Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 154 trang )

Bộ giáo dục đào tạo
Bộ tư pháp
Trường đại học luật hµ néi

NGUYỄN THỊ ANH THƠ

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
BẢO HIỂM XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012


2

Bộ giáo dục đào tạo
Bộ tư pháp
Trường đại học luật hµ néi

NGUYỄN THỊ ANH THƠ

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
BẢO HIỂM XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 62 38 01 04
(Mã số cũ: 62 38 40 01)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa

HÀ NỘI – 2012


3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, xu thế hội nhập quốc tế
đã mang lại nhiều tác động tích cực đối với các nước đang phát triển, các nước có thu
nhập thấp. Tuy nhiên, quá trình này cịn đan xen cả những tác động tiêu cực đến hoạt
động của nền kinh tế cũng như sự ổn định xã hội. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia cần
phải có những biện pháp phù hợp để hạn chế tác động tiêu cực phát sinh. Trong đó,
một cơ chế chính sách và pháp luật phù hợp với thực tế đất nước cũng như các chuẩn
mực quốc tế và khu vực sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế, ngăn ngừa những ảnh hưởng xấu tác động đến đời sống chính trị - xã hội của đất
nước.
Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trên thế giới và khu vực cho
thấy, phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội. Hiện nay,
không một quốc gia nào trên thế giới lại khơng coi chính sách an sinh xã hội là một
chính sách xã hội quan trọng mà trong đó, BHXH là một trụ cột khơng thể thiếu1.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế. Việc bảo vệ lực lượng lao động trong xã hội bằng cách bảo đảm thu nhập
cho họ, tránh tạo ra một lớp người nghèo mới trong tương lai là một yêu cầu khách

quan. Công nghiệp phát triển, đất đai dùng vào sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp đã
tạo ra một lực lượng lao động làm công ăn lương, sống bằng tiền lương, tiền cơng
hàng tháng. Điều này địi hỏi sự cần thiết phải có BHXH để có cơ sở tạo ra nguồn thu
nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường của người lao động bị
gián đoạn hoặc bị mất đi do các nguyên nhân mang tính xã hội như ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động… BHXH khơng
những góp phần giảm bớt sự mất mát về tiền đối với cá nhân người lao động bằng
cách chuyển đổi nguy cơ tổn thất tài chính gây ra bởi các rủi ro mang tính xã hội
thành các khoản đóng góp nhỏ mà cịn góp phần bảo vệ gia đình họ trước nguy cơ
phải tiêu tốn các khoản tiền lớn hơn thu nhập của họ và qua đó góp phần đảm bảo đời
sống cho người lao động. Do vậy, BHXH được xem là yếu tố căn bản để xây dựng hệ
thống an sinh xã hội ổn định lâu dài.

1

BHXH có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là nghĩa trong đó khơng bao gồm BHYT nhưng cũng có thể được hiểu theo nghĩa
rộng là nghĩa trong đó bao gồm cả BHYT.


4

Ở Việt Nam, chính sách BHXH đã trải qua một nửa thế kỷ kể từ khi Điều lệ
tạm thời về BHXH được ban hành năm 1961 và sau hơn một thập kỷ kể từ khi Điều
lệ BHXH được thực thi đến khi Luật BHXH, Luật BHYT được ban hành. Chính sách
BHXH được thực hiện ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả
hết sức to lớn, góp phần đáng kể trong việc ổn định cuộc sống của hàng triệu người
lao động khi họ hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động, khi họ gặp những rủi ro như
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động… Do vậy, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2020 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển hệ thống an
sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống các

chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm[18].
Chính sách BHXH tuy quan trọng như vậy nhưng cũng dễ bị lạm dụng như
các chính sách xã hội khác nếu khơng được kiểm sốt chặt chẽ với những chế tài
nghiêm khắc. Để hạn chế việc lạm dụng này, một hành lang pháp lý về BHXH đã
được tạo dựng trong Luật Bảo hiểm xã hội (được Quốc hội thơng qua ngày 29/6/2006
và có hiệu lực từ 1/1/2007) và trong Luật BHYT (được Quốc hội thông qua ngày
14/11/2008 và có hiệu lực từ 1/7/2009). Các luật này đã quy định các hành vi vi phạm
pháp luật về BHXH, BHYT cũng như các chế tài có thể áp dụng đối với các hành vi
vi phạm này. Dưới hai luật này là Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH (thay thế Nghị định số
135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007) và Nghị định số 92/2011/NĐ-CP ngày 17/10/2011
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHYT.
Như vậy, có thể thấy chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
đã tương đối đầy đủ. Nhưng do mức xử phạt thấp, không đủ sức răn đe cũng như do
các biện pháp đảm bảo thực hiện thiếu tính khả thi nên đã làm cho tình trạng trốn
tránh trách nhiệm đóng BHXH cũng như các hành vi gian lận BHXH khơng những
khơng giảm mà cịn gia tăng trong thời gian qua, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của
người lao động cũng như gây thiệt hại cho quỹ BHXH. Hơn nữa, việc kiểm tra, xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH cũng còn hạn chế do lực lượng thanh tra
chuyên ngành chưa đủ mạnh. Nhiều trường hợp sai phạm được cơ quan BHXH phát
hiện, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra xử phạt vi phạm hành chính nhưng
khơng được giải quyết kịp thời. Do vậy, BHXH nhiều tỉnh, thành phố đã phải đứng
đơn khởi kiện các doanh nghiệp khơng đóng BHXH để bảo vệ quyền lợi của người
lao động. Tuy nhiên, việc thi hành các bản án buộc doanh nghiệp vi phạm phải nộp số
tiền BHXH chưa đóng và số tiền lãi chậm đóng cho cơ quan BHXH cũng gặp rất
nhiều khó khăn, thời gian thu hồi nợ kéo dài, thậm chí có doanh nghiệp không thể


5


nộp được do khơng cịn khả năng tài chính. Việc chuyển hồ sơ sang Phòng cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ đề nghị khởi tố về tội danh
không thi hành án theo quy định của BLHS cũng gặp khơng ít vấn đề vướng mắc.
Hiện nay, các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH vẫn xảy ra ngày một
nghiêm trọng hơn và vẫn chưa có phương án giải quyết có hiệu quả. Tính đến
31/8/2011, theo Số liệu được cơng bố tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Luật
BHXH do Bộ Lao động - Thương Binh xã hội tổ chức ngày 29/11/2011, con số 4.611
tỷ đồng tiền BHXH mà các đơn vị sử dụng lao động đang chiếm dụng đã làm cho
quyền hưởng BHXH của hàng triệu người lao động bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, theo
thống kê của BHXH Việt Nam, tính đến 30/6/2012, con số này đã tăng thêm gần
4.000 tỷ đồng, nâng số tiền BHXH các đơn vị sử dụng khơng đóng lên hơn 8.600 tỷ
đồng. Bên cạnh đó, việc phát hiện số lượng lớn giấy chứng nhận nghỉ ốm giả, sổ
khám bệnh khống được bán cho người lao động để làm hồ sơ rút tiền bảo hiểm trái
pháp luật cũng như việc lập hồ sơ bệnh án khống để rút tiền BHYT… đang là vấn đề
làm cho chính sách BHXH bị lạm dụng và quỹ BHXH bị thâm hụt.
Mặc dù các quy định về xử phạt vi phạm pháp luật BHXH, BHYT cũng cho
phép truy cứu trách nhiệm hình sự các cá nhân có hành vi vi phạm Luật BHXH, Luật
BHYT đến mức bị coi là tội phạm nhưng do BLHS Việt Nam khơng có các điều luật
riêng về các tội phạm trong lĩnh vực BHXH nên chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình
sự theo các tội danh chung tương ứng. Vì vậy, trên thực tế có những hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ đóng BHXH nhưng khơng thể xử lý hình sự được, những
hành vi gian lận để hưởng BHXH tuy có thể xử lý được nhưng vì khơng có tội danh
riêng nên việc áp dụng cũng chưa thật sự phù hợp với tính chất của hành vi cũng như
chưa đảm bảo được yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự. Điều này cho thấy, những
quy định của pháp luật xét về mặt hình thức đã hội tụ đủ những điều kiện để xử lý vi
phạm cũng như tội phạm trong lĩnh vực BHXH nhưng trên thực tế, tính khả thi của
các quy định này khơng cao nếu như khơng muốn nói là chưa đáp ứng được yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa vi phạm cũng như tội phạm trong lĩnh vực
BHXH.

