Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Đề tài : Thực trạng và giải pháp phát triển nền nông nghiệp bền vững của Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.42 KB, 18 trang )

Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
Đề tài :
Thực trạng và giải pháp phát triển nền
nông nghiệp bền vững của Việt Nam
1
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
MỤC LỤC
2
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn,
tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định vào tốp những nước đầu của thế giới. Đời
sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đến năm 2009 chúng
ta đã thoát khỏi tình trạng là nước nghèo. Có được những thành tựu to lớn này là
có sự đóng góp công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của tất cả các
ngành các cấp trong đó có sự đóng góp to lớn của ngành nông nghiệp.
Việt Nam vẫn được coi là nước nông nghiệp với khoảng trên 80% dân số
sống ở nông thôn và khoảng 74,6% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Có thể
nói nông nghiệp, nông thôn là bộ phận quan trọng trong nên kinh tế quốc dân của
Việt Nam. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp; xuất khẩu nông sản đem lại nguồn ngoại tệ quan
trọng cho nền kinh tế; tạo việc làm và thu nhập cho đa số người dân. Nông thôn là
môi trường sống của đa số nhân dân, nơi bảo tồn và phát triển các truyền thống văn
hoá dân tộc.
Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, và coi đó nhiệm vụ
chiến lược, là cơ sở để đảm bảo ổn định tình hình chính trị - xã hội, sự phát triển
hài hoà và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Chính nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà trong những
năm qua ngành nông nghiệp và nông thôn đã gặt hái được nhiều thành tựu hết sức


đáng mừng. Nông nghiệp Việt Nam không những đảm bảo tự cung tự cấp mà còn
trở thành một cường quốc trên thế giới trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đó ngành nông nghiệp Việt Nam
cũng còn có một số mặt hạn chế cần phải khắc phục như vấn đề phát triển nông
3
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
nghiệp kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa thức sự xử dụng hiệu quả và phát
huy hết các nguồn lực
Do dó với mong muốn tìm hiểu thực trạng nền nông nghiệp nước nhà và đề
xuất một số giải pháp để phát triển tốt hơn ngành nông nghiệp, em mạnh dạn chọn
tiến hành nghiên cứu đề tài tiểu luận: ”Thực trạng và giải pháp phát triển nền
nông nghiệp bền vững của Việt Nam”. Do điều kiện hạn chế về trình độ, thời gian
nên trong tiểu luận sẽ có nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp
thêm của thầy cô giáo và các bạn đọc quan tâm để em có thể hoàn thiện thêm hiểu
biết của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững
- Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam
- Đề ra một số giải pháp để phát triển nền nông nghiệp bền vững
1.3 Phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp thu thập số liệu
Do điều kiện hạn chế, nên chúng tôi chủ yếu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp từ
các nguồn:
+ Những thông tin, số liệu được thu thập từ các báo, tạp chí, luận văn có liên quan
đến vấn đề đang nghiên cứu tại thư viện trường Đại học Nông nghiệp Hà Nộ và
thư viện khoa Kinh tế và phát triển nông thôn. Từ đó chọn lọc những kiến thức,
những kết quả có thể sử dụng được.
+ Thu thập từ các trang web có liên quan trên mạng Internet
* Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào mục đích của đề tài, tôi tiến hành thu thập những số liệu cần có

bên trên và phân tích các số liệu đó. Tuy nhiên, để phân tích được, tôi sẽ phân tích
các số liệu đó ra theo thời gian, sau đó sắp xếp chúng lại để tạo thành một chuỗi
4
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
thời gian nhằm cho thấy sự thay đổi qua từng năm trong lĩnh vực Nông nghiệp
nông thôn Việt Nam. Từ đó có thể nhận biết được những thành tựu đã đạt được và
những hạn chế cần khắc phục để đưa Nông nghiệp nông thôn Việt Nam phát triển
theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
Tuy nhiên, để định lượng chính xác được một số những thành tựu và hạn
chế, tôi sử dụng các chương trình (tính toán, xếp hạng,…) trong phần mềm Excel.
Một phương pháp nữa phục vụ tôi trong quá trình phân tích và xử lý số liệu
là phương pháp so sánh, nhằm so sánh giữa các năm với nhau và so sánh giữa
Nông nghiệp với các ngành khác cũng như giữa Nông nghiệp với tổng thể nền kinh
tế.
5
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Một số khái niệm liên quan
- Phát triển bền vững là sự phát triển trong đó lồng ghép các quá trình sản
xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường, đảm bảo thỏa mãn
những nhu cầu hiện tại mà không làm phương hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của tương lai.
- Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. (Hội
đồng thế giới về môi trường và Phát triẻn của Liên hợp quốc - WCED)
- Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý
và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế (đặc biệt là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (đặc biệt là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, giảm
nghèo và giải quyết công ăn việc làm) và bảo vệ môi trường (đặc biệt là xử lý,
khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống

cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên).
- Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau (Tổ
chức sinh thái và môi trường Thế giới – WORD)
- Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được 2 yêu
cầu cơ bản: Đảm bảo đáp ứng cầu nông sản hiện tại và duy trì được tài nguyên
6
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
thiên nhiên cho các thế hệ mai sau (bao gồm: gìn giữ quỹ đất, nước, rừng, không
khí, khí quyển và tính đa dạng sinh học…
- Nông nghiệp bền vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về
sinh thái, kỹ thuật vừa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Vai trò của Nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế Việt Nam.
Với khoảng hơn 70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những
vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước, các nghị quyết của Đảng đều rất chú trọng tới vấn đề này, cụ thể
trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu rõ:
Về nông nghiệp: “phát triển nền nông nghiệp toàn diện”, trên cơ sở “bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống”, “chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh khối
lượng sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng nông, lâm, thủy sản qua chế biến; tăng
kim ngạch xuất khẩu”; và tiến tới “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao”.
Về nông thôn: “Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa”; “chuyển dịch cơ cấu kinh
tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn”; và “Xây dựng nông thôn ngày
càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại”,

trên cơ sở thực hiện các biện pháp:“Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn, chú trọng phát triển hệ thống thủy lợi, bảo đảm đường giao thông thông suốt
đến trung tâm xã, có đủ trường học, trạm y tế và nước sạch cho sinh hoạt. Bảo vệ
môi trường sinh thái”; “Giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn”.
7
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
Nền kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm Đổi mới vừa qua (1986-2008) đã
đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản
lượng các loại nông sản đều tăng, nổi bật nhất là sản lượng lương thực đều tăng với
tốc độ cao từ năm 1989 đến nay. Năm 1989 là năm đầu tiên sản lượng lương thực
vượt qua con số 20 triệu tấn, xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu
USD. Đến năm 2008 vừa qua sản lượng lương thực đã đạt đến con số kỷ lục 39
triệu tấn và đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD.
Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn
lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình
quân hàng năm tăng 3,3%. Thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng cải thiện
hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ mặt nông thôn thay
đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân
được nâng lên cao hơn trước.
Nông nghiệp ngày càng có nhiều đóng góp tích cực hơn vào tiến trình phát
triển, hội nhập của kinh tế cả nước vào nền kinh tế toàn cầu. Năm 1986, kim ngạch
xuất khẩu nông-lâm-thuỷ sản mới đạt 400 triệu USD. Đến năm 2007 đã đạt tới 12
tỷ USD, tăng gấp 30 lần. Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông nghiệp không
chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng
cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra
nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những năm qua.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình CNH-HĐH đất

nước theo định hướng XHCN đều khẳng định tầm vóc chiến lược của vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông
dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát
triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
8
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
3.2 Tình hình phát triển nông nghiệp - nông thôn trong thời gian vừa
qua.
3.2.1 Một số thành tựu đạt được
Về đánh giá thực trạng, kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân nước ta trong những
năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái quát thành năm thành tựu:
Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng
năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc
gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học - công nghệ được
nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng bình quân
16,8%/năm, năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 15,4 tỷ USD chiếm 27,2%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một số sản phẩm có vị thế cao trên thị trường
thế giới, như gạo, cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản.
Hai là, Tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến được
tiếp tục phát triển góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Chúng ta đã có những bước tiến đáng mừng trong việc ứng dụng các
biện pháp kỹ thuật mới trong lai tạo giống, cơ khí hóa nông nghiệp và đẩy mạnh
được công nghệ chế biến.
Bai là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là
thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi
bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy lợi theo hướng đa
mục tiêu. Từ năm 2000 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực tưới và năng lực tiêu,
bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo trồng lúa, một số cây trồng

khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ. Hệ thống đê sông, đê biển
được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công trình tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm
tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng và phát huy tác dụng
Bốn là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới;
kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề góp
phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn. Kinh tế hộ tiếp tục phát
triển theo hướng mở rộng số lượng và quy mô. Đến nay cả nước đã có khoảng trên
9
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
12 triệu hộ nông dân hoạt động trong các lĩnh vực trồng trọt, nuôi trồng thủy sản
…. Nhờ chính sách dồn điền đổi thửa mà quy mô diện tích của các hộ được tập
trung hơn. Kinh tế trang trại phát triển mạnh đa dạng và hiệu quả hơn. Đến 2007
cả nước đã có 113,7 nghìn trang trại, tăng so với năm 2001(52.682 trang trại) là
85,4%. Quy mô trang trại ngày càng mở rộng, góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ
cấu sản suất; là mô hình sản xuất hàng hoá có hiệu quả, góp phần tạo việc làm và
tăng thu nhập cho lao động nông thôn.
Năm là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày
càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Năm 2007 thu nhập
bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000, đặc biệt là về cơ
bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%, thành tựu này được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa
bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy
mạnh hơn.
Biểu đồ 3.1: một số thành tựu trong tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam
10
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
3.3 Những thách thức trong phát triển bền vững nền nông nghiệp Việt
Nam
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên thì sự phát triển bền vững
trong nông nghiệp nông thôn nước ta còn gặp rất nhiều thách thức:

- Ruộng đất manh mún, không phù hợp với việc sản xuất hàng hóa lớn, tập
trung. Khi mà nền nông nghiệp đã lớn mạnh đảm bảo an ninh lương thực trong
nước thì mục tiêu là phải xuất khẩu nông sản phẩm, mang lại hiệu quả cao hơn cho
người nông dân. Tuy nhiên, điều này cần có khu sản xuất hàng hóa tập trung, sản
xuất đồng loạt theo quy trình kỹ thuật nhất định. Tuy nhiên, Việt nam có dân số
làm nông nghiệp đông, đất sản xuất nông nghiệp chật hẹp. Do đó, ruộng đất manh
mún nhất là ở vùng đồng bằng Sông Hồng diện tích đất nông nghiệp trung bình của
mỗi hộ nông dân chỉ khoảng 0,3hecta. Vì vậy, khó khăn để áp dụng máy móc, cơ
giới hóa vào sản xuất, năng suất lao động thấp.
- Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản
xuất tiên tiến diễn ra chậm. Đa số các khâu sản xuất trong nông nghiệp đều làm thủ
công nên năng suất lao động trong nông nghiệp rất thấp. Điều này là do tình trạng
ruộng đất manh mún gây nên, diện tích nhỏ hẹp khó có thể đưa các máy móc lớn
vào sử dụng, chủ yếu chỉ có thể sử dụng các máy nhỏ gọn công suất thấp. Ngoài ra,
còn do người nông dân còn thiếu vốn để đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị
cho quá trình sản xuất. Họ chủ yếu sử dụng sức lao động của gia đình và đổi công
theo phương châm “lấy công làm lãi” nên năng suất lao động chưa được cao.
- Sự kết hợp giữa công nghiệp và nông nghiệp còn chưa tốt, nhất là công nghiệp
chế biến sau thu hoạch. Chúng ta còn rất thiếu các sản phẩm công nghiệp, máy
móc hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các loại thiết bị này chủ yếu vẫn
là đi nhập khẩu, giá thành cao cản trở việc đầu tư của người nông dân. Đặc biệt
công nghệ chế biến nông sản sau khi thu hoạch của chúng ta còn rất thiếu. Người
nông dân chủ yếu bán các sản phẩm thô, tươi sống có giá trị thấp. Khi vào thời vụ
do không có các cơ sở chế biến nên các sản phẩm của người dân bị giảm phẩm cấp
nhanh, bị những người thu mua ép giá hoặc không thể tiêu thụ được. Điển hình
11
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
như: Vải thiều xuất khẩu sang Trung Quốc bị ép thời gian nên đã bị hỏng rất nhiều
ở cửa khẩu; lúa gạo bị rớt giá vào mùa thu hoạch ……
- Thị trường nông sản bấp bênh thiếu ổn định, giá cả biến động theo hướng bất

