS năm 1985 vẫn còn tồn tại
một số điểm hạn chế, như:
Thứ nhất, trong bối cảnh các thế lực thù địch đưa các vật phẩm có tính
chất đồi trụy vào nước ta nhằm phá hoại về mặt đạo đức, ảnh hưởng đến công
cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc quy định tội truyền bá văn hóa
đồi trụy thuộc mục B Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia là hợp lý. Tuy
nhiên, những năm sau này, khi chúng ta đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao
với các nhiều nước cũng như tình hình an ninh quốc gia đã được ổn định, thì
việc truyền bá vật phẩm đồi trụy chỉ mang tính chất là hành động nhằm xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng mà thôi.
Thứ hai, đó là việc sử dụng thuật ngữ “văn hóa đồi trụy”.
Văn hóa, theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa Học Xã Hội - 1977)
thì “văn hóa là: 1-Toàn thể những thành tựu của loài người trong sản xuất, xã
14
hội và tinh thần. 2- Sự hiểu biết về sự vật hay về cách xử thế tích lũy bằng việc
học tập có hệ thống thấm nhuần đạo đức và các phép tắc lịch sự”. Theo Từ điển
Tiếng Việt (NXB Thống Kê - 2005) thì “văn hóa là: 1- văn trong nghĩa văn

minh; hóa trong nghĩa giáo hóa. Nền giáo hóa theo mỗi văn minh của thời đại.
2- điều hiểu biết, kiến thức”. Theo định nghĩa của UNESCO (năm 2002) về văn
hóa thì “văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng
về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Đồi trụy, theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa Học Xã Hội - 1977)
thì “đồi trụy là mang những thói ăn chơi đàng điếm, dâm ô, hoặc khêu gợi
những ý định thúc đẩy con người sa vào đó”. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB
Thống Kê - 2005) thì “đồi trụy là suy đồi, trụy lạc”.
Như vậy, theo định nghĩa thì “văn hóa” là những gì tốt đẹp thuộc về giá
trị vật chất, tinh thần của xã hội, của con người; “đồi trụy” là những điều không
tốt đẹp, trụy lạc, suy đồi mang tính chất dâm ô. Nếu định nghĩa như vậy thì có
thể nói rằng đã là văn hóa thì không thể nào đồi trụy, hoặc ngược lại đồi trụy thì
không thể là văn hóa được. Vì vậy việc sử dụng thuật ngữ “văn hóa đồi trụy” là
không chính xác.
Thứ ba, về sự miêu tả hành vi phạm tội, Điều luật chỉ quy định các hành
vi “làm ra, sao chép, lưu hành, tàng trữ”, trong khi đó, thực tế cho thấy còn
nhiều hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy khác ví dụ như hành vi vận
chuyển. Chính vì thế việc miêu tả các hành vi theo hướng đóng như tại Điều 99
BLHS 1985 đã ảnh hưởng đến quá trình xét xử, gây khó khăn cho những người
thi hành pháp luật, giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội
truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy.
1.1.2. Quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy trong BLHS
năm 1999
BLHS Bộ luật hình sự năm 1985, mặc dù đóng vai trò quan trọng trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, qua 4 lần sửa đổi vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu
sót, nhất là trong hoàn cảnh đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, đổi mới hàng
ngày. Vì thế, việc nghiên cứu và ban hành một bộ luật mới phù hợp với tình
hình thực tiễn là vô cùng cần thiết.