Trước tình hình đó, việc tun truyền và giáo dục là những biện pháp trước
mắt để hạn chế những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH. Tuy nhiên, để ngăn
chặn có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật BHXH địi hỏi phải sử dụng nhiều
hình thức chế tài từ thấp tới cao một cách phù hợp. Trong đó, cần thiết phải có sự tác
động hiệu quả của chế tài hình sự - chế tài nghiêm khắc nhất của Nhà nước với nội
dung là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội để họ thấy rằng hậu
quả của việc vi phạm pháp luật là bất lợi hơn rất nhiều so với những lợi ích mà việc


6

phạm tội đem lại. Từ đó tạo ra cơ chế tác động tới hành vi của những người có ý định
phạm tội, khiến họ từ bỏ ý định thực hiện tội phạm.
Như vậy, có thể thấy rằng trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, Nhà nước trong đó có Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ
Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội
phạm trong tình hình mới”, Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm, cơng tác
đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm đã đạt được nhiều kết quả góp phần kìm chế
sự gia tăng của một số loại tội phạm, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực BHXH,
củng cố lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật. Tuy
nhiên, thực tiễn phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng đã đặt ra nhiều
vấn đề địi hỏi khoa học luật hình sự phải giải quyết như việc xử lý hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực BHXH mới chỉ có thể thực hiện được đối với nhóm hành vi liên
quan đến quyền thụ hưởng BHXH và nhóm hành vi liên quan đến quản lý hoạt động
BHXH mà chưa thể thực hiện được đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng
BHXH khiến cho người sử dụng lao động có ý thức coi thường pháp luật. Điều này
không những ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật BHXH mà cịn ảnh hưởng đến
tính tơn nghiêm của pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, xét về mặt lý luận, còn nhiều
vấn đề về tội phạm trong lĩnh vực BHXH chưa được làm rõ như khái niệm, phân loại,
xác định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính... nên gây khó khăn trong

việc áp dụng pháp luật để xử lý vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực này.
Chính vì vậy, đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện để làm rõ
các hành vi vi phạm pháp luật BHXH có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, nghiên
cứu các tội phạm có thể phát sinh trong lĩnh vực BHXH góp phần hồn thiện cơ sở lý
luận và thực tiễn của trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật
BHXH ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BHXH được coi là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách về an
sinh xã hội của quốc gia nên các nghiên cứu liên quan đến chính sách BHXH chủ yếu
tập trung vào các vấn đề cụ thể của từng chế độ nhằm mục đích điều chỉnh chính sách
BHXH cho phù hợp với tình hình thực tế của cơng cuộc xây dựng đất nước. Có thể
chia chính sách BHXH ở Việt Nam thành hai thời kỳ chính, đó là: Thời kỳ “bao cấp”
về BHXH - thời kỳ thực hiện Điều lệ tạm thời về BHXH từ năm 1961 đến hết năm
1994 và thời kỳ cải cách chính sách BHXH từ năm 1995 đến nay.
Thứ nhất, thời kỳ trước năm 1995 - trong thời kỳ này, việc thực hiện chính
sách BHXH do ngành Lao động - Thương binh & Xã hội và ngành Cơng đồn (nay là


7

Liên đồn lao động) thực hiện. Trong đó, ngành Lao động - Thương binh & Xã hội
quản lý và thực hiện các chế độ BHXH dài hạn, ngành Cơng đồn quản lý và thực
hiện các chế độ BHXH ngắn hạn. Phần lớn các nghiên cứu về BHXH trong thời kỳ
này là tổng kết thực tiễn và đưa ra những đề xuất thay đổi chính sách trong từng thời
kỳ cho phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế - xã hội.
Giai đoạn sau năm 1990 là giai đoạn “hậu bao cấp” về BHXH, khi tỷ trọng
mức chi trả BHXH từ ngân sách nhà nước đã tăng từ 73,82% (năm 1990) lên 92,7%
(năm 1993), gây áp lực lớn cho ngân sách nhà nước thì yêu cầu cấp thiết phải cải
cách chính sách BHXH ở Việt Nam đã được đặt ra. Trong thời kỳ này có rất nhiều
bài nghiên cứu hướng tới cải cách chính sách BHXH và phân định rõ chức năng quản

lý và chức năng thực hiện hoạt động BHXH. Phần lớn những nghiên cứu này được
công bố trong khuôn khổ Hội thảo quốc gia năm 1992 về BHXH (Dự án VIE/90017). Trong số đó, có thể kể đến những nghiên cứu sau:
- Bài nghiên cứu “Quan điểm tài chính trong việc đổi mới BHXH ở nước ta”
của tác giả Nguyễn Văn Châu (Bộ Tài chính): Trong bài viết này, tác giả đánh giá cơ
chế tài chính để thực hiện chính sách BHXH trong hơn 30 năm (kể từ khi thực hiện
điều lệ BHXH năm 1961) là phù hợp với giai đoạn lịch sử của đất nước. Tuy nhiên,
cùng với những thay đổi của nền kinh tế, việc tách rời sự điều chỉnh về mức đóng
BHXH và chính sách BHXH, hay nói cách khác, khi thiết kế chính sách BHXH mà
khơng chú ý đến nguồn tài chính đảm bảo, cịn để chính sách xã hội khác đan xen
trong chính sách BHXH, khơng kịp thời điều chỉnh nguồn đóng góp vào quỹ BHXH
để chi trả cho các chế độ BHXH đã làm cho Nhà nước phải gánh những khoản chi
BHXH rất lớn, gây áp lực cho ngân sách nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra những giải
pháp nhằm đổi mới cơ chế quản lý tài chính quỹ BHXH.
- Bài nghiên cứu “Một số vấn đề lý luận về BHXH trong nền kinh tế thị
trường” của tác giả Trần Quang Hùng (Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã
hội): Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến một số khái niệm trong lĩnh vực
BHXH, chính sách BHXH, một số khái niệm liên quan đến BHXH và so sánh BHXH
với hình thức bảo hiểm thương mại để từ đó đưa ra những đề xuất hồn thiện chính
sách BHXH trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam.
- Bài nghiên cứu “Cơ sở khoa học của BHXH từ góc độ đổi mới” của các tác
giả Trần Quang Hùng và Mạc Văn Tiến: Trong bài viết này, các tác giả đã nghiên
cứu xoay quanh vấn đề nguồn hình thành quỹ BHXH, các chế độ BHXH và phương
thức thực hiện BHXH trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.


8

Đặc biệt, trong số các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực hiện BHXH và đề
xuất một số cải cách đối với Việt Nam có bài nghiên cứu của tác giả người Mỹ L.

