Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tự ý sử dụng thuốc và những nguy cơ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.91 KB, 5 trang )

Tự ý sử dụng thuốc và những nguy cơ
Dùng thuốc theo lời mách bảo của người khác, dùng lại đơn thuốc cũ, tự
làm bác sĩ chẩn bệnh rồi mua thuốc về điều trị đó là những nguy cơ
làm gia tăng các tác dụng không mong muốn của thuốc (ARD). Vậy hậu
quả của các tai biến đó như thế nào và làm thế nào để hạn chế các ARD
của thuốc?
Tự ý sử dụng thuốc - thói quen của nhiều
người
Mỗi khi tôi hay ai đó trong gia đình bị đau
đầu, cảm cúm hay bị ho, tôi thường ra hiệu
thuốc kể bệnh rồi được người bán hàng tư
vấn mua thuốc. Nếu thuốc nào đã dùng trong
thời gian trước đó có hiệu quả rồi thì lần sau
bị bệnh tương tự tôi cứ thuốc đó mà mua. Ví
dụ như bị đau đầu tôi thường uống
paracetamol, lúc thì viên nén, lúc thì viên sủi.
Hay cảm cúm thì dùng decolgen, cảm xuyên
hương chẳng hạn. Trừ những bệnh mình có cảm giác nguy hiểm thì mới đến
cơ sở y tế khám và dùng thuốc theo đơn còn hầu hết đối với các bệnh nhẹ
với các triệu chứng thông thường tôi thường tự mua thuốc sử dụng. Tất
nhiên cũng có một vài lần tôi gặp trục trặc nhỏ trong quá trình dùng thuốc
như bị hồi hộp, cảm giác bồn chồn khi dùng thuốc ngủ hay bị mẩn ngứa khi
dùng kháng sinh

Sử dụng thuốc không đúng - Tiền mất tật mang

Chị Nguyễn Thu Hiền - Mỹ
Đình - Hà Nội.
Chúng ta sử dụng thuốc, có loại phải kê đơn
và thuốc không cần kê đơn. Như vậy tự ý
dùng thuốc có thể định nghĩa là: tự dùng sản


phẩm phải kê đơn mà không có đơn của bác
sĩ. Có rất nhiều hoàn cảnh xô đẩy bệnh nhân
tự ý dùng thuốc như: sự mách bảo của người
khác, dùng đơn thuốc của người đã khỏi một
bệnh tương tự, đã có đơn thuốc cũ nay bệnh
tái phát lại đem dùng lại Hay gặp nhất là
người bệnh ra hiệu thuốc kể triệu chứng rồi
người bán thuốc tư vấn, bảo mua thứ này thứ
kia mà dùng.
Hậu quả của việc tự ý dùng thuốc đôi khi tiền mất tật mang, thậm chí tử
vong, nghĩa là bệnh không khỏi mà người bệnh có thể còn bị những tai biến,
tác dụng phụ do thuốc gây nên. Có những tác dụng phụ hồi phục sau khi
ngừng thuốc, nhưng cũng có những tác dụng phụ không hồi phục.
Nhãn khoa tuy chỉ là một chuyên khoa nhỏ nhưng cũng có vô vàn trường
hợp đáng tiếc do tự ý sử dụng thuốc. Xin đưa vài ví dụ đáng nhớ trong hơn
10 năm làm việc của tôi. Thời chiến tranh các thày đã kể lại có những bệnh
nhân "kiên trì" nhỏ Argryzol nhiều tháng liền để chữa đau mắt đỏ, kết quả là
lòng trắng bị nhuộm đen không thể hồi phục, biến đôi mắt thành một "hố
đen" biết nhìn. Một vài bệnh nhân có “sáng kiến” lấy thuốc Atropine nhỏ
mắt đem uống để chữa đau bụng đã gây nhiễm độc chết người bởi Atropine
nhỏ mắt có nồng độ độc chất rất cao 1- 4 g/100ml rất dễ gây nhiễm độc nếu
dùng đường uống. Thời nay thuốc nhãn khoa rất đa dạng và sẵn có. Người
bán thuốc có đôi chút hiểu biết về y tế sẵn sàng chiều lòng người mua nếu