15
Đáp ứng thực tế đó, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua BLHS Bộ
luật hình sự năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. So với BLHS 1985,
BLHS 1999 đã được sửa đổi bổ sung một cách toàn diện, thể hiện chính sách
hình sự mới, phù hợp với thực tiễn của Nhà nước ta đối với tội phạm nói chung
và với tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy nói riêng. Tội truyền bá văn hóa
phẩm đồi trụy được quy định một cách khoa học, chính xác và đầy đủ hơn tại
Điều 253 BLHS năm 1999.
Khác với quy định tại BLHS năm 1985, trong BLHS năm 1999, tội truyền
bá văn hóa phẩm đồi trụy được coi là tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, thể hiện đúng loại quan hệ xã hội do bộ luật hình sự bảo vệ mà hành
vi phạm tội xâm phạm.
“So với Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 253 Bộ luật hình sự
1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung cơ bản theo hướng phi hình sự hóa, mặc dù có
bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung tăng nặng và mức phạt cao nhất
của tội phạm này là 15 năm (Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1985 là 12 năm)”
iii
-
[ ].năm 1985 là 12 năm) [5, tr 338].
- Về cơ cấu, Điều luật bao gồm 4 khoản (so với 2 khoản quy định tại
BLHS năm 1985), trong đó khoản 1 là CTTP cấu thành tội phạm cơ bản, khoản
2 và 3 là các CTTP cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết tăng nặng tăng
dần, khoản 4 quy định hình phạt bổ sung. Có thể thấy, với cơ cấu như vậy,
BLHS năm 1999 đã quy định chi tiết, khoa học hơn so với BLHS năm 1985khi
có các tình tiết tăng nặng định khung cũng như hình phạt bổ sung
- Về tên tội danh, Điều 253 Bộ luật hình sựBLHS năm 1999 sửa đổi thuật
ngữ “văn hóa đồi trụy” thành “văn hóa phẩm đồi trụy”.
- Về các hành vi, Điều 253 BLHS năm 1999 đã bổ sung thêm hành vi vận
chuyển, sửa đổi hành vi “buôn bán” thành “mua bán”, bên cạnh đó điều luật còn
quy định các hành vi khác, nhằm tránh để lọt tội.

- Về yếu tố định tội, khoản 1 Điều 253 BLHS năm 1999 đã quy định theo
hướng phi hình sự hóa, đó là quy định các yếu tố định tội là: vật phạm pháp có
số lượng lớn; phổ biến cho nhiều người; đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
16
- Về yếu tố định khung hình phạt, Điều luật đã quy định một số tình tiết
như: vật phạm pháp có số lượng rất lớn, đặc biệt lớn; đối với người chưa thành
niên; gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Về hình phạt bổ sung, so với BLHS năm 1985, hình phạt tiền là hình
phạt bổ sung, nhưng bỏ hình phạt bổ sung là loại hình phạt tước một số quyền
công dân và loại hình phạt quản chế; đồng thời cấu tạo lại thành loại hình phạt
quản chế
Như vậy, BLHS năm 1999 ra đời với sự kế thừa các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam và các BLHS nước ngoài đã đánh dấu tạo ra một dấu ấn
quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc cả về thể thức và nội dung của pháp
luật hình sự Việt Nam., trở thành công cụ hữu hiệu thực hiện đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy nói riêng. Vì
vậy, có thể nói, Với các quy định mang tính kỹ thuật pháp điển hóa cao đã đáp
ứng nhu cầu khoa học cũng như thực tiễn sự phát triển của đất nước. Nó là công
cụ quan trọng trong công tác đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn xử lý tội phạm
nói chung cũng như tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy nói riêng. Nó sẽBLHS
năm 1999 đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần to lớn vào việc bảo
vệ trật tự xã hội, gìn giữ truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục, đào tạo nên
những con người mới có lối sống lành mạnh trong công cuộc xây dựng đất
nước., góp phần to lớn vào việc xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
1.2. Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định của pháp luật
hình sự một số nước trên thế giới
Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy do có khách thể đặc biệt là truyền
thống văn hóa của dân tộc cùng với sự quản lý của Nhà nước về văn hóa, đặc