Villacorta - chuyên gia kỹ thuật về BHXH của Tổ chức Lao động quốc tế. Bài viết
này đã được công bố trong Hội thảo quốc gia về BHXH tại Việt Nam năm 1992.
Trong đó, tác giả đã đưa ra những đề xuất cho Chính phủ Việt Nam trong việc đổi
mới cách thức thực hiện BHXH trên cơ sở đánh giá một cách tồn diện về hệ thống
chính sách BHXH ở Việt Nam trong sự so sánh với chính sách BHXH của một số
nước trên thế giới.
Bên cạnh đó cịn có rất nhiều bài nghiên cứu của các tác giả là chuyên gia của
Bộ Lao động - thương Binh & Xã hội (như TS. Nguyễn Hữu Dũng và các chuyên gia
Lê Luyện, Hà Ngọc Quế v.v..) với nội dung đánh giá chính sách BHXH trong thời kỳ
này và đề xuất các kiến nghị nhằm hồn thiện chính sách BHXH trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam.
Thứ hai, thời kỳ từ năm 1995 đến nay - thời kỳ mà trong đó chính sách BHXH
được đặc biệt quan tâm và được coi là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về
an sinh xã hội. Các nghiên cứu về chính sách BHXH trong thời gian này cũng có
những bước phát triển đáng kể. Trong đó phải kể đến một số luận án tiến sỹ và các đề
tài, đề án nghiên cứu cấp bộ, ngành xoay quanh nội dung hoàn thiện chính sách
BHXH ở Việt Nam như:
- Luận án Phó tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Huy Ban (năm 1996) với đề
tài “Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn”: Đây là
luận án phó tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về những vấn đề lý luận về
BHXH và đánh giá thực trạng công tác xây dựng pháp luật BHXH ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó, tác giả đã đề xuất mơ hình xây dựng Luật BHXH, trong đó có vấn đề giải
quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về BHXH.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh (năm 2004) với đề tài “Hoàn thiện
quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”: Luận án đã tập trung phân tích tình hình tài
chính quỹ BHXH qua các thời kỳ và đưa ra các giải pháp liên quan đến quản lý và
cân đối quỹ BHXH.
- Nghiên cứu của tác giả Trần Quang Hùng và Mạc Văn Tiến trong cuốn “Đổi
mới chính sách BHXH đối với người lao động” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1998):
Trong nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích chính sách BHXH với những bất cập

của nó và đề xuất các kiến nghị đổi mới chính sách đối với người lao động.
- Đề tài nghiên cứu cấp ngành “Chế độ lương hưu của các đối tượng nghỉ hưu
thời kỳ trước và sau năm 1995, thực trạng và giải pháp” (năm 2003) của tác giả Hà


9

Văn Chi (Bảo hiểm xã hội Việt Nam): Trong đề tài này, tác giả đã đề cập đến sự bất
hợp lý trong quy định của pháp luật về chế độ hưu trí trong các phân đoạn của chính
sách BHXH trước và sau năm 1995 để từ đó đưa ra các kiến nghị về điều chỉnh tiền
lương hưu đối với các đối tượng nghỉ hưu trước năm 1995.
- Gần đây, các chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách của Bộ Lao động
- Thương binh & Xã hội đã có cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện về chính
sách BHXH, thể hiện trong: “Báo cáo đánh giá hệ thống chính sách BHXH” được
đăng trên Bản tin số 25 năm 2011 của Viện Khoa học Lao động xã hội. Báo cáo này
đã đưa ra các khuyến nghị về cải cách chính sách BHXH cũng như sự cần thiết của
việc đa dạng hóa các phương thức thực hiện BHXH.
Bên cạnh đó, cịn có nhiều đề tài nghiên cứu cấp Bộ khác cũng như nhiều bài
nghiên cứu khác được đăng tải trên các Tạp chí Lao động xã hội, Tạp chí BHXH với
nội dung nghiên cứu về các chế độ BHXH, BHYT, từ đó đề xuất các kiến nghị hồn
thiện chính sách BHXH, BHYT ở Việt Nam.
Về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH (từ khi Luật BHXH có hiệu lực 01/01/2007) cũng đã có nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến các hành vi trốn
đóng BHXH, chậm đóng BHXH cho người lao động (Tạp chí BHXH, Tạp chí Lao
động xã hội...). Ngồi ra cịn có nhiều bài viết thông tin về các vụ án liên quan đến
các vấn đề như trục lợi từ quỹ BHYT, lợi dụng chức vụ trong giải quyết các chế độ
BHXH được đăng trên các báo Pháp luật, báo Công an nhân dân và các báo điện tử
khác2... Riêng Báo BHXH - cơ quan ngôn luận của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có
rất nhiều bài viết về các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp BHXH. Các bài viết này đều
đã thống nhất đánh giá chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH là
thấp, khơng đủ sức răn đe, trong khi đó, chế tài hình sự lại chưa có thể được áp dụng

cho các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH của người sử dụng lao động. Việc áp
dụng một số điều tương ứng trong BLHS đối với một số hành vi phạm tội trong lĩnh
vực BHXH cịn gặp nhiều vướng mắc nên có tình trạng khơng thống nhất trong định
tội danh và quyết định hình phạt hoặc để lọt tội phạm. Điều này đã làm cho pháp luật
BHXH không được thực hiện nghiêm trên thực tế, quyền lợi của người lao động bị
xâm phạm ngày càng nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, u cầu khách quan được đặt ra là cần nghiên cứu một
cách tổng thể và cụ thể về tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH và về
chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHYT. Đề án khoa học
cấp ngành “Xây dựng quy trình tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi phạm pháp luật

2

Theo thống kê của tác giả có hơn 100 bài viết về vấn đề này đã được đăng trên các báo khác nhau.


10

về BHXH, BHYT và BHTN" của tác giả Lê Quyết Thắng và nhóm nghiên cứu (BHXH
Việt Nam, năm 2009) đã đáp ứng được một phần yêu cầu này khi tập trung nghiên
cứu các nội dung liên quan đến hồ sơ tham gia tố tụng và chế tài xử phạt vi phạm
pháp luật về BHXH, BHYT và BHTN ở Việt Nam. Đề án này đã có đóng góp tích
cực cho BHXH Việt Nam trong việc kiến nghị sửa đổi Nghị định số 135/2007/NĐCP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH và kiến nghị cần
phải tội phạm hóa một số hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH. Tuy nhiên, cho đến
nay, những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH chưa có chiều hướng giảm mặc dù
Nghị định số 86/2010/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH đã được ban hành thay thế cho Nghị định 135/2007/NĐ-CP nói trên, trong đó
mức xử phạt tối đa đối với những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
đã được nâng lên là 30 triệu đồng thay cho mức 20 triệu đồng. Điều này đã cho thấy,
nếu chỉ sử dụng chế tài hành chính thì khó có thể kìm chế được các hành vi vi phạm

pháp luật BHXH, đặc biệt là đối với nhóm hành vi trốn tránh trách nhiệm đóng
BHXH của người sử dụng lao động.
Ngày 29/11/2011, tại Hội nghị Tổng kết, đánh giá 5 năm thực hiện Luật
BHXH, đại diện của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Bộ Lao động Thương
Binh & Xã hội và Bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở các nghiên cứu, đánh giá của
mình đều đưa ra những kiến nghị về sự cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Luật BHXH, trong đó có kiến nghị liên quan đến chế tài xử phạt vi phạm pháp luật
BHXH như sau: Quy định về chế tài xử phạt vi phạm pháp luật BHXH cần được
nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp hơn, các hành vi trốn đóng BHXH, chậm đóng
(chiếm dụng tiền BHXH)… cần được nghiên cứu để quy định thành tội danh trong
BLHS nhằm đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội[1].
Ở ngồi nước, có thể kể đến cơng trình nghiên cứu “An approach on social
security anti-fraud Law in China” của tác giả Hu Jiye (năm 2009). Công trình này
được thực hiện trong khn khổ sự hợp tác của cộng đồng châu Âu và Trung Quốc
trong Dự án hợp tác về cải cách BHXH. Đây là một tài liệu nghiên cứu sâu về nhóm
giải pháp nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận BHXH. Trong đó, các giải pháp được
đưa ra bao gồm các giải pháp hoàn thiện pháp luật hành chính, pháp luật thuế, pháp
luật dân sự và pháp luật hình sự, tạo ra hệ thống các chế tài từ thấp đến cao nhằm kìm
chế sự gia tăng ngày càng nhanh các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH ở Trung
Quốc. Trong các kiến nghị đưa ra có giải pháp phải bổ sung vào luật hình sự của
Trung Quốc các điều khoản quy định về tội gian lận BHXH.
Tóm lại, ở Việt Nam, ngồi các cơng trình nghiên cứu về BHXH của các tác
giả, các cơ quan chun mơn có chức năng hoạch định chính sách hoặc thực hiện