lợi cho người nông dân. Người nông dân do trình độ còn hạn chế nên vấn đề nắm
bắt thông tin thị trường còn yếu, khó có khả năng bán sản phẩm của mình với giá
cao. Hơn nữa, ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thì sự nắm bắt thông
tin thị trường, luật thương mại quốc tế cũng còn yếu, do đó các sản phẩm nông sản
của Việt Nam có thị trường không ổn định. Chúng ta thường bị bất lợi trong các
thương vụ cạnh tranh xuất khẩu nông sản hoặc bị ép giá. Tiêu biểu như thị trường
tiêu thụ cá Da trơn, cà phê, gạo …… thường xuyên xảy ra những vụ khiếu kiện, ép
giá của bạn hàng. Người nông dân chính là người thiệt thòi nhất khi phải chịu
nghịch lý được mùa thì nông sản rớt giá, khi mất mùa giá cao thì lại không có nông
sản để bán. Điều này làm cho lợi nhuận của người nông dân thấp, đời sống gặp
nhiều khó khăn.
- Áp dụng ngày càng nhiều các giống cây trồng vật nuôi mới thay thế các giống
truyền thống đã làm cho dịch bệnh, sâu bệnh ngày càng nhiều và khó khăn cho
công tác phòng chống dịch. Điều này đã làm cho việc sử dụng lạm dụng các sản
phẩm hóa học, thuốc trừ sâu ngày càng nhiều gây ô nhiễm môi trường, suy thoái
đất, nguồn nước và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Người nông
dân có trình độ còn hạn chế, chưa ý thức được việc bảo vệ môi trường nên đã sử
dụng bừa bãi các sản phẩm thuốc hóa học gây ra ô nhiễm nặng nề về môi trường
nông thôn. Điển hình vào các đợt sâu bệnh nở rộ thì nhà nhà đi phun thuốc trừ sâu,
gây ra ô nhiêm không hhí nặng nề trên đồng ruộng. Tác hại lâu dài là các hóa chất
này ngấm xuống đất, nước ngầm, người dân bị đe dọa nghiêm trọng về sức khỏe.
Ngày càng có nhiều căn bệnh lạ nguy hiểm xuất hiện, có những nơi đã xuất hiện
“làng ung thư” …… một phần là do môi trường sống bị ô nhiễm từ hoạt động sản
xuất nông nghiệp.
- Tình trạng sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên vẫn diễn ra phổ biến ở các vùng
nông thôn. Người nông dân vì lợi trước mắt mà đã khai thác một cách quyệt quệ
các nguồn tài nguyên quý như rừng, động thực vật … làm mất khả năng tái tạo tự
12
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
nhiên của chúng gây mất cân bằng sinh thái. Đất đai ngày càng bị sói mòn, thoái