BS. Hoàng Cương - Ban
Thông tin tuyên truyền -
Bệnh viện Mắt Trung ương.
họ có nhu cầu. Điều này quả là tai hại. Tai biến do tự sử dụng các sản phẩm
có corticoide không phải là hiếm gặp. Điều tệ hại là những tai biến gây mù
loà rất khó cứu vãn: loét thủng giác mạc do bội nhiễm, glôcôm, đục thể thuỷ

tinh Một số sản phẩm điều trị glôcôm có độc tính trên hệ tim mạch và hô
hấp. Nếu dùng sai liều, sai chỉ định có thể gây chậm hoặc ngừng tim, phát
sinh cơn hen hoặc hen sẽ có xu hướng tăng nặng. Ngược lại một số thuốc
điều trị bệnh tiêu hoá, tâm thần kinh, tim mạch cũng có thể gây ra những tai
biến trên mắt: xuất huyết, gây cơn glôcôm cấp, nhìn mờ thoáng qua
Ngoài chất lượng và hiệu quả chữa bệnh còn chú ý đến tính an toàn của
thuốc

Nhắc đến thuốc, người ta không chỉ quan tâm
đến chất lượng và hiệu quả chữa bệnh mà
còn chú ý đặc biệt đến tính an toàn của nó.
Tính an toàn của thuốc liên quan chặt chẽ
đến phản ứng có hại của thuốc (ADR), một
vấn đề nổi cộm, có tính chất phổ biến ở mọi
quốc gia, được đánh giá là một trong 10
nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở bệnh
nhân, làm kéo dài thời gian nằm viện và làm
tăng chi phí điều trị.
Theo định nghĩa năm 1972 của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), phản ứng có hại của thuốc
là những tác dụng độc hại, không mong muốn và không được định trước của
thuốc, xuất hiện ở liều điều trị thường dùng ở người.

TS. Nguyễn Hoàng Anh -
Trung tâm Quốc gia về
Thông tin thuốc & theo dõi
phản ứng có hại của thuốc
(DI&ADR).
Với mục đích tăng cường thu thập báo cáo ADR từ cán bộ y tế, khái niệm
ADR của Cục quản lý thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), được mở rộng

là các biến cố bất lợi liên quan đến việc sử dụng thuốc ở người, có hoặc
chưa được coi là liên quan đến thuốc, bao gồm: biến cố bất lợi xảy ra trong
khi sử dụng thuốc trong hoạt động y tế, biến cố bất lợi xảy ra do dùng quá
liều (vô tình hay cố ý), biến cố bất lợi xảy ra do lạm dụng thuốc, biến cố bất
lợi xảy ra khi ngừng thuốc và bất kỳ dấu hiệu không đạt được tác dụng dược
lý vốn có của thuốc.
Phản ứng có hại của thuốc có thể phân loại dựa trên độ nghiêm trọng của
chúng. Theo qui định của Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ,
một ADR được coi là nghiêm trọng khi xảy ra một trong các hậu quả sau
trên bệnh nhân: tử vong, đe dọa tính mạng, đòi hỏi phải nhập viện, gây ra
các thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống, gây dị dạng bẩm sinh, hoặc đòi hỏi sự can thiệp, trợ giúp y tế thường
xuyên do các thương tật cho bệnh nhân.
Tuy là các phản ứng không mong muốn và không được định trước của thuốc
nhưng ước tính có đến 25% ADR có thể chủ động phòng tránh được. Để
phòng tránh và hạn chế có hiệu quả các ADR:
- Đối với bệnh nhân: Cần hạn chế việc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của
cán bộ y tế, thông báo cho bác sĩ tiền sử dị ứng với thuốc của mình trong
mỗi lần khám bệnh, ngừng ngay thuốc và thông báo kịp thời cho bác sĩ nếu
xuất hiện những biểu hiện bất thường trong quá trình sử dụng thuốc.
- Đối với cán bộ y tế: Việc xác định các yếu tố nguy cơ trên mỗi đối tượng
bệnh nhân cụ thể, cân nhắc lựa chọn thuốc cho bệnh nhân, sử dụng thuốc
đúng qui trình, theo dõi, giám sát chặt chẽ các thuốc có nguy cơ cao trong
quá trình điều trị, dặn dò tham vấn đầy đủ cho bệnh nhân về thuốc trong đó
có ADR của thuốc là biện pháp phòng tránh tích cực ADR. Việc phát hiện
và báo cáo ADR, đặc biệt là các ADR nghiêm trọng, các ADR của các thuốc
mới lưu hành trên thị trường cho hệ thống theo dõi ADR toàn quốc cũng là
biện pháp quan trọng giúp cung cấp thông tin cho việc phòng tránh và giảm
thiểu tác hại của ADR do thuốc gây ra
- Đối với hệ thống y tế: Việc xây dựng và phát triển hệ thống theo dõi và

đảm bảo an toàn thuốc (cảnh giác Dược) hoạt động có hiệu quả với đầu mối
là Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của
thuốc là yếu tố quan trọng giúp phòng tránh tích cực ADR và giảm thiểu các
gánh nặng và hậu quả do ADR gây ra

×