11

chính sách BHXH, trong đó có nghiên cứu về chế tài xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH nhằm hồn thiện chính sách BHXH nói chung và hồn thiện
pháp luật thực định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói riêng

cịn có nhiều bài báo phản ánh các vụ việc vi phạm pháp luật về BHXH, đặc biệt là vi
phạm nghĩa vụ đóng BHXH. Từ thực trạng những vi phạm này, đề xuất cần phải xử
lý hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, đặc biệt là đối với hành vi vi
phạm nghĩa vụ đóng BHXH cũng đã được đề cập đến trong các văn bản kiến nghị của
các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, cơ quan thực hiện BHXH và của Ủy ban
các vấn đề xã hội của Quốc hội. Tuy nhiên, đến thời điểm này vẫn chưa có cơng trình
nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ hay luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề tội phạm trong
lĩnh vực BHXH ở Việt Nam dưới góc độ luật hình sự cũng như tội phạm học. Chính
điều này đã thúc đẩy tác giả lựa chọn đề tài: “Tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã
hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích mà luận án hướng tới là xây dựng cơ sở khoa học cũng như thực tiễn
cho các kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về nhóm tội phạm trong
lĩnh vực BHXH.
Để đạt được mục đích này luận án có nhiệm vụ nghiên cứu một cách toàn diện
lý luận về tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH; nghiên cứu thực tiễn
lập pháp và thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH của
Việt Nam và một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó luận án kiến nghị hướng hồn
thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng như
hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hành chính về vi phạm trong lĩnh vực
BHXH để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài luận án
Luận án được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật Việt Nam và của một số nước trên
thế giới về tội phạm trong lĩnh vực BHXH. Luận án cũng nghiên cứu một số vụ án
điển hình trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự để xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực BHXH từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được tác giả thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận án để đạt được
mục đích nghiên cứu đã đặt ra là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,


12

phương pháp so sánh,...
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận án
Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về tội phạm trong lĩnh vực BHXH, một
lĩnh vực chuyên ngành hẹp nhưng lại có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và có tác
động khơng nhỏ tới đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở lý luận chung về tội phạm và quy định của các quốc gia về tội
phạm trong lĩnh vực BHXH, luận án là cơng trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam
xây dựng định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực BHXH, phân tích các đặc điểm, các yếu
tố của tội phạm cũng như đưa ra các tiêu chí phân loại và phân biệt giữa tội phạm với
vi phạm trong lĩnh vực này.
Luận án cũng là cơng trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam đề xuất mơ hình
tổng thể bổ sung quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH với các phương án khác
nhau - phương án mở rộng nguồn trực tiếp của pháp luật hình sự cũng như mở rộng
phạm vi chủ thể của tội phạm và phương án giữ nguyên như quy định hiện nay.
Trong đó, luận án không chỉ xác định các tội danh thuộc lĩnh vực BHXH mà cịn mơ
tả các dấu hiệu pháp lý của các tội danh này. Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất hoàn
thiện một số quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính có liên quan
nhằm tạo ra sự đồng bộ của hệ thống pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cơ quan BHXH Việt Nam trong việc xây dựng các luận cứ khoa học để kiến nghị
với các cơ quan có thẩm quyền về yêu cầu tội phạm hóa một số hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực BHXH ở mức cần bị coi là tội phạm nhằm đảm bảo sự tôn nghiêm
của pháp luật về BHXH, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người sử dụng lao

động, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Kết quả nghiên cứu
của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và
nghiên cứu về tội phạm trong một lĩnh vực chuyên ngành.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề chung về tội phạm trong lĩnh vực BHXH
Chương II: Bộ luật hình sự Việt Nam với việc áp dụng để xử lý tội phạm trong
lĩnh vực BHXH
Chương III: Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quy định
về tội phạm trong lĩnh vực BHXH.


13

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG
LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM
XÃ HỘI
1.1. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội và định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội
Để có cơ sở cho việc xây dựng khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực BHXH
chúng ta cần bắt đầu từ bản chất, khái niệm BHXH để từ đó xác định những dạng
hành vi có thể gây nguy hiểm đáng kể cho lĩnh vực BHXH và do vậy có thể bị coi là
tội phạm thuộc lĩnh vực này.
Với mục đích nhằm giảm thiểu tác động của các rủi ro mà người lao động
thường phải đối mặt có thể làm cho tiền lương hằng tháng của họ bị gián đoạn hoặc

mất đi cũng như làm phát sinh chi phí về chăm sóc y tế, tìm kiếm việc làm... ảnh
hưởng tới thu nhập người lao động nói riêng và tới đời sống xã hội nói chung, BHXH
đã ra đời với việc quy định trách nhiệm đóng góp của người sử dụng lao động kết hợp
với dự phịng cá nhân có sự chia sẻ lẫn nhau dưới sự tổ chức, quản lý của nhà nước.
Đây là biện pháp hữu hiệu để khắc phục hậu quả của các rủi ro đối với người lao
động và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong chính sách xã hội của các quốc gia
trên thế giới. Tuy nhiên, ở đâu có quyền lợi thì ở đó cũng dễ nảy sinh vi phạm và tội
phạm, BHXH cũng là lĩnh vực không nằm ngồi quy luật này.
Bảo hiểm xã hội, theo Cơng ước 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an
toàn xã hội của Tổ chức lao động quốc tế ban hành năm 1952 bao gồm 9 chế độ: Bảo
hiểm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất
nghiệp, y tế, trợ cấp gia đình và trợ cấp tàn tật. Việt Nam hiện nay đang thực hiện 7
trong số 9 chế độ nói trên, đó là chế độ bảo hiểm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.
Thông qua hệ thống các chế độ trợ cấp, BHXH bù đắp hoặc thay thế thu nhập
cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện, những “rủi ro” mang tính xã
hội làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động khơng được sử dụng, góp phần đảm
bảo an toàn xã hội. Khi người lao động bị mất thu nhập do không thể lao động được
hoặc sức lao động không được sử dụng (trường hợp thất nghiệp), BHXH thực hiện trả
trợ cấp BHXH thay cho phần thu nhập bị mất này. Khoản thu nhập thay thế này, tùy


14

theo điều kiện kinh tế - xã hội và khả năng của quỹ BHXH có thể bằng tồn bộ hoặc
một phần thu nhập đã mất.
Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của nước mình, các quốc gia trên
thế giới lựa chọn mơ hình BHXH phù hợp, đó có thể là một trong 3 mơ hình sau hoặc
là mơ hình có sự kết hợp của cả 3 mơ hình này:
- Mơ hình BHXH tồn dân (tập trung vào chương trình bảo hiểm hưu trí):

Mơ hình này được thiết kế theo hướng trả cùng một khoản cho tất cả người già
khơng phụ thuộc là trước đó có đi làm hay khơng cũng như trước đó đã đóng
bao nhiêu vào quỹ hưu trí. Trong các nước lựa chọn mơ hình này có một số
nước như Nam Phi, Canada, Thụy Điển.
- Mơ hình chương trình hưu trí đóng hưởng với mức hưởng xác định: Mơ
hình này cịn được gọi là mơ hình quỹ tồn tích cộng đồng. Trong đó, nguồn quỹ
được hình thành chủ yếu từ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và sự hỗ trợ của Nhà nước. Việc chi trả chỉ được thực hiện đối với người
lao động đã đóng BHXH và mức hưởng được xác định theo mức đóng bình
qn của thời gian đã tham gia BHXH. Loại mơ hình này thường được quản lý
bởi các cơ quan nhà nước và được đa số các quốc gia lựa chọn trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, mơ hình này đang bộc lộ một số khiếm khuyết, trong đó có sự
mất cân đối về nguồn chi trả. Nhiều quốc gia đang gặp khó khăn này như Đức,
Pháp, Ý và ngay cả Mỹ cũng vậy.
- Mơ hình có mức đóng xác định: Đây là mơ hình mà trong đó nguồn quỹ
được hình thành do người lao động hoặc do chủ sử dụng lao động hoặc do người
lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp. Mức hưởng của người lao
động được xác định căn cứ vào số tiền đã đóng trước đó cũng như lãi suất từ
hoạt động đầu tư số tiền đã đóng. Vì mỗi người có một tài khoản riêng nên mơ
hình này cịn được gọi là mơ hình tài khoản cá nhân. Đây là mơ hình đang được
áp dụng ở một số nước Bắc Mỹ như Mexico, Costa Rica,…[32, tr. 105].
Trong số các mơ hình trên, mơ hình mức đóng xác định được đánh giá là mơ
hình chiếm ưu thế do khơng gây áp lực cho việc tính tốn cân đối quỹ BHXH, tuy
nhiên nó lại làm mất đi tính chia sẻ trong cộng đồng - một yếu tố được cho là có tính
đặc thù của bảo hiểm. Mơ hình BHXH mà mỗi nước lựa chọn phụ thuộc vào mục tiêu
chính sách của quốc gia và điều kiện cụ thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngày nay với
chiến lược tồn cầu hóa BHXH và bảo đảm xã hội cho tất cả mọi người, các nước
đang từng bước cải cách hệ thống BHXH theo hướng xây dựng mơ hình đa trụ cột
trong sự lồng ghép các mơ hình trên nhằm đảm bảo quyền thụ hưởng BHXH cho mọi



