Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận : Quan điểm của sinh viên về cuộc sống độc thân docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.92 KB, 25 trang )

Tiểu luận
Quan điểm của sinh viên về
cuộc sống độc thân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
I.Lí do chọn đề tài
Người ta thường nói một xã hội càng phát triển, cuộc sống càng hiện đại thì
kéo theo đó con người cũng có những xu hướng những cái nhìn và suy nghĩ ngày càng
khác biệt về nhiều vấn đề khác nhau và đặc biệt là vấn đề giới tính, tình yêu, hôn
nhân, gia đình. Có thể là những cái nhìn rộng mở, khách quan, những quan điểm, nhận
thức mới mẻ hay là chạy theo những “mốt mới” những trào lưu, xu hướng đang diễn
ra trong xã hội. Một trong những khía cạnh đó là trào lưu sống độc thân của giới trẻ
hiện nay. Trào lưu này đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới và cũng đang dần du
nhập vào Việt Nam.
Trước đây chúng ta thấy rằng cuộc sống độc thân hầu như chỉ dành cho những người
tu hành, vì họ là những người có lý tưởng cao đẹp, sống với niềm vui và đức tin vào
Đạo mà họ đang theo. Ngày nay khi kinh tế phát triển nhiều người trong độ tuổi thanh
niên và trung niên đã chọn lối sống độc thân và xu hướng chọn lựa lối sống này ngày
càng cao trong giới trẻ đặc biệt là giới nữ. Nhất là ở các nước phát triển và ở các nước
đang phát triển, chủ nghĩa độc thân đang thực sự lên ngôi, nhận thức của họ về lập
trình của tạo hóa “sinh ra – lập gia đình – có con” đã có nhiều thay đổi. Rất nhiều
người đã chọn độc thân là cuộc sống cho mình, có rất nhiều lý do để họ không lập gia
đình mà chọn cuộc sống độc thân và có thể họ thấy bằng lòng với cuộc sống đó hay là
họ chỉ đang chạy theo những trào lưu của thời đại.
Thống kê mới nhất tại Mỹ cho thấy trên dưới 50% phụ nữ và đàn ông nước này không
lập gia đình, Cục điều tra dân số Mỹ thực hiện tháng 6/2006, tỉ lệ nam giới lập gia
đình là 55% - giảm 13,3% so với năm 1960 là 69,3%, tỉ lệ này ở phụ nữ là 51,1% -
giảm 14,8% so với năm 1960 là 65,9%.
Trong khoảng 40 năm, số người độc thân ở Pháp đã tăng gấp hơn hai lần, từ 6,1% dân
số trong năm 1962 tăng lên đến 14% dân số trong năm 2004, hiện ở Pháp có 8,3 triệu
người độc thân. Những kết quả trên cho thấy cuộc sống độc thân đang từng ngày phát


triển và lớn dần trên thế giới và nó cũng dần dần ảnh hưởng và du nhập vào Việt
Nam. Kết quả cuộc điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Bộ Văn hoá - Thể thao
và Du lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF, và Viện Gia đình và Giới tiến hành cho
thấy số người độc thân hiện chiếm khoảng 2,5% dân số.
Sinh viên hiện nay là lực lượng đông đảo, là thành phần vô cùng quan trọng của xã
hội, là nguồn nhân lực, người chủ tương lai của đất nước. sự phát triển của Sinh viên
có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với xã hội quốc gia. Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập, phát triển, mở cửa, giao lưu với thế giới và trong thời đại truyền thông kĩ
thuật số bùng nổ, internet phổ biến và nhất là thanh niên sinh viên được tiếp cận với
nền văn hóa toàn cầu hóa thì sự thay đổi về tâm thế, tính cách, quan điểm dễ tiếp cận
với những trào lưu hay xu hướng mới của thế giới là hoàn toàn tự nhiên. Do vậy mà
tôi muốn biết thái độ và nhận thức của sinh viên về trào lưu sống độc thân vì nó không
chỉ ảnh hưởng tới chính bản thân các bạn sinh viên mà còn ảnh hưởng đến gia đình,
nhà trường và xã hội.
Trào lưu sống độc thân đã vào Việt Nam, nó có thực sự tốt, có ảnh hưởng gì tới xã hôi
hay không, đó là điều em muốn biết, và em muốn tìm hiểu rõ hơn về cuộc sống độc
thân đang diễn ra trong xã hội. Bản thân em đang là sinh viên ngành Tâm Lí Học, có
thể khi đi làm việc em sẽ gặp những vấn đề có liên quan tới đời sống độc thân, do vậy
mà em muốn tìm hiểu rõ, đi sâu vào đề tài, vì nó sẽ là hành trang kiến thức cho em sau
này để làm việc và phục vụ cho xã hội một cách tốt nhất.
Hơn thế nữa em muốn biết thái độ và nhận thức của các bạn sinh viên về vấn đề này,
vì bản thân họ sẽ là những người bị ảnh hưởng bởi trào lưu sống độc thân. Mặt khác
em muốn giải đáp những thắc mắc của bản thân về những người chọn cuộc sống độc
thân: Điều gì khiến cho họ thích đời sống độc thân và tôn thờ chủ nghĩa này? Vì sao
họ chọn kiểu sống này mà không phải là một cuộc sống khác? Đâu là nguyên nhân
làm cho nhận thức về hôn nhân của họ thay đổi? Cuộc sống độc thân có gì mà hấp dẫn
họ như vậy? Chính vì những lí do trên mà em chọn đề tài “Nhận thức và thái độ của
Sinh Viên ĐH Văn Hiến về cuộc sống độc thân”.
II. Mục đích nghiên cứu
- Đối với xã hội: Tìm hiểu thái độ và nhận thức của sinh viên trước những hiện

