Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.3 KB, 51 trang )

Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
LỜI NÓI ĐẦU
“ Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế ” là một ngành học mặc dù mới chỉ xuất hiện
và phát triển hơn hai thế kỷ, nhưng nó đã được hầu hết tất cả các nước trên thế giới đón
nhận nghiên cứu và vận dụng vào trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội đạt hiệu quả.
Ở nước ta trong những năm gần đây, nhất là từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước,” tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế “ ngày càng
được quan tâm nghiên cứu nhiều. Hơn nữa, đây là ngành học có mối quan hệ mật thiết
với địa lý kinh tế - xã hội, do vậy việc nghiên cứu nó càng trở lên bức thiết hơn bao giờ
hết.
Trong khuân khổ tập bài giảng này, chúng tôi bước đầu đưa ra một số vấn đề về
cơ sở lý luận của tổ chức lãnh thổ, về tổ chức lãnh thổ các ngành công nghiệp, nông
nghiệp và ngành du lịch (có đề cập đến Việt Nam). Những nội dung này, được chọn lọc
cho phù hợp với sinh viên khoa địa lý, đại học Sư phạm, làm cơ sở để lý giải và hiểu
sâu sắc hơn về những vấn đề kinh tế - xã hội.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn tập bài giảng này còn những hạn chế
nhất định, nhất là nội dung chưa bao quát được mọi khía cạnh lãnh thổ của các ngành
kinh tế. Do đó chúng tôi rất mong và cảm ơn những ý kiến đóng góp của các bạn đồng
nghiệp và sinh viên.
Huế, tháng 12 năm 2006
Tác giả
1
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC
LÃNH THỔ CÁC NGÀNH KINH TẾ
I. PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG XÃ HỘI THEO LÃNH THỔ
1. Quan niệm về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ có thể được coi là cơ sở của tổ chức
không gian kinh tế nói chung và tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế nói riêng.
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải có hoạt động sản


xuất. Hoạt động này rất đa dạng, phong phú và diễn ra trên khắp hành tinh. Khái quát
chung, nền sản xuất xã hội bao gồm các ngành (lĩnh vực) khác nhau và được tổ chức
theo những không gian (lãnh thổ) nhất định. Như vậy, phân công lao động xã hội có hai
hình thức chủ yếu:
- Phân công lao động xã hội theo ngành
- Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ
Trong quá trình sản xuất, mỗi vùng (địa phương) dựa vào những thế mạnh riêng
của mình về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện kinh tế - xã
hội, lịch sử.v.v để tiến hành sản xuất chuyên môn hóa nhằm, một mặt tạo ra nhiều sản
phẩm có chất lượng và mặt khác có giá thành hạ với hiệu quả kinh tế cao. Việc hình
thành sản xuất chuyên môn hóa từng vùng là kết quả của một quá trình kinh tế và xã
hội. Quá trình này được gọi là phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Vậy hiểu như
thế nào là phân công lao động xã hội theo lãnh thổ?
Theo Iu. G. Xauskin (1973), phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là kết quả
của sự thống nhất giữa các vùng có nền sản xuất khác nhau, nhưng lại bổ sung cho nhau
và lôi cuốn chúng vào việc trao đổi hàng hóa. Trong quá trình phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ có sự phân hóa về chức năng giữa các vùng. Do vậy, tùy thuộc vào
điều kiện cụ thể, phân công lao động xã hội theo lãnh thổ một mặt tạo nên sự cân bằng
giữa các lãnh thổ và mặt khác, cá thể hóa các lãnh thôe ấy khi lựa chọn một số ngành
chuyên môn hóa. Về bản chất, phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là việc gắn các
ngành vào những lãnh thổ thích hợp, đảm bảo mối liên kết chặt chẽ giữa chúng với nhau
và sự phát triển hài hòa giữa chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp, tạo ra sự kết hợp
giữa ngành với ngành, giữa ngành với lãnh thổ.
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ có ý nghĩa to lớn đối với địa lý kinh tế -
xã hội cũng như đối với tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế. Như N.N. Baranxki đã
khảng định: Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là một hệ thống trọn vẹn các khái
niệm liên quan đến các ngành và các vùng.
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ không phải là bất biến, mà là một phạm
trù kinh tế, xã hội, lịch sử. Nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người vớiì tự nhiên trong quá trình sản xuất và đời sống. Các mối quan hệ này