15

thành viên trong xã hội.
Hiện nay, khái niệm chung về BHXH ở bình diện quốc tế vẫn chưa được tất cả
các quốc gia thống nhất sử dụng vì quan niệm về vấn đề này còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố liên quan đến nhận thức, tập quán lựa chọn, khả năng quản lý… của
từng quốc gia. Chính vì vậy, khái niệm chung của Tổ chức lao động quốc tế về an
sinh xã hội trong công ước 102 cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. Theo đó,
BHXH có thể hiểu một cách khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên
của mình thơng qua các biện pháp cơng cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh
tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, thương tật, tuổi già hoặc chết cũng như nhằm đảm bảo các chăm sóc y tế và
trợ cấp cho các gia đình đơng con.
Ở Việt Nam, thuật ngữ BHXH thường được sử dụng với nội hàm hẹp hơn, chỉ
bao gồm những trường hợp bảo hiểm thu nhập cho người lao động. Vì vậy, BHYT
thường được tách ra với tên gọi riêng, không thuộc khái niệm BHXH theo nghĩa hẹp,
mặc dù đó là hình thức bảo hiểm mang tính xã hội và phi lợi nhuận. Luật BHXH
cũng không quy định các vấn đề về BHYT bởi đối tượng của BHYT là các chi phí về
khám chữa bệnh và chăm sóc y tế, khơng phải là phần thu nhập của người lao động bị
giảm hay mất đi một cách trực tiếp. Người tham gia BHYT không bị giới hạn trong
lực lượng lao động hay độ tuổi như các trường hợp BHXH theo nghĩa hẹp. Tương tự
như vậy, cũng có quan điểm cho rằng BHTN cũng không thuộc phạm trù của BHXH
do ở trường hợp này, phạm vi bảo hiểm không chỉ nhằm đảm bảo một phần thu nhập
bị mất do thất nghiệp mà cịn có mục đích cung cấp các dịch vụ việc làm, đào tạo
nghề nhằm đưa người thất nghiệp quay lại thị trường lao động. Theo quan điểm chính
thống hiện nay ở Việt Nam được thể hiện trong Luật BHXH thì BHTN thuộc nội hàm
của BHXH vì mục đích cơ bản của BHTN là nhằm bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động trong thời gian bị thất nghiệp.
Như vậy, theo nghĩa hẹp và cũng là nghĩa thông dụng ở Việt Nam, BHXH

được hiểu là sự đảm bảo bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động
khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết… trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm
đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội [32, tr. 16-17].
Hiện nay ở Việt Nam, Nhà nước thống nhất quản lý và giao cho cơ quan
BHXH Việt Nam tổ chức tổ chức thực hiện 7 chế độ BHXH là: Bảo hiểm ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp và BHYT.
Điều này cho thấy cần có một cách tiếp cận rộng hơn về BHXH, theo đó tất cả các
hình thức bảo hiểm cho các rủi ro mang tính xã hội xảy ra đối với con người mà


16

khơng mang tính lợi nhuận cần được đặt trong một tổng thể chung của lĩnh vực
BHXH như ghi nhận trong Công ước số 102 của Tổ chức Lao động quốc tế. Vì vậy,
trong phạm vi nghiên cứu tổng thể của luận án, BHXH được được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm cả BHTN và BHYT.
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên trong quan hệ BHXH. Đó là, bên tham gia
BHXH, bên BHXH và bên được BHXH, cụ thể:
Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của
pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước tham gia trong một số trường hợp.
Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH
thường là một số tổ chức do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ
chức kinh tế - xã hội lập ra) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động để hình thành quỹ BHXH. Bên BHXH có trách
nhiệm thực hiện thu khoản đóng góp BHXH và chi trả các chế độ BHXH cho bên
được BHXH khi có sự kiện được BHXH phát sinh. Ngồi ra, bên BHXH cịn được
quyền đầu tư khoản kinh phí tạm thời kết dư của quỹ BHXH để đảm bảo giá trị cho

khoản tiền BHXH được chi trả cho bên được bảo hiểm. Ở Việt Nam, bên BHXH
được Nhà nước giao cho cơ quan BHXH Việt Nam thực hiện theo ngành dọc từ trung
ương tới các địa phương và là cơ quan trực thuộc Chính phủ.
Bên được BHXH là bên được quyền nhận các khoản trợ cấp BHXH khi có sự
kiện BHXH phát sinh. Bên được BHXH có thể là người lao động tham gia BHXH và
nhân thân của họ theo quy định của pháp luật.
Giữa các bên trong quan hệ BHXH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Người
lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho bản thân mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của
số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải tham gia
BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình đang sử dụng và cũng vì lợi ích của
chính người sử dụng lao động để giảm thiểu tác động không mong muốn khi phát
sinh các rủi ro hoặc các sự kiện BHXH của người lao động, đặc biệt là trong trường
hợp các rủi ro, sự kiện BHXH này có quy mô đáng kể. Nhà nước tham gia BHXH với
hai tư cách. Thứ nhất, Nhà nước tham gia với tư cách là người sử dụng các công chức
và những người hưởng lương từ ngân sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia đóng góp
BHXH thơng qua kinh phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp tương đương người sử
dụng lao động trong các doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước tham gia BHXH với tư
cách là người bảo hộ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Khi tham gia


17

với tư cách bảo hộ cho quỹ BHXH, Nhà nước là chủ thể quản lý và hoạch định chế
độ, chính sách BHXH, định hướng cho các hoạt động BHXH, bảo đảm cho quỹ
BHXH cân đối được khả năng chi trả cũng như bảo đảm giá trị của các khoản tiền
BHXH trước những biến động về giá cả sinh hoạt luôn có xu hướng tăng lên. Khi mở
rộng đối tượng tham gia BHXH trong nền kinh tế thị trường, bên tự nguyện tham gia
BHXH chính là bên được BHXH như trong trường hợp người lao động tự tạo việc
làm, họ vừa là người tham gia BHXH (một cách tự nguyện) vừa là người được quyền
hưởng BHXH vì họ đóng BHXH để bảo hiểm cho chính bản thân họ mà khơng có sự