hóa, ô nhiễm mà không được quan tâm cải tạo phục hồi một cách thỏa đáng.
3.4 Một số đề xuất giải pháp để phát triển nền nông nghiệp nước nhà bền
vững
- Thực hiện tốt chủ trương dồn điền đổi thửa của Đảng, Nhà nước đã đề ra.
Đây là chủ trương đúng đắn để tạo ra khả năng tích tụ ruộng đất có thể áp dụng
công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Đồng
thời có thể hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn phục vụ cho nhu cầu trong
nước và xuất khẩu. Để làm được điều này, đòi hỏi các cấp các ngành cần tuyên
truyền vận động nông dân hiểu được chủ trương, nâng cao ý thức cộng đồng mới
có thể thực hiện được. Việc dồn điền đổi thửa phải được áp dụng linh hoạt phù hợp
với từng địa phương, chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải thực hiện đúng luật
định.
- Đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao
thông, hệ thống thủy lợi phục vụ tốt cho công tác tưới tiêu, áp dụng cơ giới hóa
vào sản xuất và vận chuyển giao lưu bán các nông sản phẩm. Như vậy sẽ làm nâng
cao được năng suất và giá trị sản phẩm.
- Các cấp, các ngành có liên quan cần tạo thị trường tiêu thụ nông sản phẩm
cho nông dân được thuận lợi và minh bạch. Cung cấp thông tin về thị trường cho
người nông dân và có những biện pháp để ổn định thị trường trong nước. Đồng
thời hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nắm bắt thị trường quốc tế, đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản.
- Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp như
sản xuất máy nông nghiệp. Phát triển các cơ sở chế biến nông sản phẩm ngay tại
các địa phương để chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Như vậy mới có thể nâng cao
được giá trị hàng nông sản, tránh tình trạng ép giá khi được mùa.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế
cao, phù hợp với thực tế của địa phương vào sản xuất. Nếu đưa được các loại giống
13
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
cây trồng, vật nuôi thích hợp vào sản xuất sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp

phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con nông dân. Những năm qua
nhờ thực hiện tốt chủ trương này mà nhiều vùng canh tác lúa kém hiệu quả đã
được chuyển sang nuôi troòng thủy sản mang lại lợi nhuận cao cho người nông
dân. Một số vùng ven đô đã chuyển từ trồng thuần lúa sang trồng rau mầu, hoa, cây
cảnh cung cấp cho nội đô thành phố. Nhờ đó mà có rất nhiều tấm gương nông dân
làm giầu lên nhanh chóng.
- Sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lao động tại địa phương. Cần có biện pháp
đào tạo nâng cao trình độ và sử dụng hợp lý nguồn lao động nông thôn. Đa dạng
hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh để tạo việc làm tại chỗ vừa tạo thêm thu nhập,
phân công lao động nông thôn làm cho dân cư nông thôn ổn định, giảm bớt sức ép
di dân ra thành phố. Thực hiện chủ trương ”ly nông bất ly hương” bằng cách phát
triển thêm các ngành nghề phụ ở nông thôn như: hàng mây tre đan, gốm sứ, đúc
đồng vừa giữ được bản sắc làng nghề vừa thu hút đượng lao động nông nhàn
tăng thêm thu nhập cho người dân.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong phát
triển các giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và sức chống chịu
sâu bệnh cao, không thoái hóa, không làm tổn hại đến đa dạng sinh học. Những
năm vừa qua, chúng ta cũng đã nghiên cứu được nhiều loại giống cây trồng vật
nuôi có giá trị tốt theo hướng này như: giống lúa chịu khô hạn cho đồng bào dân
tộc vùng cao, giống lua kháng rầy (CR203) nhưng số lượng còn ít. Chúng ta
chủ yếu vẫn phải nhập khẩu các giống chất lượng cao từ nước ngoài như: Xoài
Thái Lan, các giống lúa của Trung Quốc như Khang Dân, Syngenta Trong thời
gian tới cần có chính sách đầu tư cho các Viện nghiên cứu, các trung tâm sản xuất
giống chất lượng cao để lai tạo các giống mới bản địa sẽ có khả năng thích nghi tốt
hơn các giống nhập ngoại. Đồng thời cần có biện pháp thẩm định, chọn lọc kỹ các
giống cây trồng, vật nuôi nhập ngoại tránh hiện tượng nhập khẩu tràn lan như thời
gian qua đã làm cho ”lợi bất gặp hại” như: Ốc bươu vàng, rùa tai đỏ
- Phát triển ngành sản xuất phân bón hữu cơ, phân sinh học, thuốc trừ sâu sinh học
để thay thế cho các loại phân bón hóa học vô cơ, thuốc trừ sâu độc hại đang bị sử
14

Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
dụng lạm dụng như hiện nay. Việc lạm dụng các chế phẩm hóa học thời gian qua
trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho môi trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đất
đai bị thoái hóa, mất cân bằng sinh thái. Do đó, việc sử dụng các chế phẩm sinh
học hữu cơ có nguồn gốc tự nhiên sẽ là giải pháp đúng đắn để cải thiện môi trường
đất, làm tăng độ phì, giảm thiểu ô nhiễm mà vẫn làm tăng năng suất và hiệu quả sử
dụng.
- Tổ chức tập huấn nâng cao hiểu biết, tuyên truyền cho người nông dân hiểu và áp
dụng thép hướng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, sử dụng biện pháp phòng trừ dịch
hại tổng hợp IPM. Làm tốt được điều này sẽ nâng cao được ý thức của cộng đồng
trong việc bảo vệ môi trường, góp phần làm cân bằng sinh thái trở lại. Nhiều địa
phương đã áp dụng sử dụng các con thiên địch thay cho việc sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật như: nuôi kiến trong vườn cam để trừ sâu đục thân, hay nuôi ong mắt đỏ
để trừ rệp
- Cần có biện pháp để bảo tồn nguồn gen quý của những giống cây trồng, vật nuôi
tại địa phương. Chúng ta có rất nhiều giống cây con quý như: Lợn móng cái mắn
đẻ, gà di có chất lượng thịt ngon, các giống cây ăn quả quý như Bưởi Đoan Hùng,
Phúc Trạch Những năm qua chúng ta đã không bảo vệ và lưu trữ tốt những
gen quý này nên nhiều giống quý đã dần bị tuyệt chủng. Do đó cần có biện pháp để
lưu trữ chúng, phục vụ cho việc lai tạo giống mới chất lượng cao sau này.
15
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Nông nghiệp Việt Nam đóng vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế đất
nước, đặc biệt góp phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho cư dân nông thôn. Nông nghiệp đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá quan
trọng, tham gia ngày càng sâu sắc vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nền nông
nghiệp của Việt Nam đã và đang chuyển mạnh từ sản xuất theo mục tiêu số lượng
sang hiệu quả và chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bền vững. Phát
triển bền vững nông nghiệp nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm mà Đảng và Chính

phủ quan tâm và đã được thể hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách như Chỉ thị
100 của Ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được
triển khai cùng các chỉ thị, nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị Trung
ương của các khoá V, VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông
nghiệp, nông thôn nước ta. Đại hội X của đảng đã nhấn mạnh Hiện nay và trong
nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt
quan trọng; Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Cũng là vấn đề
“Tam nông” trong giai đoạn hiện nay có nhiều Hội thảo quy tụ rất nhiều các nhà
khoa học, các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Nông nghiệp-Nông thôn chúng
ta có quyền hy vọng sẽ có những chính sách và giải pháp thiết thực và phù hợp
16
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
nhằm đưa Nông nghiệp-nông thôn Việt Nam phát triển hài hoà và phù hợp với yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Đứng trên những thành công to lớn đã đạt được và đứng trước những thách
thức đang gặp phải của việc phát triển nông nghiệp bền vững nền nông nghiệp
nước nhà thì cần có những biện pháp, đường lối phát triển phù hợp để cân đối giữa
phát triển và tính bền vững. Có như vậy mới làm cho nông nghiệp phát triển ổn
định lâu dài, thực hiện thành công xây dựng bộ mặt nông thôn mới theo tinh thần
Nghị quyết 26 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đề ra.
17
Nguyễn Anh Vũ Kinh tế NN B – K19
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Nguyên lý kinh tế nông nghiệp, Đỗ Kim Chung, NXB nông
nghiệp 2009
2. Đề án “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
3. Phát triển và hội nhập: Phát triển Nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ
đổi mới, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn, Báo
Nông nghiệp

4. Website của Bộ Nông nghiệp và PTNT: www.mard.gov.vn
5. Website của Tổng cục thống kê:
6. Theo vneconomy, chính sách nào để phát triển Nông thôn, nâng cao thu
nhập nông dân, Châu Văn Ly
18

×