tượng, trào lưu mới.
- Đối với bản thân: trau dồi những kiến thức và sự hiểu biết cho mình
- Đối với bộ môn: giúp thầy cô và các bạn có những hiểu biết về đời sống độc
thân. Hiểu rõ về thái độ, nhận thức về sống độc thân của giới trẻ, cụ thể là sinh
viên.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để tiến hành đề tài này em sẽ thực hiện các bước sau:
- Tìm hiểu những quan tâm, hiểu biết của sinh viên ĐH Văn Hiến về đời sống
độc thân
- Tìm hiểu, thái độ, nhận thức, cách lựa chọn đời sống độc thân của sinh viên
ĐH Văn Hiến.
- Rút ra những kết luận sau khi đã nghiên cứu, đưa ra những kiến nghị.
IV. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu trong đề tài này là 150 sinh viên trường ĐH DL Văn
Hiến ở thành phố Hồ Chí Minh
- Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là thái độ, nhận thức của sinh viên ĐH
DL Văn Hiến về đời sống độc thân.
V. Giả thuyết nghiên cứu
- Cuộc sống hiện đại, sinh viên sẽ tiếp cận những thông tin một cách nhanh
chóng, do vậy sẽ nhận thức và hiểu biết nhiều về đời sống độc thân.
- Kinh tế phát triển kèm theo nhiều trào lưu, xu hướng mới, dễ tác động vào giới
sinh viên, do vậy khi trào lưu sống độc thân xuất hiện, sinh viên sẽ là thành
phần hưởng ứng đông đảo.
VI. Giới hạn đề tài
Về nội dung:
- Chỉ nghiên cứu nhận thức, thái độ của sinh viên đối với đời sống độc thân như
thực trạng, nguyên nhân, hậu quả.
- Chỉ nghiên cứu sinh viên trong trường ĐH DL Văn Hiến ở Tp HCM
- Trên cơ sở rút ra những kết luận và đưa ra kiến nghị.
Về thời gian: 1 tháng, cụ thể như sau

- Tuần 1 : Soạn đề cương nghiên cứu.
- Tuần 2 : Nghiên cứu tài liệu và soạn phiếu thăm dò.
- Tuần 3 : Khảo sát thực tế.
- Tuần 4 : Viết cơ sở lí luận, xử lí số liệu và hoàn thành bài tiểu luận.
Về không gian: Chỉ khảo sát trong trường ĐH DL Văn Hiến.
VII. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc sách báo, tham khảo các bài tiểu luân, luận
văn của các sinh viên khóa trước trên thư viện của trường ĐH DL Văn Hiến. Thu thập
và chọn lọc các thông tin trên mạng.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bằng phát phiếu thăm dò.
Phương pháp xử lí thống kê: Tính tỷ lệ %, phân tích nội dung.
CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.Các khái niệm, định nghĩa.
1.Nhận thức
Theo từ điển tiếng Việt: Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện
thực vào trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu biết về thế giới khách quan,
hoặc kết quả của quá trình đó. Nâng cao nhận thức, có nhận thức đúng, hoặc nhận
thức sai lầm. Nhận ra và biết được hiểu được, nhận thức được vấn đề, nhận thức rõ
khó khăn và thuận lợi.
Theo PGS.TS Trần Tuấn Lộ: Nhận thức là hoạt động tâm lý nhằm mục đích biết được
một sự vật hay một hiện tượng nào đó là gì, là như thế nào bằng các giác quan để có
những cảm giác và tri giác hoặc tư duy tưởng tượng.
+ Nhận thức là một hoạt động chủ thể hướng vào đối tượng nhằm mục đích biết và
hiểu đối tượng cũng như biết và hiểu chính mình.
+ Nhận thức là một trong ba đời sống tâm lý con người, nó là tiền đề của hai mặt kia
và đồng thời có quan hệ chặt chẽ với nhau và với hiện tượng tâm lý khác
+ Nhận thức là tiến trình chon lọc, diễn dịch, phân tích và hợp nhất các kích thích gây
ra phản ứng ở các giác quan của ta
Ngày nay đa số cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận và tiến gần đến chân lý
nhưng không ngừng ở mức độ nào, vì còn nhiều điều mà chúng ta chưa hiểu hết được,

cần phải loại bỏ cái sai, không khớp với hiện thực và liên tục đi từ bước này sang
bước khác để hoàn thiện hơn.
2. Thái độ
Theo từ điển tiếng Việt: Thái độ là tổng thể nói chung những biểu hiện bên ngoài
(bằng nét mặt cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm với ai hoặc đối với sự
việc nào đó: có thái độ hống hách, hoặc niềm nở, hoặc không bằng lòng, hoặc giữ im
lặng. Là cách nghĩ cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn
đê một tình hình như xây dựng thái độ lao động mới, thái độ học tập đúng đắn, thái độ
hoài nghi thiếu tin tưởng.
Theo tâm lý học xã hội: Thái độ là sự sẵn sang ổn định của cá nhân để phản ứng với
một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt hình
thành quy luật nhất quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân.
Lênin định nghĩa: Thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm phản ánh quan hệ của
cá nhân với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân cho nên
cũng phản ánh tồn tại xã hội, chịu ảnh hưởng bởi ý thức giai cấp, của tâm lý xã hội,
của dư luận xã hội và tập thể xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được
biểu lộ một cách rõ rang hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuển hóa thành hành
động.
3. Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ
Nhận thức và thái độ đều phản ánh hiện thực khách quan cơ bản nhất của hiện thực xã
hội và mang tính chủ thể sâu sắc. Mặc dù vậy hai quá trình cũng có những nét riêng
biệt: nhận thức thì phản ánh những thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế
giới, còn thái độ thì thể hiện mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu động
cơ của con người. Nhận thức và thái độ có quan hệ gắn bó với nhau, hai quá trình tâm
lý cơ bản này tạo nên cấu trúc của hiện tượng ý thức.
Thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm, mà nhận thức và tình cảm có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhận thức là cơ sở của tình cảm, tình cảm là nguồn động
lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi chân lý. Tình cảm là thái độ thể hiện sự
rung cảm cảu con người đối với sự vật hiện tượng có lien quan đến nhu cầu cảu họ. Vì
vậy nhận thức có mối liên hệ với thái độ.