thay đổi theo thời gian và phát triển không ngừng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp.
2
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
2. Các hình thức thể hiện của phân công lao động xã hội theo lãnh thổ
Về phạm vi không gian, phân công lao động xã hội theo lãnh thổ có thể được
chia thành 6 hình thức với mức độ khác nhau:
2.1. Hình thức phân công lao động trên phạm vi toàn thế giới
- Hình thức phân công lao động theo dạng này chịu sự tác động mạnh mẽ của các
khối (liên minh) kinh tế, chính trị. Các tập đoàn tư bản lớn luôn thâm nhập và tìm mọi
cách mở rộng thị trường đầu tư và tiêu thụ. Qua đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
phân công lao động quốc tế.
- Việc phân công lao động này dựa vào các lợi thế điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, giao thông vận tải, vốn và công nghê ûcủa mỗi
quốc giađể có thể sản xuất và trao đổi hàng hóa và đẩy mạnh phát triển kinh tế
- Do trên thực tế không có quốc gia nào có đầy đủ các điều kiện để tự đảm bảo
nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội Vì thế, việc phân công lao động quốc tế ngày
càng được đẩy mạnh và nó đã trở thành nhu cầu của mỗi quốc gia, mang tính xu thế tất
yếu.
2.2. Hình thức phân công lao động trong phạm vi một liên minh quốc gia
- Hiện nay, xu thế chung mỗi quốc gia với những lợi thế riêng của mình đều
mong muốn tham gia vào một liên minh kinh tế nào đó.
- Thực tế trên thế giới đã có nhiều liên minh kinh tế ra đời, chẳng hạn như:
+ Liên minh châu Âu (EU), thành lập năm 1957 tại Rôma (Italia), đến nay có 27
thành viên
+ Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), thành lập năm 1967, hiện có 10
thành viên
- Nhìn chung, phân công lao động xã hội giữa các nước tham gia liên minh kinh
tế này thường bền vững hơn so với phân công lao động trên phạm vi toàn thế giới.
2.3. Hình thức phân công lao động giữa các vùng trong một quốc gia

- Hình thức này thường được điều chỉnh và thực hiện giữa các vùng trong nước,
là cơ sở để phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia.
- Bản chất của hình thức này là một hệ thống mở, trong đó diễn ra các mối liên
hệ nội vùng và thường xuyên có sự trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin với các vùng
khác. Do đó khi xem xét tổ chức lãnh thổ nền kinh tế của một vùng không thể không đề
cập tới cả hai mối quan hệ nội vùng và liên vùng
2.4. Hình thức phân công lao động trong nội vùng
- Đây là hình thức phân công lao động giữa các đơn vị hành chính (cấp tỉnh)
trong một vùng, nhằm khai thác có hiệu quả các thế mạnh vốn có của từng đơn vị hành
chính tỉnh
- Phân công lao động nội vùng phụ thuộc nhiều vào sự phân chia hành chính -
chính trị
2.5. Hình thức phân công lao động trong tỉnh
3
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Đây là hình thức phân công lao động theo lãmh thổ giữa các bộ phận đã được
chuyên môn hóa với nhau trong phạm vi một tỉnh hay giữa tỉnh lị với các lãnh thổ còn
lại
2.6. Hình thức phân công lao động địa phương
Phân công lao động địa phương là sự phân công lao động trong nội bộ một bộ
phận của tỉnh, giữa thành phố và vùng ngoại ô.
Các hình thức phân công lao động xã hội theo lãnh thổ nói trên được biểu hiện cụ
thể trong một không gian nhất định với mức độ khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp.
II. MỘT SỐ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC LÃNH THỔ
1. Lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp của G.Thunen
- G.Thunen (người Đức) đề ra lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp
dưới ảnh hưởng của thành phố (trung tâm thị trường), xem địa tô chêch lệch như là
một nhân tố chìa khóa dẫn đến sự phân chia lãnh thổ đồng nhất của một quốc gia thành
các vùng sử dụng đất đai khác nhau.