biệt ở chỗ đây là một lĩnh vực mang tính quốc gia, vì thế việc quy định ở từng
quốc gia có nhiều khác biệt.
Hiện nay, pháp luật các nước trên thế giới đang tồn tại những quy định rất
khác nhau về tính hợp pháp của hành vi phổ biến những vật phẩm khiêu dâm. Ở
một số nước phương Tây như Hoa Kỳ, Canada, các nước châu Âu, Nam Mỹ và
Nhật Bản, việc sở hữu, sản xuất và phổ biến các vật phẩm khiêu dâm là hợp
pháp, thậm chí còn là một ngành công nghiệp với giá trị không nhỏ. Trong khi
đó, những vật phẩm khiêu dâm bị cấm, và hành vi truyền bá chúng là tội phạm
17
trong quy định của pháp luật các nước Ả-rập, các nước Hồi giáo, và đặc biệt là
Trung Quốc và Việt Nam.
• Đầu tiên, chúng ta cùng nghiên cứu những quy định của BLHS
Trung Quốc. Là một quốc gia Á Đông với những truyền thống văn hóa có từ lâu
đời, trong đó cũng có nhiều nét tương đồng với nền văn hóa nước ta, Trung
Quốc cũng có quy định nhằm bảo vệ truyền thống văn hóa này. Cụ thể tại Tiết 9
-– Tội sản xuất, mua bán, truyền bá vật phẩm đồi trụy như sau:
“Điều 363:
1. Người nào sản xuất, tái chế, xuất bản, buôn bán, truyền bá vật phẩm
đồi trụy nhằm mục đích kiếm lời sẽ bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao động hoặc
quản chế, và phạt tiền. Nếu có tình tiết nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 3 đến 10
năm, phạt tiền; Nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 10 năm
trở lên, đồng thời phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.
2. Cung cấp, sản xuất vật phẩm đồi truỵ cho người khác sẽ bị tù đến 3
năm, cải tạo lao động hoặc quản chế và phạt tiền; Cung cấp giấy tờ, tài liệu mà
biết rõ để dùng vào việc xuất bản sách báo đồi trụy cũng sẽ bị xử phạt theo qui
định trên đây.
Điều 364:
1. Người nào truyền bá sách báo, tranh ảnh, tranh vẽ, băng hình đồi trụy
sẽ bị phạt tù đến 2 năm, cải tạo lao động hoặc bị quản chế.
2. Tổ chức chiếu phim hoặc thu băng hình đồi trụy sẽ bị tù đến 3 năm trở

xuống, cưỡng chế lao động hoặc quản chế, và phạt tiền; Nếu có tình tiết tăng
nặng sẽ bị phạt tù từ 3 đến 10 năm và phạt tiền.
3. Tổ chức sản xuất, tái chế phim, băng đồi trụy sẽ bị xử nặng hơn qui
định tại khoản 2.
4. Truyền bá những vật phẩm đồi truỵ cho vị thành niên chưa đầy 18 tuổi
sẽ bị xử phạt nặng hơn.
Điều 365:
Tổ chức biểu diễn khiêu dâm sẽ bị tù đến 3 năm, cải tạo lao động hoặc
quản chế và phạt tiền. Nếu có tình tiết nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 3 đến 10
năm và phạt tiền.
Điều 366:
18
Đơn vị (pháp nhân) phạm phải những tội quy định tại Điều 363, 364, 365
của tiết này sẽ bị phạt tiền, người có trách nhiệm trực tiếp sẽ bị xử phạt theo qui
định tại các điều khoản này.
Điều 367:
1. Vật phẩm đồi trụy được nói đến trong luật này là chỉ những sách báo,
phim ảnh, hãng cát sét băng hình tranh ảnh và những vật phẩm đồi trụy khác có
tính khiêu dâm bằng những hành vi miêu tả cụ thể hoặc khiêu dâm một cách lộ
liễu.
2. Những tác phẩm khoa học về y học, sinh lý con người không phải là
vật phẩm đồi trụy.
3. Những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị nghệ thuật có nội dung
tình dục không bị coi là vật phẩm đồi trụy.”
Bên cạnh đó, còn có “Các quy định của Tòa án nhân dân tối cao về việc
xác định tội danh theo Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”
iv
[ ]
nhân dân Trung Hoa” [11] quy định chi tiết về số lượng vật phạm pháp, số lần
thực hiện hành vi phạm tội như sau:

+ Với khoản 1 Điều 363:
“1. Chế tác, phục chế, xuất bản đĩa ghi hình, phần mềm, băng thu âm 50
cái trở lên; đĩa thu âm, băng thu âm từ 100 cái trở lên; tú, sách xuất bản theo
kì, sách tranh từ 200 bức trở lên; ảnh, tranh vẽ từ 1000 bức trở lên;
2. Xuất bản và bán bản in đĩa ảnh, phần mềm, băng thu hình 100 cái trở
lên; đĩa thu âm, băng thu âm từ 200 cái trở lên; tú, sách xuất bản theo kì, sách
tranh từ 200 cái trở lên; ảnh, tranh vẽ từ 1000 trở lên;
3. Truyền bá vật phẩm đồi trụy cho người khác từ, hoặc 200 lần trở lên,
hoặc tổ chức trình chiếu băng hình từ 10 lần trở lên;
4. Chế tác, phục chế, xuất bản, bán bản in, truyền bá vật phẩm đồi trụy,
đoạt lợi 5000 nhân dân tệ trở lên;”
+ Với mục đích mưu lợi, nằm trong các hành vi dưới đây được nhận định
là " tình tiết nghiêm trọng”:
“1. Chế tác, phục chế, xuất bản đĩa ảnh, phần mềm, băng thu hình từ 250
cái trở lên; đĩa tiếng, băng thu âm 500 cái đến 1000 cái; tú, sách xuất bản theo
kì, sách tranh 500 bức đến 1000 bức; ảnh, tranh từ 2500 bức đến 5000 bức;
19
2. Bán bản gốc đĩa ảnh, phần mềm, băng thu hình 500 cái đến 1000 cái; đĩa
tiếng, băng thu âm 1000 cái đến 2000 cái, tú, sách xuất bản theo kì, sách tranh
1000 bức đến 2000 bức; ảnh, tranh 5000 bức đến 10000 bức;
3. Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy cho người khác từ, hoặc 1000 đến
2000 lần trở lên, hoặc tổ chức trình chiếu băng hình từ 50 đến 100 lần trở lên;
4. Chế tác, phục chế, xuất bản, bán bản in, truyền bá vật phẩm đồi trụy,
đoạt lợi 3 đến 5 vạn nhân dân tệ trở lên;”
+ Vì mục đích mưu lợi, thực hiện hành vi thuộc quy định của điều khoản
thứ nhất của Điều 363 Bộ luật hình sự, số lượng gấp 5 lần trở lên của quy định
đầu tiên, được nhận định là hành vi “đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, tội sản xuất, truyền bá vật phẩm đồi trụy được quy định trong 5
điều luật, thể hiện sự chi tiết trong quy định về hành vi phạm tội, tình tiết tăng
nặng, hình phạt cho các cá nhân và đặc biệt cả những pháp nhân phạm tội.

Ngoài ra, còn quy định một điều giải thích về các vật phẩm là đồi trụy và các vật
phẩm không phải là đồi trụy (Điều 367). Bởi vậy, có thể nói, các quy định của
pháp luật hình sự Trung Quốc về tội phạm này là rất chi tiết.tương đối toàn diện
và đầy đủ.
• Trong pháp luật của đa số các nước châu Âu như Anh, Rumani,
Thụy Điển, Đan Mạch… cũng như các nước ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ không có tội
phổ biến những vật phẩm đồi trụy nói chung, vì ở những quốc gia này với quan
điểm tự do cá nhân, những người đạt độ tuổi nhất định được phép sở hữu, xem
các sản phẩm khiêu dâm.
Tuy nhiên, pháp luật các nước này có một tội với đối tượng tác động đặc
biệt đó là tội khiêu dâm trẻ em, trong đó những hành vi phổ biến những vật
phẩm khiêu dâm có trẻ em vị thành niên hoặc phổ biến tới đối tượng là trẻ em vị
thành niên là hành vi phạm tội. Chúng ta hãy cùng xem xét quy định trong Bộ
luật Liên bang Hoa Kỳ về tội này tại Mục 18 – - Tội phạm và tố tụng hình sự,
Phần 1 – - Tội phạm, Chương 110 – - Khai thác tình dục trẻ em và các hình thức
lạm dụng tình dục trẻ em khác:
§ 2252A. Một số hoạt động liên quan đến các vật phẩm khiêu dâm trẻ
em hoặc có chứa ảnh khiêu dâm trẻ em
(a) Người nào -
20
(1) cố ý gửi thư, hoặc vận chuyển giữa các tiểu bang hoặc ra nước ngoài
bằng bất kỳ phương pháp nào, kể cả máy tính, bất kỳ ảnh khiêu dâm trẻ
em nào;
(2) cố ý nhận hoặc phân phối -
(A) ảnh khiêu dâm trẻ em đã được gửi qua thư, hoặc vận chuyển
giữa các tiểu bang hoặc ra nước ngoài bằng bất kỳ phương pháp
nào, kể cả máy vi tính; hoặc
(B) bất cứ vật phẩm nào có chứa ảnh khiêu dâm trẻ em được gửi
qua thư, hoặc vận chuyển gữa các tiểu bang hoặc nước ngoài bằng
bất kỳ phương pháp nào, kể cả máy vi tính;