Nhận thức chi phối thái độ, nhận thức là cơ sở nền tảng nảy sinh thái độ. Con người
phải có thông tin về đối tượng để có thái độ nhất định đối với đối tượng đó. Trước một
sự vật hiện tượng nào chúng ta luôn luôn phải suy nghĩ để biết, hiểu nó là cái gì, nó
như thế nào và có ý nghĩa gì trong cuộc sống nơi mà nó đang tồn tại. Biết đối tượng là
gì, có quan trọng, có ý nghĩa gì đối với mình hay không để từ đó xuất hiện thái độ tích
cực hay tiêu cực với đối tượng để tránh xảy ra những thái độ không như mong muốn.
Thái độ chịu sự chi phối của nhận thức nhưng nó cũng tác động ngược lại nhận thức.
Khi chúng ta có thái độ tích cực với một vấn đề cụ thể thì nhu cầu hứng thú nhận thức
của chủ thể được nâng lên. Nhưng có nhiều khi con người lại không như vậy nhiều lúc
nhận thức đúng nhưng nhưng không có thái độ tích cực và ngược lại có thái độ đúng
nhưng lại bị hạn chế về mặt nhận thức.
4. Sinh viên
4.1 Khái niệm
Danh từ sinh viên hiện nay đang dùng để gọi những người theo học các trường đại
học, trên thế giới sinh viên đều được hiểu theo nghĩa tiếng Pháp (étudiant) có nghĩa là
người nghiên cứu. Tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga cũng đồng nghĩa như vậy. Danh
từ “étudiant” của tiếng Pháp phát sinh từ danh từ mẹ là “etude” (sự nghiên cứu), ngữ
nguyên ở tiếng La Tinh là “stadium” nghĩa là: sự vận dụng trí não để học hỏi hiểu biết
và đào sâu một vấn đề.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, thì nghiên cứu là xem xét,
tìm hiểu kĩ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn đề hay để rút ra những hiểu biết
mới. Để nghiên cứu một vấn đề, người nghiên cứu (sinh viên) cần có hai điều kiện cǎn
bản: Phải nắm vững phần kiến thức tổng quát và phải biết vận dụng sự tìm tòi suy
nghĩ độc lập cửa bản thân mình.
4.2 Đặc điểm của sinh viên
Sinh viên hầu hết là những người có độ tuổi từ 18- 25, là những người đang học tập ở
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Theo tâm lý học phát triển
Sinh viên thuộc độ tuổi thanh niên lớn, là những người có đặc điểm hoàn thiện về sinh
lý, chín muồi về mặt xã hội, được xã hội thừa nhận, có nghĩa vụ công dân. Hoạt động
chủ đạo của sinh viên là học nghề nghiệp, chuẩn bị lao động, hoạt động xã hội chuẩn

bị lập gia đình và có cuộc sống riêng.
+ Sinh viên là lớp thanh niên có trí tuệ, tiềm lực, sức khỏe, năng lực và thể lực, luôn
hướng về những ước mơ hoài bão, những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, họ là những
người nhạy cảm với cái mới, cái chân thiện mỹ hướng về lý tưởng.
+ Tình yêu và khát vọng là một đặc điểm đặc trưng của sinh viên. Nhiều thanh niên,
sinh viên coi trọng tình yêu đôi lứa như tín ngưỡng cuộc đời họ, vì tình yêu đôi lứa là
nhu cầu khát vọng về sự chinh phục và hy sinh, vừa có tính hiến dâng vừa là sự chiếm
hữu. Ở thanh niên, sinh viên có sự lôi cuốn nghiêm túc, một tình yêu chân thành với
những rung cảm sâu sắc. Sự dậy thì giới tính tạo ra sắc thái ái tình mạnh mẽ, nhu cầu
giao tiếp nhân cách sâu sắc và sự hài hòa với người mình yêu thường gần với hình
mẫu về “cái tôi’ hơn là gần với hình mẫu người thật.
+ Xu hướng về các kết luận hấp tấp, vội vàng là điểm hạn chế trong bước trưởng
thành của thanh niên, sinh viên, do sớm mong muốn khẳng định mình song lại thiếu
kinh nghiệm trong cuộc sống.
+ Tự trọng và chức năng của tự trọng: biểu hiện tính cách của tuổi trẻ, đó là một đặc
tính đẹp của thanh niên, sinh viên.Thanh niên, sinh viên nghiêng về phía đòi hỏi
không thực tế và thổi phồng bản thân, họ đáng giá năng lực và vị trí bản thân họ trong
tập thể. Sự tự tin không có cơ sở làm cho người khác bất an gây ra xung đột và va
chạm các nhân cách.
+ Độ nhạy cảm và lòng nhiệt tình trong cuộc sống và tinh thần tập thể cao, thanh niên
sinh viên nỗ lực để được người khác chấp nhận.
+ Tính lãng mạn làm thanh niên, sinh viên sôi nổi và luôn vui vẻ hoạt bát, nhưng rất
khó thoát ra khỏi tính phiến diện, không nhẫn lại, dễ dàng bỏ cuộc.
+ Thanh niên sinh viên khát khao tự khám phá và thường đối chiếu cảm xúc lý tưởng,
ước mơ của mình với người khác. Thanh niên chiếm vị trí trung gian giữa trẻ con và
người lớn. Vị trí của trẻ em đặc trưng là sự phụ thuộc vào người lớn và cũng xuất hiện
nhiều hơn vai trò của người lớn nhờ sự lớn dần của tính độc lập và tinh thần trách
nhiệm. Tính không nhất quán của vị trí và các yêu cầu đối với tuổi thanh niên đã tạo
ra nét tâm lý đặc trưng của lứa tuổi này.
5. Cuôc sống độc thân