chia sẻ từ phía người sử dụng lao động như trong trường hợp BHXH bắt buộc[38].
Có thể nói rằng, BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống
BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và
phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm
phát triển, đời sống nhân dân thấp kém khơng thể có một hệ thống BHXH vững mạnh
được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày
càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Khi đã tham gia BHXH,
người lao động được hưởng trợ cấp khi phải nghỉ việc do ốm đau; khi phải điều trị
hoặc khám bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh họ được hưởng chế độ BHYT; khi
sinh con hoặc nuôi con nuôi, được hưởng trợ cấp thai sản; khi bị thương tật do lao
động, được hưởng trợ cấp tai nạn lao động; khi bị mắc bệnh do các nguyên nhân
mang tính nghề nghiệp, được hưởng chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp; khi bị mất việc
làm, được hưởng bảo hiểm thất nghiệp; khi hết tuổi lao động, được hưởng chế độ hưu
trí; khi chết, gia đình được trợ cấp tiền mai táng và trợ cấp tiền tuất. Điều này đã cho
thấy, BHXH đóng vai trị trực tiếp và quan trọng trong việc ổn định đời sống của
người lao động, qua đó có tác động tích cực tới thị trường lao động và góp phần quan
trọng vào việc đảm bảo an sinh xã hội. Như vậy, có thể nói rằng, BHXH là một loại
hình bảo hiểm tồn tại tất yếu trong một xã hội phát triển, và tầm quan trọng của nó
được ví như trong câu ngạn ngữ của người Đức: “Cuộc sống khơng có bảo hiểm như
cầu thang khơng có tay vịn.”
Tuy nhiên, quyền được hưởng các chế độ BHXH nêu trên chỉ có thể được bảo
đảm khi nghĩa vụ đóng BHXH được thực hiện đầy đủ. Sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH, bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước là nguồn
hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngồi ra, quỹ BHXH cịn có thể có các nguồn thu
khác như từ lãi suất đầu tư phần quỹ BHXH tạm thời kết dư, khoản nộp phạt của các
đơn vị chậm nộp BHXH theo quy định của pháp luật v.v... Quỹ BHXH dùng để chi
trả các trợ cấp BHXH và chi phí cho các hoạt động quản lý của bộ máy cơ quan



18

BHXH. Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ
BHXH cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của BHXH. Với
những đặc trưng nêu trên, quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHXH là mối quan hệ đa
dạng và nhiều chiều, nhiều tầng; có những mối quan hệ bên trong hệ thống BHXH và
quan hệ bên ngoài liên quan tới tất cả các ngành, các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội thơng qua hoạt động đóng và thu BHXH. Nói cách khác, mối quan hệ xuyên suốt
trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của
các bên tham gia BHXH.
Và, để bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHXH, việc quy
định các hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực BHXH được rất nhiều nước trên thế
giới quan tâm từ nhiều thập kỷ trước. Tuy nhiên, tội phạm trong lĩnh vực BHXH
không được quy định thành nhóm tội riêng trong BLHS của nhiều quốc gia, trong đó
có Việt Nam. Hiện nay, chúng ta khơng chỉ khơng có định nghĩa trong luật về nhóm
tội phạm này mà cũng khơng có định nghĩa khoa học về tội phạm trong lĩnh vực
BHXH trong các sách báo pháp lý của Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia khác
mà tác giả có điều kiện tìm hiểu. Các sách báo pháp lý thường chỉ đề cập đến hành vi
vi phạm pháp luật về BHXH (như hành vi trốn đóng BHXH, hành vi gian lận bảo
hiểm...) cũng như hình thức xử phạt đối với các hành vi này.
Tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng như tội phạm trong các lĩnh vực chuyên
biệt khác đều là một bộ phận của tội phạm nói chung. Vì vậy, về ngun tắc, khái
niệm tội phạm trong lĩnh vực BHXH không những phải thoả mãn các dấu hiệu của tội
phạm nói chung mà cịn phải phản ánh những dấu hiệu riêng thể hiện nét đặc thù của
tội phạm trong lĩnh vực chuyên biệt này.
Tội phạm trong lĩnh vực BHXH có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa
hẹp, tội phạm trong lĩnh vực BHXH chỉ bao gồm các hành vi trực tiếp vi phạm các
quy định của pháp luật BHXH ở mức độ bị coi là tội phạm. Theo nghĩa này, tội phạm
trong lĩnh vực BHXH có thể được gọi là tội phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng
biệt (chỉ xảy ra trong lĩnh vực BHXH). Theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực

BHXH bao gồm không chỉ tội phạm theo nghĩa hẹp này mà còn cả các tội phạm khác
xảy ra trong lĩnh vực BHXH. Các tội phạm khác này có thể được gọi chung là tội
phạm trong lĩnh vực BHXH không có tính riêng biệt (có thể xảy ra trong nhiều lĩnh
vực, trong đó có lĩnh vực BHXH). Như vậy, tội phạm trong lĩnh vực BHXH theo
nghĩa rộng bao gồm tội phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng biệt và tội phạm
trong lĩnh vực BHXH khơng có tính riêng biệt. Do có các cách hiểu khác nhau như
vậy mà cũng có thể có những định nghĩa khác nhau về tội phạm trong lĩnh vực
BHXH.


19

Theo nghĩa hẹp, hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực BHXH là hành vi
xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động BHXH qua
việc vi phạm trực tiếp các quy định về đóng và hưởng BHXH, gây ra hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại đáng kể cho xã hội.
Ngoài các hành vi như vậy cịn có các hành vi khác cũng xâm hại quan hệ
BHXH và các hành vi này được quy định tại các chương khác nhau của BLHS như
hành vi tham ô tài sản được quy định trong nhóm các tội phạm về tham nhũng của
chương các tội phạm về chức vụ. Hành vi tham ô tài sản có thể xảy ra trong các lĩnh
vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực BHXH. Khi xảy ra trong lĩnh vực BHXH, tội
tham ô sẽ xâm hại quan hệ BHXH, gây thiệt hại cho Nhà nước là một bên của quan
hệ BHXH. Các tội phạm như tội tham ô tài sản xảy ra trong lĩnh vực BHXH tuy
khơng có tính riêng biệt cho lĩnh vực BHXH như các tội phạm trực tiếp vi phạm pháp
luật BHXH nhưng cũng cần được coi là tội phạm thuộc lĩnh vực BHXH vì cùng tính
chất là xâm hại sự ổn định, bình thường của quan hệ xã hội phát sinh trong thực hiện
hoạt động BHXH. Việc coi các tội phạm này cũng là tội phạm thuộc lĩnh vực BHXH
sẽ tạo điều kiện cho sự thống nhất trong chính sách xử lý cũng như trong biện pháp
phịng ngừa.
Thơng thường, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp luật BHXH ở mức độ

nghiêm trọng được các quốc gia quy định là tội phạm ngay trong các văn bản luật về
BHXH hoặc trong BLHS tại các điều luật riêng biệt. Ở Việt Nam, trong BLHS hiện
hành không có các điều luật riêng về tội phạm trong lĩnh vực BHXH; còn trong các
văn bản luật về BHXH cũng khơng có quy định về tội phạm cụ thể mà chỉ quy định
chung là cho phép có thể truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm có dấu
hiệu tội phạm. Trong trường hợp này, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp luật BHXH
chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh chung tương ứng đã được
quy định trong BLHS. Ví dụ: Hành vi xuất trình hồ sơ giả mạo để hưởng chế độ
BHXH một cách trái pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Đây thực chất là một dạng hành vi gian lận bảo hiểm nhưng chỉ có
thể bị xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội danh chung vì chưa có tội danh
riêng.
Việc quy định tội phạm trong lĩnh vực BHXH trong luật hình sự có sự khác
nhau giữa hai nhóm tội. Các tội phạm trong lĩnh vực BHXH khơng có tính riêng biệt
có thể được quy định ở các chương tương ứng của BLHS. Các tội phạm vi phạm trực
tiếp pháp luật BHXH có thể được quy định trong chính các văn bản pháp luật BHXH
cùng với các quy định về vi phạm pháp luật BHXH như ở Hoa Kỳ, Philippin, Thái
Lan hoặc có thể được pháp điển hoá thành điều luật riêng trong BLHS như ở Cộng


20

hòa Liên bang Đức nơi hệ thống BHXH xuất hiện đầu tiên trên thế giới vào cuối thế
kỷ XIX. Trong BLHS của Cộng hịa Liên bang Đức, hành vi khơng nộp BHXH cho
người lao động hoặc đã trích tiền BHXH từ tiền lương của người lao động mà không
nộp cho cơ quan có thẩm quyền được quy định là tội phạm tại Điều 266a. Ở Việt
Nam, BLHS hiện hành chưa quy định về tội phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng
biệt. Do vậy, tội phạm trong lĩnh vực BHXH ở Việt Nam chỉ bao gồm một số hành vi
phạm tội đã được quy định chung trong BLHS và xảy ra trên thực tế trong lĩnh vực
BHXH.