(3) cố ý -
(A) tái tạo bất kỳ ảnh khiêu dâm trẻ em để phân phối thông qua
các thư từ, hay giữa các tiểu bang hoặc nước ngoài bằng bất kỳ
phương pháp nào, kể cả máy vi tính; hoặc
(B) quảng cáo, quảng bá, giới thiệu, phân phối thông qua thư từ,
hay giữa các tiểu bang hoặc nước ngoài bằng bất kỳ phương pháp
nào, kể cả máy tính, bất cứ vật phẩm hoặc vật phẩm có nội dung
nhằm khiến cho người khác tin rằng những vật phẩm ấy là, hoặc
có chứa -
(i) việc thuật lại hình ảnh khiểu dâm của trẻ vị thành niên
thực hiện hoạt động tình dục; hoặc
(ii) việc thuật lại việc trẻ vị thành niên thực tế thực hiện
hoạt động tình dục;
(4), hoặc -
(A) trong thẩm quyền giải quyết trên biển và trên bộ của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, hoặc trên bất cứ vùng đất hoặc công trình
thuộc sở hữu, cho thuê, hoặc được sử dụng hay dưới sự quản lý
khác của chính phủ Hoa Kỳ, hay trong các vùng đất của người
Anh-điêng (như được định nghĩa trong phần 1151), cố ý bán hoặc
sở hữu hay có ý định bán ảnh khiêu dâm trẻ em; hoặc
(B) cố ý bán hoặc sở hữu để bán ảnh khiêu dâm trẻ em đã được
gửi qua thư, hoặc vận chuyển giữa các tiểu bang hay nước ngoài
bằng bất kỳ phương pháp nào, kể cả máy tính, hoặc đã được sản
xuất bằng cách sử dụng vật phẩm đã được gửi qua thư, hoặc vận
21
chuyển giữa các tiểu bang hay nước ngoài bằng bất kỳ phương
pháp nào, kể cả máy vi tính;
(5), hoặc -
(A) trong thẩm quyền giải quyết trên biển và trên bộ của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, hoặc trên bất cứ vùng đất hoặc công trình

thuộc sở hữu, cho thuê, hoặc được sử dụng hay dưới sự quản lý
khác của chính phủ Hoa Kỳ, hay trong các vùng đất của người
Anh-điêng (như được định nghĩa trong phần 1151), cố ý sở hữu
sách, tạp chí, phim ảnh, băng video, đĩa máy tính, hoặc vật phẩm
khác có chứa hình ảnh khiêu dâm trẻ em; hoặc
(B) cố ý sở hữu sách, tạp chí, phim ảnh, băng video, đĩa máy tính,
hoặc vật phẩm khác có chứa hình ảnh khiêu dâm trẻ em đã được
gửi qua thư, hoặc vận chuyển giữa các tiểu bang hay nước ngoài
bằng bất kỳ phương pháp nào, kể cả máy tính, hoặc được sản xuất
bằng cách sử dụng vật phẩm đã được gửi qua thư, hoặc vận chuyển
giữa các tiểu bang hay nước ngoài bằng bất kỳ phương pháp nào,
kể cả máy vi tính; hoặc
(6) cố ý phân phối, gửi, hoặc cung cấp cho trẻ vị thành niên những vật
phẩm bao gồm bức ảnh, phim ảnh, video, hình ảnh, hoặc tranh ảnh được
tạo ra bởi máy vi tính, được làm ra hoặc sản xuất bằng điện tử, cơ khí,
hay phương tiện khác. Những vật phẩm này miêu tả việc trẻ vị thành niên
thực hiện hoạt động tình dục. Những vật phẩm này -
(A) đã được gửi qua thư, hoặc vận chuyển giữa các tiểu bang hay
nước ngoài bằng bất kỳ phương pháp nào, kể cả máy vi tính;
(B) được sản xuất bằng cách sử dụng vật phẩm được gửi qua thư,
hoặc vận chuyển giữa các tiểu bang hay nước ngoài bằng bất kỳ
phương pháp nào, kể cả máy vi tính; hoặc
(C) mà được phân phối, gửi, hoặc cung cấp bằng thư hoặc bằng
cách truyền tải thông tin liên lạc qua điện tín giữa các tiểu bang
hay nước ngoài, bao gồm cả bằng máy tính,
nhằm mục đích thuyết phục trẻ vị thành niên tham gia vào những hoạt động đó
là bất hợp pháp.
sẽ bị trừng phạt, quy định tại tiểu mục (b).
(b)
22