5.1 Khái niệm:
Cuộc sống độc thân được hiểu theo nhiều cách khác nhau, chưa có người yêu, chưa
kết hôn cũng gọi là độc thân nhưng đây là độc thân tạm thời. Cuộc sống độc thân tức
là sự lựa chon cuộc sống của cá nhân mỗi người sống một mình, không kết hôn hay
lập gia đình cho đến hết cuộc đời. Trong tiếng Anh độc thân là “alone” nó có nghĩa là
mô tả một người tách rời khỏi những người khác, thích sống riêng biệt, cô đơn nhưng
nó không gợi lên sự bất hạnh.
5.2 Một số vấn đề liên quan về cuộc sống độc thân
+ Nguyên nhân: Ở Việt Nam khi nói đến cuộc sống độc thân hầu hết mọi người đều
có suy nghĩ chung đó là cuộc sống cô đơn và buồn tẻ người sống độc thân là những
người bất hạnh. Có rất nhiều nguyên nhân làm người ta chọn cuộc sống độc thân
như :Vì hình hài và nhan sắc quá xấu nên mặc cảm, tự ti, có khi xa lánh bạn bè, người
thân. Hoặc có người nhan sắc trời phú, tài giỏi, thông minh nhưng vì cảm nhận trách
nhiệm cuộc sống gia đình sao quá nặng nề, nên họ chọn con đường sống độc thân, có
người vì tri thức quá cao nên chưa tìm gặp người trăm đầu ý hợp để trao thân gửi phận
khi nhìn lại thì tuổi đã nhiều, có người chứng kiến những nghịch cảnh của đời thường
sao nhiều éo le và cay đắng nên chấp nhân cô đơn, có người vì hoàn cảnh đẩy đưa, tai
nạn, ly tan,…không muốn làm khổ người khác, vì con và trách nhiệm nên đành gác lại
chuyện riêng tư… Còn có người vì còn muốn tự do, không muốn “tra còng vào tay”
muốn chứng minh cái tôi của bản thân, có người xem đó là sự thể hiện tích cách của
mình, có người không bị ràng buộc gì cả nên họ chon cuộc sống độc thân.
Theo điều tra, hai nguyên nhân hàng đầu của việc sống độc thân là không tìm được
người phù hợp (28,7%) và do hoàn cảnh gia đình (28,1%). Ngoài hai lý do này, thì có
một số người sống độc thân vì sức khoẻ không cho phép lập gia đình hoặc bản thân họ
thích cuộc sống tự do. Phần lớn những người độc thân thấy buồn và lo lắng khi về già
không có con để cậy nhờ, khi đau ốm không có người chăm sóc.
Theo kết quả cuộc điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Bộ Văn hoá - Thể thao và
Du lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF, và Viện Gia đình và Giới tiến hành. Người độc
thân hiện chiếm khoảng 2,5% dân số, trong đó chủ yếu là nữ giới với tỷ trọng 87,6%
tổng số người độc thân theo đó, nữ độc thân tập trung chủ yếu ở nông thôn (63,9%),

trong khi nam giới độc thân lại sống nhiều hơn ở thành thị. Đa số người độc thân
không sống một mình mà sống cùng các thành viên trong gia đình (91,5%) và họ cũng
có vai trò quan trọng trong các hộ gia đình bằng việc là người đóng góp chính thứ
nhất hoặc thứ hai vào thu nhập của hộ gia đình.So với nhóm người không độc thân, tỷ
lệ mù chữ của những người độc thân cao hơn (tỷ lệ này là 16,4% so với 10,2% của
nhóm không độc thân).
+ Gien của người thích sống độc thân
Theo thông tin của các nhà khoa học Mỹ, trong các tế bào đề kháng của người sống cô
đơn có vai trò tích cực của tập hợp gien hơi khác người thích sống có đôi. Trong công
trình nghiên cứu mới nhất của mình, các nhà khoa học thuộc Đại học California ở Los
Angeles và Đại hoc Chicago khẳng định rằng, người thích cuộc sống độc thân có tới
209 gien thuộc các tế bào đề kháng khác hẳn số đông về phương diện chức năng hoạt
động. Cụ thể, có tới 78 gien có đặc điểm tích cực thái quá, chúng chủ yếu tham gia
hoạt hóa hệ đề kháng và điều chỉnh các quá trình viêm nhiễm, tức tuyến phòng thủ
đầu tiên trước các bệnh lây nhiễm của cơ thể. Có 131 gien điều chỉnh hoạt động của
hệ miễn dịch không đủ tiêu chuẩn tích cực. Trong đó có những gien tham gia vào
phản ứng của hệ đề kháng chống lây nhiễm virus và sản xuất kháng nguyên. Những
khác biệt giữa những cá nhân được nghiên cứu không phụ thuộc vào những nhân tố
khác có tác động đến tính tích cực của gien chúng ta như trạng thái sức khỏe chung,
tuổi tác, cân nặng cơ thể hay việc sử dụng thuốc. Không phụ thuộc thậm chí vào mối
quan hệ bạn bè khách quan được đánh giá cao của đối tượng cụ thể.
+ Hậu quả của sống độc thân: Một khi ta chọn hai chữ “độc thân” để gắn kết cuộc
đời còn lại thì ta còn nhiều điều để lưu tâm, suy nghĩ về chữ hiếu với đấng sinh thành,
suy nghĩ về nghĩ vụ của một người công dân của xã hội, suy nghĩ về trách nhiệm của
người chồng người cha, người mẹ người vợ, suy nghĩ về đoạn kết của tình đời là lẻ
loi, là cô đơn, là bất hạnh, là điều tiếng.
-Sức khỏe: Theo báo cáo mới đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), phụ nữ độc
thân, đặc biệt là người trên 40 tuổi, có nhiều nguy cơ mắc bệnh tâm thần, chủ yếu là
các thể hoang tưởng, trầm cảm, mất ngủ. Họ rất dễ cáu gắt, nóng giận với những
người xung quanh, sống khép kín, khó hòa đồng và thường nghĩ rằng mình giỏi hơn