Từ các phân tích trên có thể định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực BHXH một
cách chung nhất như sau:
Tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội xâm hại những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định
của pháp luật BHXH, được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự hoặc trong
các luật liên quan đến BHXH, gây thiệt hại cho quỹ BHXH, cho quyền và lợi ích hợp
pháp của người tham gia BHXH.
Các luật liên quan đến BHXH ở đây có thể là luật BHXH, Luật BHYT, luật
BHTN… tuỳ theo quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam do
chúng ta chưa cho phép tội phạm và hình phạt được quy định trong các luật chuyên
ngành nên tội phạm trong lĩnh vực BHXH có thể được định nghĩa là: Những hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực
hiện các quy định của pháp luật BHXH, được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình
sự, gây thiệt hại cho quỹ BHXH, cho quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
BHXH.

Như vậy, đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình sự chỉ là
BLHS như Việt Nam thì tội phạm trong lĩnh vực BHXH dù thuộc nhóm nào - nhóm
chỉ xảy ra trong lĩnh vực BHXH hay nhóm có thể xảy ra ở các lĩnh vực khác nhau
đều chỉ được quy định trong BLHS.
Đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình sự khơng chỉ là
BLHS mà cịn có thể là các luật khác thì tội phạm trong lĩnh vực BHXH có thể được
quy định trong BLHS và trong các luật khác. Trước hết, các tội phạm có tính chất
chung cho nhiều lĩnh vực như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản…được
quy định trong BLHS hoặc trong một văn bản luật cụ thể khi chưa có BLHS. Các tội
phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng biệt có thể được quy định trong BLHS hoặc
trong chính các luật riêng biệt về BHXH. Trong các luật riêng biệt về BHXH, nhà
làm luật có thể quy định các hành vi vi phạm và các tội phạm, trong đó tội phạm là
các hành vi vi phạm luật BHXH ở mức độ nghiêm trọng và do vậy có tính nguy hiểm



21

cho xã hội của tội phạm. BLHS cũng có thể quy định các tội phạm trong lĩnh vực bảo
hiểm tương đối thông thường và ổn định trên cơ sở pháp điển hoá các hành vi phạm
tội đã được quy định trong các luật riêng biệt về BHXH.
Tóm lại, hoạt động BHXH là quá trình thu, chi và quản lý quỹ tài chính được
hình thành từ nguồn đóng góp của những người tham gia BHXH nên những hành vi
bị coi là tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng khơng nằm ngồi q trình thu, chi và
quản lý hoạt động BHXH đó. Như vậy, có thể chia những hành vi này thành ba nhóm
như sau:
Thứ nhất, nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH
Thứ hai, nhóm hành vi vi phạm quyền thụ hưởng BHXH; và
Thứ ba, nhóm hành vi vi phạm liên quan đến quản lý và thực hiện hoạt động
BHXH.
Và, tội phạm trong lĩnh vực BHXH được hiểu trong luận án này theo nghĩa
rộng, bao gồm cả nhóm tội phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng biệt và nhóm tội
phạm trong lĩnh vực BHXH khơng có tính riêng biệt.
1.1.2. Các đặc điểm chung của tội phạm trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội
Tội phạm trong lĩnh vực BHXH trước hết cũng là tội phạm. Do đó, xét về nội
dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm trong lĩnh vực BHXH cũng có
các đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm nói chung, đó là tính nguy hiểm cho xã hội, tính
có lỗi, tính trái pháp luật hình sự, đồng thời biểu hiện của những dấu hiệu này cũng
có điểm riêng do đây là những tội phạm xảy ra trong một lĩnh vực chuyên biệt.
Về các đặc điểm của tội phạm, có quan điểm cho rằng tính phải chịu hình phạt
là một dấu hiệu của tội phạm, có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe
dọa có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt
[29, tr. 57-59]. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng “tính phải chịu hình phạt”
chính là hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải chịu nếu hành vi của họ thoả mãn
đầy đủ các dấu hiệu của một tội cụ thể được quy định trong BLHS. Tuy nhiên, trong

phạm vi nghiên cứu của luận án, khi phân tích các dấu hiệu của tội phạm trong lĩnh
vực BHXH, tác giả chỉ phân tích ba dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã hội; tính có lỗi
và tính trái pháp luật hình sự.
- Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong lĩnh vực BHXH
Dấu hiệu “Tính nguy hiểm cho xã hội” là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất
trong các dấu hiệu của tội phạm và nó quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội là căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với hành vi vi


22

phạm khác và cũng là cơ sở đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi
phạm tội khi xác định trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm[19, tr.20].
Nguy hiểm cho xã hội nghĩa là hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm có tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của nhà làm luật. Nhà làm luật khi xác định một hành vi nào đó là nguy hiểm cho xã
hội và quy định trong BLHS chẳng qua chỉ là thừa nhận một thực tế khách quan đã
tồn tại thông qua việc nhận thức và đánh giá các tình tiết khác nhau của hành vi hoặc
có liên quan đến hành vi. Những tình tiết đó bao gồm:
+ Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
+ Mức độ thiệt hại gây ra hoặc bị đe dọa gây ra cho quan hệ xã hội bị xâm hại;
+ Tính chất, mức độ lỗi;
+ Động cơ, mục đích của người có hành vi phạm tội;
+ Hồn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội...
Những tình tiết trên khơng những có ý nghĩa đối với người áp dụng pháp luật
mà trước hết nó là cơ sở để các nhà làm luật xác định những hành vi nào là hành vi
nguy hiểm cho xã hội và cấu thành tội phạm để quy định trong BLHS[29, Tr. 54].
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần hiểu như thế nào về tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm trong lĩnh vực BHXH?

Căn cứ vào đặc điểm và tính chất của BHXH, tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm trong lĩnh vực BHXH thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quan hệ BHXH qua vi phạm các nghĩa vụ phát sinh do luật định liên quan đến
quan hệ đóng, hưởng và quản lý hoạt động BHXH. Mức độ gây thiệt hại cho quan hệ
BHXH của các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH có thể phụ thuộc chủ
yếu vào hai nhóm yếu tố sau:
- Mức độ thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quỹ BHXH được tính
thành tiền;
- Mức độ thiệt hại được xác định bằng số lượng hồ sơ sai phạm, số lượng
người lao động bị thiệt hại do hành vi vi phạm, khoảng thời gian mà hành vi vi phạm
diễn ra.
Đối với nhiều nước trên thế giới, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong
lĩnh vực BHXH được xác định và mô tả rõ ngay trong luật chuyên ngành. Nếu tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi khơng đáng kể thì chỉ bị coi là vi phạm và bị xử
phạt hành chính, nếu hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội thì hành vi bị coi