(1) Ai vi phạm, hoặc cố gắng hay có ý định vi phạm, khoản (1), (2), (3),
(4), hoặc (6) của tiểu mục (a) sẽ bị tiêu đề này và chịu hình phạt tù từ 5
năm đến 20 năm. Nhưng, nếu một người đã từng bị két kết án các tội
thuộc chương này, phần 1591, chương 71 mục 1591, chương 71, chương
109A, hoặc chương 117, hoặc thuộc mục 920 của tiêu đề 10 (điều 120
của Bộ luật tư pháp quân đội), hoặc theo pháp luật của bang liên quan
đến việc lạm dụng tình dục, hay lạm dụng tình dục liên quan đến trẻ vị
thành niên, hoặc việc sản xuất, sở hữu, nhận, gửi thư, bán hàng, phân
phối, vận chuyển ảnh khiêu dâm trẻ em, hoặc buôn bán tình dục trẻ em,
thì sẽ bị phạt tội này và chịu hình phạt tù từ 15 năm đến 40 năm.
(2) Ai vi phạm, hoặc cố gắng hay có ý định vi phạm, tiểu mục (a) (5) sẽ
bị phạt tội này hoặc chịu hình phạt tù không quá 10 năm, hoặc cả hai.
Nhưng, nếu một người từng bị kết án các tội thuộc chương này, Chương
71, Chương 109A, hoặc Chương 117, hoặc hoặc thuộc mục 920 của tiêu
đề 10 (điều 120 của Bộ luật tư pháp quân đội), hoặc theo pháp luật của
bang liên quan đến việc lạm dụng tình dục, hay lạm dụng tình dục liên
quan đến trẻ vị thành niên, hoặc việc sản xuất, sở hữu, nhận, gửi thư, bán
hàng, phân phối, vận chuyển ảnh khiêu dâm trẻ em, người này sẽ bị phạt
theo tiêu đề này và chịu hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
v
[ ]đến 20
năm [15].
Điều luật, tuyTuy có sự khác biệt về đối tượng tác động so với Tội truyền
bá văn hóa phẩm đồi trụy của pháp luật hình sự nước taquy định tại BLHS Việt
Nam, nhưng nhìn vào quy địnhkhi nghiên cứu điều luật trên, chúng ta có thể
thấy kỹ thuật lập pháp rất cao được thể hiện trong luật pháp Hoa Kỳ, điều luật
(trong phần được trích) đã trình bày rất rõ ràng, chi tiết các phần miêu tả hành vi
phạm tội, mục đích phạm tội và hình phạt khi phạm tội.
Từ hai ví dụ về quy định của pháp luật hình sự nước ngoài nêu trên, Như
vậy, kết quả nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật hình sự của hai nước