người khác. Các bác sĩ phụ khoa đưa ra một kết luận: Những phụ nữ độc thân thường
hay bị rối loạn chu kỳ kinh và hay đau ngực. Sự cô đơn càng làm tăng thêm mức độ
stress ở họ. Sống một mình, họ có xu hướng dồn sức tìm niềm vui trong công việc,
như vậy càng khiến cho cuộc sống thêm căng thẳng, đến lúc cần chia sẻ lại không có
ai bên cạnh. Khi đó, họ rơi vào trạng thái trầm cảm kéo dài, mệt mỏi, mất mọi hứng
thú trong đời sống, công việc cũng trở nên không còn hấp dẫn như trước nữa. Lâu
dần, nếu không được mọi người thông cảm, họ sẽ càng khó hòa đồng, dễ tủi thân và
rối loạn tâm lý. Tiêu cực hơn, có người còn tìm đến cái chết vì cảm thấy mình như
người thừa, không gắn bó với cuộc sống.
Theo một cuộc điều tra của Newsweek, cánh mày râu ở độ tuổi 20 đến 59 có cuộc
sống hôn nhân hạnh phúc thì tuổi thọ tăng thêm hai năm. Căn cứ tính tuổi thọ trung
bình của cuộc điều tra này dựa vào các yếu tố lứa tuổi, giới tính, huyết áp, tỷ lệ mỡ
trong cơ thể, mức độ hút thuốc lá và tình trạng hôn nhân. Đàn ông độc thân dễ rơi vào
tâm trạng buồn chán, lái xe nhanh và uống rượu nhiều hơn, tỉ lệ tử vong ở nam giới
độc thân trong nhóm tuổi 35 đến 44 khá cao. Số người bị tai biến mạch máu não do
uống rượu cao gấp 6 lần so với những người có gia đình hạnh phúc và gấp 2 lần đối
với các bệnh về thần kinh, nội tiết, da, xương và cơ. Sống độc thân có tỉ lệ mắc bệnh
xơ gan và chấn thương tâm thần cao hơn gấp đôi so với người có gia đình.
-Dân tộc già: Cuộc sống độc thân là một trong những nguyên nhân của tình trạng
giảm tỷ lệ tăng dân số thế giới, kèm theo đó là cơ cấu dân số bị già hóa, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển xã hội. Xu hướng này là nỗi ám ảnh rất nhiều nước, đặc biệt ở
Nga, nơi thực trạng dân số giảm được cảnh báo như một nguy cơ lớn
Theo Ủy ban Dân số Liên Hợp Quốc, đến giữa thế kỷ này, dân số Nga (khoảng 142
triệu năm 2007) có thể chỉ còn 1/3 .Tất cả là do thực trạng không muốn có con và
thích sống độc thân. Nhật Bản là một ví dụ khác, cộng thêm với sự già cỗi dân số. Do
hai hiện tượng trên, dân số Nhật Bản không giảm do các cụ sống quá thọ, trong khi đó
đã 25 năm liền, tỷ lệ trẻ em dưới 14 tuổi giảm liên tục. Các nhà xã hội học lo lắng,
điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của nước Nhật trong nhiều năm sau này, vì sẽ
xảy ra tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I. Nhận thức của sinh viên về đời sống độc thân
1.Khái niệm về cuộc sống độc thân theo nhận thức của sinh viên ĐH Văn Hiến
Bảng 1:
ST
T
Cuộc sống độc thân là cuộc sống? Tần Số Tỷ Lệ(%)
1 Sống một mình 68 45,3%
2 Không hôn nhân, gia đình, không có con 63 42%
3 Không tình yêu 19 12,7%
Tổng 150 100%
Qua kết quả bảng 1 ta thấy:
Sinh viên có khái niệm về cuộc sống độc thân rất khác nhau, khái niệm sống độc thân
là “Sống một mình” chiếm tỷ lệ cao nhất (45,3%) so với các sự lựa chọn khác. Điều
này cho thấy họ lựa chọn khái niệm về cuộc sống độc thân như là đặc trưng của 2 từ
“độc thân” tức là “một mình”, chứng tỏ họ suy nghĩ một cách thụ động đơn giản, họ
không quan tâm đến câu hỏi về “cuộc sống độc thân” mà cứ nghĩ là mình đang được
hỏi “độc thân là gì”.
Một ý kiến cũng khá đông thì lại cho rằng cuộc sống độc thân tức là “Không hôn
nhân, gia đình, không có con” chiếm tỷ lệ thứ 2 (42%) trong các sự chọn lựa, tỷ lệ này
cũng tương đương nhiều với sự chọn lựa đầu tiên, chỉ ít hơn 2,7%. Chứng tỏ số sinh
viên quan tâm đến vấn đề này tương đối nhiều, họ đã có suy nghĩ sâu hơn về cuộc
sống độc thân, họ nghĩ về những người theo chủ nghĩa này là những người rời xa quy
luật của cuộc sống là “ sinh ra – lập gia đình – có con” mà theo một cuộc sống khác
đối lập với quy luật bình thường của mỗi con người.
Chiếm tỷ lệ ít nhất (19,7%) là ý kiến, cuộc sống độc thân là cuộc sống “không tình
yêu” họ thực sự là những người quan tâm đến vấn đề này, mặc dù rất ít nhưng họ đã
thật sự có suy nghĩ và nói lên suy nghĩ của mình, họ nghĩ rằng những người chon cuộc
sống độc thân là những người không có cuộc sống tình yêu, tức là tránh xa hoàn toàn
những người khác giới, sống cuộc sống cô đơn một mình.
2. Nhận thức của Sinh viên về đối tượng chọn cuộc sống độc thân