23

là tội phạm và người thực hiện hành vi đó có thể bị áp dụng chế tài hình sự.
Như đã trình bày, tội phạm trong lĩnh vực BHXH bao gồm hai nhóm tội: nhóm
tội phạm trong lĩnh vực BHXH có tính riêng biệt chỉ xảy ra trong lĩnh vực BHXH hay
nói cách khác là nhóm tội phạm vi phạm trực tiếp quy định của pháp luật BHXH và
nhóm tội phạm trong lĩnh vực BHXH khơng có tính riêng biệt, có thể xảy ra trong
lĩnh vực BHXH cũng như trong các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội. Hai
nhóm tội phạm này có thể được gọi tắt là nhóm tội phạm có tính riêng biệt và nhóm
tội phạm khơng có tính riêng biệt. Chúng có điểm chung cũng như điểm riêng về tính
nguy hiểm cho xã hội. Cụ thể:
Nhóm tội phạm khơng có tính riêng biệt tuy cũng xâm hại quan hệ BHXH
nhưng trước hết xâm hại quan hệ xã hội khác được luật hình sự bảo vệ. Do vậy, tính

nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm này được quy định trước hết bởi tính chất
quan trọng của quan hệ xã hội bị trực tiếp xâm hại. Đồng thời, tính nguy hiểm cho xã
hội của nhóm tội phạm này cịn được quy định bởi tính chất quan trọng của quan hệ
BHXH. Tùy thuộc vào từng tội mà nhóm tội phạm này có thể có tính nguy hiểm của
tội phạm về tham nhũng như tội tham ô tài sản (trong lĩnh vực BHXH), tội phạm về
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (như tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng v.v..). Nhưng đồng thời các tội phạm thuộc
nhóm tội phạm này cũng có tính nguy hiểm chung của tội phạm trong lĩnh vực
BHXH. Do vậy, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhóm tội phạm này
khơng chỉ phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho
quan hệ BHXH mà còn phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe
dọa gây ra cho quan hệ xã hội mà hành vi phạm tội trực tiếp nhằm tới.
Đối với nhóm tội phạm có tính riêng biệt, tính nguy hiểm cho xã hội được quy
định trước hết bởi tính chất quan trọng của những nghĩa vụ phát sinh do luật định
trong quan hệ BHXH, là quan hệ giữa nhà nước và các bên của quan hệ lao động (các
bên của quan hệ lao động bao gồm người lao động và người sử dụng lao động), trong
đó Nhà nước là chủ thể tổ chức, quản lý việc thu các khoản đóng BHXH từ người sử
dụng lao động và người lao động để chi các chế độ BHXH cho người lao động khi có
sự kiện BHXH xảy ra. Xét ở phạm vi một cá nhân, chế độ BHXH giúp ổn định đời
sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro trong cuộc sống, xét
trên bình diện rộng thì BHXH góp phần khơng nhỏ vào việc duy trì sự ổn định xã hội.
Hiện nay, trên thế giới, tiêu chí để đánh giá mức độ của tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH là đáng kể hay không đáng
kể được xác định khác nhau giữa các quốc gia. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hố, xã hội và phương thức thực hiện BHXH mà mỗi quốc gia có những quy


24

định riêng phù hợp. Nhưng dù được thực hiện theo phương thức nào - phương thức

hình thành quỹ BHXH tập trung hay phương thức tài khoản cá nhân, dù BHXH được
thu trực tiếp từ người sử dụng lao động hay thu thơng qua thuế thì quỹ BHXH vẫn
được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao
động và nói chung, những hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực BHXH đều vi
phạm nghĩa vụ đóng góp hoặc quyền thụ hưởng chế độ hay các quy định về quản lý
hoạt động BHXH, nghĩa là đều có ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến quan hệ
BHXH. Tuỳ thuộc vào chính sách hình sự cũng như chính sách BHXH của mỗi quốc
gia mà những hành vi vi phạm này bị quy định phải chịu các chế tài xử phạt nặng nhẹ
khác nhau trong luật hình sự hoặc trong các luật về BHXH.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong lĩnh vực BHXH (bao gồm cả
hai nhóm tội) thể hiện ở việc vi phạm các nghĩa vụ phát sinh do luật định liên quan
đến quan hệ BHXH, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quỹ BHXH, cho lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Sự gây thiệt hại này
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, đối với nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH
Những hành vi của người sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH
cho người lao động trước hết chứa đựng nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến quyền và
lợi ích hợp pháp về BHXH của người lao động trước mắt cũng như lâu dài, là nguyên
nhân có thể gây bất ổn xã hội. Đồng thời, hành vi này còn ảnh hưởng trực tiếp đến
quỹ BHXH theo chiều hướng giảm thiểu, ảnh hưởng đến mục đích chia sẻ rủi ro của
quỹ BHXH. Trên thế giới, tỷ lệ đóng BHXH tuy được quy định khác nhau trong pháp
luật của các quốc gia nhưng đa số các quốc gia đều quy định người sử dụng lao động
phải đóng một tỷ lệ bằng hoặc cao hơn so với tỷ lệ đóng của người lao động. Ví dụ: Ở
Philippin, pháp luật quy định mức đóng vào quỹ an sinh xã hội là 10,4%, trong đó
người sử dụng lao động đóng 7,07%, người lao động đóng 3,33% trên mức lương
tháng của người lao động; ở Anh, mức đóng vào quỹ BHXH quốc gia là 23,8%, trong
đó người lao động đóng 11%, người sử dụng lao động đóng 12,8% trên thu nhập của
người lao động...
Ở Việt Nam, tỷ lệ đóng của người sử dụng lao động vào quỹ BHXH là khá
cao, mức đóng BHXH tính đến tháng 12/2009 là 7% trên mức tiền lương tháng đối

với người lao động và 18% tổng quỹ tiền lương đối với người sử dụng lao động, tổng
số là 25% (kể cả đóng BHYT và BHTN). Từ năm 2010 tỷ lệ này đã được điều chỉnh
tăng theo lộ trình do Luật BHXH và BHYT quy định với tổng số là 29,5% trên tổng
quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động, trong đó mức đóng của người sử dụng
lao động là 20%, mức đóng của người lao động là 8.5% và Nhà nước đóng hỗ trợ


25

BHTN là 1%. Từ năm 2012, tỷ lệ đóng BHXH tăng thêm 2%, nâng mức đóng BHXH
(bao gồm cả BHTN và BHYT) lên 31,5%, trong đó người sử dụng lao động có nghĩa
vụ đóng 21% trên tổng quỹ tiền lương, người lao động đóng 9,5% tiền lương tháng và
Nhà nước đóng hỗ trợ BHTN 1% trên tổng quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao
động. Điều này cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH
của người sử dụng lao động. Việc có đảm bảo được quỹ BHXH hay không phụ thuộc
rất nhiều vào việc tuân thủ nghĩa vụ đóng của người sử dụng lao động. Trái lại, cũng
chính vì điều này mà nhiều chủ sử dụng lao động ở khu vực kinh tế tư nhân lại tìm
mọi cách để có thể lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc chỉ đóng BHXH cho người
lao động với mức thấp. Sự trốn tránh này có thể ở những mức độ khác nhau nhưng
đều có tính nguy hiểm cho xã hội, đe dọa đến hoạt động bình thường của quỹ BHXH,
ảnh hưởng đến quyền được tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao
động, trong đó có trường hợp mà mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội là đáng kể,
cần bị coi là tội phạm.
Thứ hai, nhóm các hành vi vi phạm quy định về quyền thụ hưởng BHXH
Những hành vi vi phạm quy định về quyền thụ hưởng BHXH được nói ở đây
là những hành vi gian lận qua làm sai lệnh hồ sơ, làm giả hồ sơ, giấy tờ... để hưởng
các chế độ BHXH (của người lao động hoặc những người có trách nhiệm liên quan)
để chiếm đoạt tiền của quỹ BHXH. Những hành vi này trước hết gây thiệt hại trực
tiếp cho quỹ BHXH, làm cho quỹ BHXH phải chi các khoản chi sai và qua đó gián
tiếp gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của người lao động tham gia BHXH. Các

hành vi vi phạm các quy định này, dù ở mức độ nào cũng có tính nguy hiểm nhất định
cho xã hội, cần bị xử lý bởi các chế tài phù hợp, là chế tài hành chính hoặc chế tài
hình sự.
Về lý thuyết, có thể có những hành vi vi phạm quy định về quyền thụ hưởng
BHXH theo hướng bất lợi cho người lao động như giải quyết sai chế độ BHXH cho
người lao động, để họ được hưởng mức thấp hơn mức mà họ được hưởng theo quy
định. Những hành vi vi phạm này gây thiệt hại trực tiếp cho quyền lợi BHXH của
người lao động. Tuy nhiên, trên thực tế, những trường hợp này đều có thể được giải
quyết bằng con đường hành chính và thường khơng có tính phổ biến. Cho nên các
quốc gia nói chung đều khơng quy định phải áp dụng biện pháp hình sự đối với
những hành vi này.
Thứ ba, các hành vi vi phạm liên quan đến quản lý và thực hiện hoạt động
BHXH
Để đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động bình thường địi hỏi các quy định


×