- Năm 1826, G.Thunen là người đầu tiên đưa ra các yếu tố không gian của các
hiện tượng kinh tế - xã hội thông qua việc xây dựng mô hình toán học về không gian
của hệ thống vùng nông nghiệp đang hình thành dưới tác động của thành phố.
- Theo ông xung quanh thành phố bố trí 5 vòng đai liên tục từ trong ra ngoài
gồm:
+ Thực phẩm tươi sống;
+ Rừng làm chất đốt;
+ Trồng cỏ và lương thực cho súc vật;
+ Sản xuất rau;
+ Các bãi chăn nuôi và săn bắn lạc hậu.
Mô hình 5 vành đai nông nghiệp nói trên thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ chức
lãnh thổ.
2. Lý luận khu vị luận công nghiệp của A.Weber (đầu thế kỷ XX)
- Đây là lý luận giải thích sự tập trung công nghiệp vào một lãnh thổ do 3
nguyên nhân:
+ Chi phí vận tải rẻ nhất (nguyên nhân chính);
+ Chi phí nhân công thấp nhất;
+ Nơi có xí nghiệp tập trung nhằm sử dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền.
- Cơ sở của mô hình này dựa trên nguyên tắc “cực tiểu hóa chi phí, cực đại hóa
lợi nhuận”.
- Tư tưởng chủ đạo của A.Weber cũng như của G.Thunen trước đó, đều coi
thành phố là những nút hay là những trọng điểm của lãnh thổ. Sức lan tỏa của nó rất
lớn.
4
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Tuy nhiên, lý thuyết này chỉ phù hợp với một nền kinh tế đang trong quá trình
công nghiệp hóa và đô thị hóa. Nó có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm
ở những khu vực có nền kinh tế còn chậm phát triển.
3. Lý thuyết về “điểm trung tâm” của W.Christaller (Mỹ, 1903)
- Dựa trên những ý tưởng và mô hình của G.Thunen và A.Weber, W. Christaller

đã góp phần to lớn vào việc tìm ra tính quy luật phát triển của toàn bộ hoạt động
sản xuất vật chất và phi sản xuất vật chất theo không gian.
- Lý thuyết này cho rằng không có khu vực nông thôn nào lại không chịu sự tác
động của một thành phố với tư cách như là cực hút. Sự thay đổi của chi phí dành cho
kết cấu hạ tầng phụ thuộc vào vấn đề đô thị hóa. Thành phố là trung tâm đối với tất cả
các điểm dân cư còn lại của vùng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp từ thấp đến cao.
Ông cũng cho rằng, thành phố có vai trò như những cực phát triển và là hạt nhân cho
sự phát triển.
- Lý thuyết trung tâm của W.Christaller đã được A.Loesch hưởng ứng và phát
triển. Nhờ vậy, mà hai ông đã khám phá ra được tính quy luật phân bố không gian của
các điểm dân cư, phát hiện ra một trật tự trong sự phân bố giữa thành thị và nông thôn.
Đây là cơ sở mở đường cho việc nghiên cứu các hệ thống không gian hoặc xác định các
nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất định.
4. Lý thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux (Pháp, đầu những năm 50 của
thế kỷ XX)
- Theo thuyết này, trong một vùng không thể phát triển kinh tế đồng đều ở tất
cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian, mà có xu hướng phát triển nhất ở
một hoặc vài điểm, trong khi đó các điểm khác lại chậm phát triển hoặc trì trệ.
- Lý thuyết này chú trọng vào những thay đổi trong khuân khổ một vùng, một
khu vực của lãnh thổ làm phát sinh sự tăng trưởng kinh tế. Trong đó công nghiệp và
dịch vụ có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của vùng. Đi kèm với điểm phát
triển tăng trưởng là một ngành công nghiệp then chốt.
- Tuy nhiên, với sự tăng trưởng chênh lệch kinh tế vùng, bên cạnh những tích
cực, vẫn còn nhiều tiêu cực. Song điều quan trọng, Francoi Perroux khuyến cáo về hai
loại cực:
+ Cực phát triển là một phức hợp, trong đó có một hoạt động động lực và các
hoạt động khác xoay quanh nó, có tác động lôi cuốn đối với các khu vực xung quanh
+ Cực tăng trưởng là một tổng thể những hoạt động thụ động, chịu ảnh hưởng
thúc đẩy từ bên ngoài của một cực phát triển. Các cực tăng trưởng là các cực vệ tinh của
cực phát triển.