Bảng 2:
STT Người chọn cuộc sống độc thân chủ yếu là? Tần Số Tỷ Lệ (%)
1 Giới nghệ sỹ, người nổi tiếng 34 22,7%
2 Những người trí thức, có học vấn cao 56 37,3%
3 Những người không có nhan sắc địa vị tiền
tài
18 12%
4 Những người gặp vấn đề về giới tính 42 28%
Tổng 150 100
Qua kết quả thống kê ở bảng 2 cho thấy:
Số người chọn cuộc sống độc thân là “Những người trí thức, có học vấn cao” chiếm tỷ
lệ cao nhất (37,3%). Điều này cho thấy đa số sinh viên nghĩ rằng những người có tri
thức, học vấn cao sẽ có cách suy nghĩ về cuộc sống khác hơn so với những người bình
thường, họ chọn cuộc sống độc thân có thể vì họ không tìm được người tương xứng
hoặc là bản thân họ thích cuộc sống độc thân.
Đối tượng chọn cuộc sống độc thân là “Những người gặp vấn đề về giới tính” chiếm
tỷ lệ cao thức hai (28%), đây là con số không nhỏ nó cho thấy suy nghĩ của sinh viên
bị ảnh hưởng bởi những thông tin về vấn đề giới tính hiện nay như đồng tính luyến ái,
gay, less…Vì vấn đề giới tính ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề nhạy cảm, nên sinh viên
cho rằng những người gặp vấn đề trong giới tính, không dám biểu lộ mà sống khép
kín, nên chọn cuộc sống độc thân.
Lựa chọn tiếp theo chiếm tỷ lệ thứ ba (22,7%) là “Giới nghệ sĩ, người nổi tiếng”. Cho
thấy suy nghĩ của sinh viên về những người này là những người nghệ sỹ, ca sỹ là
người của công chúng, do vậy vì lý do nghề nghiệp: muốn thu hút nhiều người hâm
mộ, muốn phát triển sự nghiệp nên họ chọn cuộc sống độc thân.
Ngoài ra có một số ý kiến khác (12%) về đối tượng chọn cuộc sống độc thân như:
không có nhan sắc, địa vị, tiền tài, hay do hoàn cảnh sống…
3.Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân chủ yếu khiến một số người
chọn cuộc sống độc thân.
Bảng 3:

STT Nội Dung Tần Số Tỷ Lệ(%)
1 Không tìm được người bạn đời phù hợp với
mình
35 23,3%
2 Đã từng gặp thất bại, sự cố trong tình yêu, hôn
nhân
52 34,7%
3 Sợ mất tự do, sợ bị cản trở sự nghiệp, sợ khổ 47 31,3%
4 Do hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh gia đình 16 10,7%
Tổng 150 100
Qua kết quả thống kê ở bảng 3 cho thấy:
Có đến 34,7% sinh viên cho rằng nguyên nhân dẫn tới một số người chọn cuốc sống
độc thân là do “Đã từng gặp thất bại, sự cố trong tình yêu, hôn nhân” đây là ý kiến
chiếm tỷ lệ cao nhất. Nó cho thấy sinh viên có suy nghĩ những người chọn cuộc sống
độc thân đã từng có giai đoạn họ có cuộc sống gia đình, được yêu thương nhưng lại bị
đổ vỡ khiến họ có những thành kiến, mất niềm tin vào tình yêu vào cuộc sống hôn
nhân gia đình mà chọn cuộc sống độc thân là cuộc sống của mình.
Nguyên nhân tiếp theo là “Sợ mất tự do, sợ bị cản trở sự nghiệp, sợ khổ” chiếm 31,3%
tỷ lệ này tương đối cao, sinh viên cho rằng những người chọn cuộc sống độc thân là
do họ không muốn bị ràng buộc, thích tự do, là những người đặt sự nghiệp lên hàng
đầu. Đối vơi phụ nữ kết hôn đồng nghĩa với trách nhiệm và nghĩa vụ nên một số người
sợ khổ mà không chọn cuộc sống gia đình.
Một nguyên nhân khác là “Không tìm được người bạn đời phù hợp với mình” chiếm
23,3%. Có thể một số người đặt ra yêu cầu quá cao cho người bạn đời của mình và họ
cố gắng tìm kiếm mà không có người phù hợp do đó họ chọn cuốc sống độc thân.
Cũng có thể một số người mặc cảm tự ti, họ cũng muốn tìm những người bạn đời
tương thích với mình nhưng không có nên đành chọn cuộc sống độc thân.
Số còn lại (10,7%) chọn nguyên nhân dẫn đến một số người chọn cuộc sống độc thân
là do “hoàn cảnh cá nhân, gia đình”. Theo nhận thức của sinh viên về đối tượng sống
độc thân ta thấy sinh viên nghĩ theo hướng những người do hoàn cảnh cá nhân mà

chọn cuộc sống độc thân là những người gặp phải những vấn đề về giới tính hay bản
thân họ có điều gì đó khó nói. Còn một số người do hoàn cảnh gia đình như đông anh
chị em, gia đình nghèo, họ muốn lo toan chăm sóc cho cha mẹ, anh chị em mà không
nghĩ tới hạnh phúc của mình.
II. Thái độ của sinh viên về cuộc sống độc thân
1.Cuộc sống độc thân có thật sự tốt?
Bảng 4 :
STT Nội Dung Tần Số Tỷ Lệ (%)
1 Tốt 42 28%
2 Không tốt lắm 68 45,3%
3 Hoàn toàn không tốt 40 26,7
Tổng 150 100
Qua kết quả thống kê ở bảng 4 cho thấy :
Số sinh viên có thái độ về cuộc sống độc thân là cuộc sống “không tốt lắm” chiếm tỷ
lệ cao nhất (45,3%) cho thấy bản thân số sinh viên này nhận thức được những khía
cạnh chưa tốt của trào lưu này, do vậy họ thấy cuộc sống này không hoàn hảo.
Số sinh viên cho rằng cuộc sống độc thân là một cuộc sống tốt chiếm 28% có thể thấy
họ nhận thức về những mặt lợi ích của cuộc sống độc thân và từ đó có thái độ tích cực
về vấn đề này.
Một số sinh viên lại cho rằng cuộc sống độc thân hoàn toàn không tốt chiếm 26,7%,
nhóm sinh viên này có thái độ trái ngược với nhóm thứ hai, họ cho rằng cuộc sống
độc thân hoàn toàn xấu, không có điều gì tốt, do vậy mà họ hoàn toàn không chấp
nhận cuộc sống độc thân.
2.Thái độ của sinh viên về cuộc sống độc thân
Bảng 5 :
STT Thái độ của bạn về trào lưu sống độc thân? Tần Số Tỷ Lệ (%)
1 Ủng hộ 25 16,7%
2 Phản đối 42 28%
3 Không quan tâm 83 55,3%
Tổng 150 100