Trung Quốc và Mỹ nêu trên cho thấy quy định về vấn đề này trong pháp luật các
nước này là rất chi tiết, khoa học và có nhiều điểm chúng ta có thể học hỏi, áp
dụng giúp cho công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm được hiệu quả hơn.
CHƯƠNG 2
23
QUY ĐỊNH VỀ TỘI TRUYỀN BÁ VĂN HÓA PHẨM
ĐỒI TRỤY TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội truyền bá văn hóa
phẩm đồi trụy theo Bộ luật hình sự năm 1999
2.1.1. Khái niệm tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
a) Khái niệm văn hóa phẩm đồi trụy
Để việc áp dụng luật thể hiện đúng ý chí của nhà làm luật, tồn tại mMột
yêu cầu rất quan trọng, đối với các nhà làm luật đó là điều luật phải được hiểu
cho đúng, cho chính xác. Do đó, khi sử dụng các thuật ngữ phải đảm bảo chuẩn
xác về mặt ngữ nghĩa, việc áp dụng luật từ đó cũng thể hiện được đúng ý chí của
nhà làm luật. Vì vậy, khi nghiên cứu về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, để
hiểu chính xáccó một cái nhìn hoàn chỉnh, đúng đắn, chúng ta cần phải hiểuthấy
tồn tại một câu hỏi thế nào là văn hóa phẩm đồi trụy?
Thông tư liên bộ văn hóa – - nội vụ số 855 – - TT/LB ngày 12/05/1984
xác định “Các loại văn hoá phẩm có nội dung đồi trụy:
a) Tuyên truyền cho lối sống đồi bại, dâm loạn, du đãng, trác tác, và
những hành vi trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta và đi ngược lại nếp
sống mới xã hội chủ nghĩa đang được hình thành ở nước ta;
b) Tuyên truyền mê tín, dị đoan.”
Đến BLHS năm 1985, việc tuyên truyền mê tín, dị đoan đã được quy định
thành một tội riêng biệt tại Điều 199 “Tội hành nghề mê tín, dị đoan gây hậu quả
nghiêm trọng”, còn việc tuyên truyền cho lối sống đồi bại, dâm loạn, những
hành vi trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc thì đã được quy định tại Điều 99
Tội truyền bá văn hóa đồi trụy. BLHS năm 1999 đã sửa thành Tội truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy, tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng việc sử dụng

thuật ngữ “văn hóa phẩm đồi trụy” là vẫn chưa chính xác, bởi lẽ:
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Thống Kê - 2005) thì “văn hóa phẩm là:
sản phẩm phục vụ đời sống văn hóa”. Như vậy, nó chỉ bao gồm: tranh ảnh, báo,
tạp chí, băng, đĩa, truyện… Nếu chỉ quy định là văn hóa phẩm, khi xuất hiện
những loại sản phẩm không phải là tranh, ảnh, băng đĩa phim ảnh mà là những
vật dụng khác như bật lửa, dụng cụ kích dục… có tính chất đồi trụy mới xuất
hiện trong thời gian gần đây ở nước ta thì sẽ gặp khó khăn trong việc áp dụng
pháp luật, và cũng ảnh hưởng đến quan hệ xã hội mà điều luật bảo vệ. Vì vậy,
24
nhà làm luật nên sử dụng thuật ngữ “vật phẩm đồi trụy”. Bởi lẽ, vật phẩm đồi
trụy là những sản phẩm mang tính chất suy đồi, trụy lạc, nó bao gồm cả văn hóa
phẩm và cả những sản phẩm khác có thể phát sinh sau này.
Trong BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thuật ngữ “vật
phẩm đồi trụy” cũng được sử dụng. Bộ luật Liên bang Hoa Kỳ cũng dùng từ
“material” có nghĩa là những vật phẩm. Từ đó, ta có thể thấy việc sử dụng “vật
phẩm đồi trụy” là chính xác về mặt ngôn ngữ đồng thời cũng phù hợp với quy
định trong luật pháp nhiều nước trên thế giới.
b) Định nghĩa tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
Điều 8 BLHS 1999 đã đưa ra khái niệm chung về tội phạm làm cơ sở
khoa học cho việc xác định các tội phạm cụ thể trong BLHS. Tội truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy được, quy định tại Điều 253 BLHS hiện hành, theo đó thì tội
truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy được hiểu là: “làm ra, sao chép, lưu hành, vận
chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim hoặc
những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy, cũng như có hành vi khác truyền bá
văn hóa phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây: vật phạm pháp
có số lượng lớn; phổ biến cho nhiều người; đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Trên cơ sở hai điều luật này chúng ta có khái niệm của tội truyền bá văn
hóa phẩm đồi trụy như sau: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm

hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến truyền thống văn hóa của dân tộc,
những giá trị vật chất và tinh thần của loài người, xâm phạm đến sự quản lý của
Nhà nước về việc duy trì, phát triển nếp văn hóa văn minh, mang đậm bản sắc
dân tộc.
2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
2.1.2.1. Khách thể
Khách thể của tội phạm được hiểu là các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [16, tr 78] hại
vi
[ ]. Theo quy định của BLHS
Việt Nam hiện hành, các quan hệ xã hội được coi là khách thể chung của luật
hình sự được liệt kê tại Điều 8 BLHS 1999.
Do tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy được quy định tại chương các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng vì nó xâm phạm đến truyền
25

×