Qua kết quả thống kê ở bảng 5 cho thấy :
Khi được hỏi về cuộc sống độc thân, và sinh viên có thái độ như thế nào về vấn đề này
thì theo kết quả ở bảng trên ta thấy hơn một nửa sinh viên (55,3%) đều trả lời “Không
quan tâm” cho thấy sinh viên có biết tới cuộc sống độc thân nhưng bản thân họ không
mấy quan tâm đến vấn đề này. Có thể hiện giờ họ đang theo đuổi ước mơ hoài bão sự
nghiệp cho nên họ chưa tính tới việc lựa chọn cuộc sống gia đình cho chính mình.
Số sinh viên “phản đối” cuộc sống độc thân chiếm 28% chứng tỏ họ có sự quan tâm
đến vấn đề này, thấy được những mặt tiêu cực của cuộc sống độc thân do vậy mà họ
có thái độ phản đối không đồng tình với trào lưu sống độc thân.
Ngoài ra số sinh viên “ủng hộ” cuộc sống độc thân là 16,7% chiếm tỷ lệ rất ít. Những
sinh viên này có thể bản thân họ thích cuộc sống độc thân hoặc đơn giản là họ luôn là
người ủng hộ trào lưu mới một cách thụ động.
III. Xu hướng chọn cuộc sống độc thân của sinh viên.
Bảng 6 :
STT Bạn có muốn sống độc thân? Tần Số Tỷ Lệ (%)
1 Có 44 29,3%
2 Không 50 33,3%
3 Phân vân 56 37,3%
Tổng 150 100
Qua kết quả thống kê ở bảng 6 cho thấy :
Số lượng sinh viên “phân vân” khi chọn cuộc sống độc thân chiếm tỷ lệ nhiều nhất
(37,3%) chứng tỏ sinh viên vẫn còn đang do dự, bản thân họ không có sự hiểu biết
đầy đủ về xu hướng chọn lựa cuộc sống độc thân, họ chưa nghĩ tới cuộc sống gia đình
mà còn đang hoạt động học tập, vì đây là giai đoạn quan trọng của sinh viên quyết
định đến tương lai của họ sau này, do vậy mà điều họ quan tâm là những vấn đề về
nghề nghiệp, học tập.
Sinh viên không chọn cuộc sống độc thân chiếm 33,3%, đây cũng là tỷ lệ tương đối
lớn chỉ ít hơn số lượng sinh viên phân vân khi chọn cuộc sống độc thân 4%. Có thể họ
đã có những định hướng cho cuộc đời của mình, họ yêu cuộc sống gia đình không
chịu được cuộc sống cô đơn, do vậy mà họ không thích sống độc thân.

Sinh viên muốn sống độc thân chiếm tỷ lệ 29,3% mặc dù ít hơn so với tỷ lệ sinh viên
không chọn cuộc sống độc thân nhưng đây là con số tương đối lớn, cho thấy xu hướng
sống độc thân đã bắt đầu có sự tiến triển nhưng chưa mạnh mẽ. Tuy sinh viên muốn
sống độc thân nhưng đây chưa phải là quyết định cuối cùng của họ, câu trả lời chỉ
mang tính tương đối, họ chỉ muốn nhưng chưa chắc chắn là sẽ chọn lựa cho mình.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I.Kết luận:
Đề tài này chỉ mang tính sơ khai, làm tiền để nên chỉ giới hạn tìm hiểu nhận thức và
thái độ của sinh viên về một số mặt, ở một số cá thể ở trường ĐH Văn Hiến, các vấn
đề chưa thực sự bao quát do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau. Vì đây là lần
đầu người nghiên cứu thực hiện một đề tài khoa học nên có thể chưa có kinh nghiệm
do vậy không thể thực hiện đầy đủ các yêu cầu của đề tài đặt ra, tuy nhiên qua kết quả
nghiên cứu có thể rút ra kết quả sau.
1.Về mặt nhân thức
Nhìn chung sinh viên trường ĐH Văn Hiến đã nhận thức được một số khía cạnh của
cuộc sống độc thân mặc dù chưa được đầy đủ và chính xác. Những hiểu biết của sinh
viên về cuộc sống độc thân chỉ ở mức biết sơ qua, chưa có một nhận thức đúng đắn và
cái nhìn khách quan. Cuộc sống độc thân chưa thực sự tác động và ảnh hưởng đến
nhận thức của sinh viên, có thể do trào lưu sống độc thân mới chỉ đang nhen nhóm
trong xã hội, nó chưa đủ lớn để có tác động đến mỗi cá thể. Sinh viên nhìn nhận cuộc
sống độc thân dựa trên những sự phán đoán và kinh nghiệm sống của mỗi người.
Sinh viên cho rằng cuộc sống độc thân là sống một mình, những người chọn cuộc
sống này đa phần là những nhà trí thức,có học vấn cao nên suy nghĩ và cách nhìn nhận
cuộc sống của họ có sự khác biệt. Nguyên nhân chủ yếu để một số người chọn cuộc
sống độc thân là do đã từng có những thất bại, đổ vỡ trong tình yêu và cuộc sống hôn
nhân gia đình làm cho họ có những thành kiến và cái nhìn phiến diện về cuộc sống gia
đình. Kết quả này cho thấy giả thuyết đề tài là chưa chính xác, mặc dù cuộc sống hiện
đại, tin tức nhanh chóng, sinh viên dễ nắm bắt thông tin nên sẽ có những hiểu biết
nhất định về các xu hướng, trào lưu mới. Tuy nhiên cũng có sự chọn lọc các thông tin
có những trào lưu được quan tâm chú ý bên cạnh đó cũng có những vấn đề không thu

hút được sự chú ý và ham hiểu biết của sinh viên do vậy mà đa số sinh viên không có
những hiểu biết và nhận thức chính xác về cuộc sống độc thân.
2.Về mặt thái độ và xu hướng
Từ nhận thức của sinh viên về đời sống độc thân chưa có hiểu biết hoàn thiện, đầy đủ
do đó sinh viên đa số có thái độ thờ ơ không quan tâm đến trào lưu, xu hướng sống
độc thân. Giai đoạn này sinh viên chủ yếu tập chung vào việc học tập và định hướng
sự nghiệp do vậy mà sinh viên ít quan tâm đến những trào lưu xu hướng trong xã hội.
Do vậy mà giả thuyết đề tài chưa đúng vì tùy vào từng vấn đề có thu hút sự quan tâm
của sinh viên hay không thì họ mới có thái độ quan tâm trực về vấn đề đó. Vì không
có nhận thức chính xác về cuộc sống độc thân do vậy mà sinh viên không đưa ra thái
độ ủng hộ hay phản đối.
Từ nhận thức và thái độ trên của sinh viên về cuộc sống độc thân do vậy mà sinh viên
đều phân vân trước sự chọn lựa cuộc sống độc thân cho mình.Từ giả thuyết đề tài và
kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù kinh tế phát triển kèm theo nhiều trào lưu, xu
hướng mới, dễ tác động vào giới sinh viên, nhưng khi trào lưu sống độc thân xuất
hiện, sinh viên lại không phải là thành phần hưởng ứng đông đảo.
II.Kiến nghị
Xã hội nên có những biện pháp kìm hãm, giải quyết, quản lý những trào lưu xu hướng
xấu đang dần dần xâm nhập vào Việt Nam. Cần tuyên truyền cho mọi người biết về
tác hại và tác động xấu của những trào lưu đang diễn ra trong xã hội để mọi người có
sự hiểu biết để phòng tránh, tránh xa những xu hướng không tốt đó.
Nhà trường cần thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận về các chuyên đề về các
vấn đề, xu hướng trong xã hội cho thanh niên, sinh viên nhằm giúp sinh viên có cơ hội
giao lưu, tiếp xúc, học hỏi để tăng sự nhận thức và kiến thức của mình về các vấn đề
đang xảy ra trong xã hội để có thái độ xử lý đúng đắn khi gặp phải những vấn đề đó.
Đối với các bạn sinh viên không nên chạy theo những trào lưu xu hướng mới của thời
đại, cần có sự chọn lựa những điều bổ ích, tiến bộ để học tập, loại bỏ những điều
không tốt, ảnh hưởng đến bản thân, gia đình, xã hội. Ngoài ra sinh viên còn là lực
lượng là thành phần vô cùng quan trọng của xã hội, là nguồn nhân lực, người chủ
tương lai của đất nước. sự phát triển của sinh viên có tầm ảnh hưởng quan trọng đối

với xã hội quốc gia vì vậy sinh viên cần phải tạo cho mình cuốc sống lành mạnh.
PHỤ LỤC
TRƯỜNG ĐH DL VĂN HIẾN
KHOA TÂM LÝ HỌC
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Các bạn thân mến!
Nhằm tìm hiểu về nhận thức và thái độ của các bạn SV ĐH Văn Hiến về cuộc sống
độc thân trong xã hội hiện nay. Người nghiên cứu làm phiếu khảo sát này xin ý kiến
của các bạn. Mong sự giúp đỡ của các bạn! Xin chân thành cảm ơn!
1. Giới tính của bạn
A. Nam B. Nữ
2. Theo bạn cuộc sống độc thân là gì?
A. Sống một mình C. Không tình yêu.
B. Không hôn nhân không gia đình
3. Hiện nay trong giới trẻ đang diễn ra trào lưu sống độc thân, bạn có thái độ
như thế nào về vấn đề này?
A. Ủng hộ C. Không quan tâm
B. Phản đối
4. Theo bạn cuộc sống độc thân có thực sự là một cuộc sống tốt?
A. Tốt C. Hoàn toàn không tốt
B. Không tốt lắm
5. Khi sống độc thân bạn sẽ có những thuận lợi gì?
A. Hoàn toàn được tự do thoải mái.
B. Tránh được cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc.
C. Không phải lo lắng hay suy nghĩ quá nhiều về tình yêu.
D. Có nhiều thời gian thực hiện những sở thích hoài bão, ước mơ.
6. Khó khăn nào lớn nhất khi bạn chọn cuộc sống độc thân?
A. Khi buồn, vui, cô đơn không có người an ủi, chia sẻ.
B. Gặp những vấn đề về tâm sinh lí, sức khỏe.
C. Chịu sự phản đối của gia đình, bàn tán của dư luận xã hội.

D. Gặp những khó khăn khi về già.
7. Theo bạn những người chọn cuộc sống độc thân đa phần là?
A. Giới nghệ sĩ, người nổi tiếng.
B. Những người tri thức có học vấn cao.
C. Những người không có nhan sắc, địa vị, tiền tài.
D. Những người gặp vấn đề về giới tính.
8. Nguyên nhân nào là chủ yếu dẫn tới người ta chọn cuộc sống độc thân?
A. Không tìm được người bạn đời hoàn hảo như mong ước.
B. Đã từng gặp thất bại, sự cố trong tình yêu, hôn nhân.
C. Sợ mất tự do, sợ bị cản trở sự nghiệp, sợ khổ.
D. Do hoàn cảnh gia đình.
9. Bạn có muốn sống độc thân không?
A. Có C. Phân vân
B. Không
Cảm ơn bạn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.Tâm lý học phát triển

×