- Lý thuyết này đã được áp dụng rộng rãi ở châu Á, nhất là ở các nước ASEAN
và qua thực tế đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm bổ ích đối với những quốc gia cần
huy động vốn đầu tư từ nước ngoài.
Đây là lý thuyết giải thích sự cần thiết của phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng
phát triển có trọng điểm.
5. Lý thuyết cơ sở xuất khẩu
5
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Theo thuyết này, chỉ các hàng hóa sản xuất ra phục vụ cho thị trường bên
ngoài (tức hàng xuất khẩu) mới được coi là cơ sở để phát triển kinh tế của một vùng.
Các hoạt động kinh tế như vậy sẽ tác động đến nhịp độ tăng trưởng việc làm và thu
nhập. Từ đó, nền kinh tế của một vùng được chia thành các ngành cơ bản và không cơ
bản.
- Lý thuyết cơ sở xuất khẩu được phát triển ở Hoa Kỳ trước những năm 50 của
thế kỷ XX. Ban đầu tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế của những trung tâm
buôn bán, về sau được nâng lên thành mô hình phổ biến cho các nước đang phát triển.
- Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết này ở chỗ đối với những vùng kém phát
triển cần tìm ra khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc hướng ngoại.
Một số mô hình hướng vào xuất khẩu theo tư tưởng này đã được thực hiện thành công ở
Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan
- Mặt khác, theo thuyết này trong điều kiện thế giới có sự phụ thuộc lẫn nhau, thì
các nước đang phát triển chỉ có thể phát triển nhanh bằng cách dựa vào nguồn vốn và
công nghệ tiên tiến của các nước phát triển. Từ đó sẽ phát huy được những thế mạnh
của các nước đang phát triển.
- Tuy nhiên, bên cạnh những thành công của mô hình này, thực tiễn cũng chỉ ra
rằng cái giá phải trả là sự phụ thuộc chặt chẽ vào bên ngoài, nền kinh tế bị mất cân đối
nghiêm trọng cả về phương diện ngành và lãnh thổ, sự phân hóa giầu nghèo gay gắt
giữa các tầng lớp xã hội.
6. Các lý thuyết thuộc trường phái địa lý Xô Viết
Trong số các lý thuyết địa lý thuộc trường phái Xô Viết, đáng lưu ý nhất là chu

trình sản xuất năng lượng của N.N.Cơlaxopxki được đề ra năm 1947. Theo lý thuyết
này, chu trình năng lượng được hình thành dựa trên cơ sở một loại tài nguyên chủ
yếu kết hợp với nguồn năng lượng để tổ chức sản xuất trên lãnh thổ theo một quy
trình hoàn chỉnh, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau. Bằng cách đó, các chu
trình năng lượng ra đời mang tính quy luật, tạo nên một tổ chức lãnh thổ hiện thực của
nền sản xuất xã hội và nó có ý nghĩa quan trọng khi nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ,
nghiên cứu về cơ cấu kinh tế
III. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC LÃNH THỔ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI
1. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc phát triển cân đối nền kinh tế theo
các giai đoạn.
Trước tình hình tập trung quá cao dân cư (43% dân số của cả nước) và các hoạt
động kinh tế ở miền Trung Nhật bản, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau,
trên diện rộng, tạo ra sự phân bố lại lực lượng sản xuất giữa các vùng. Đồng thời cũng
đưa ra các chính sách hạn chế sự tăng trưởng và ưu thế của thành phố chính, các cực
lớn, khuyến khích sự tăng trưởng ở các vùng kém phát triển, bố trí lại và "tạo lập" sản
xuất một cách cân đối theo các vùng của đất nước.
Khi xem xét chính sách phát triển vùng của Nhật Bản kể từ sau thế chiến II,
người ta thường chỉ ra 4 giai đoạn: khôi phục kinh tế (1945-1960), tăng trưởng kinh
6
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
tế nhanh (1960-1973), ổn định sự tăng trưởng kinh tế (1975-1985) và cơ cấu lại
công nghiệp (từ 1985 đến nay).
1.1. Giai đoạn khôi phục kinh tế (1945-1960): Việc tái thiết và xây dựng mới
các ngành công nghiệp tập trung chủ yếu vào các thành phố lớn, đặc biệt vào 4 vùng
công nghiệp chính là Tokyo, Osaka, Nagoya và Yokohama. Nhật Bản đã ngày càng chú
ý hơn tới môi trường đô thị tại các vùng công nghiệp tập trung và đã có những qui định
pháp lý hạn chế việc thành lập các nhà máy tại các trung tâm lớn; đồng thời khuyến
khích sự phát triển công nghiệp tại các vùng cụ thể, chẳng hạn như luật về phát triển
tổng thể lãnh thổ đất nước được Quốc hội thông qua năm 1950, tập trung vào vấn đề

phân bố hợp lý công nghiệp; các luật về đẩy nhanh sự phát triển vùng Hokkaido (1950),
Tohoku (1975), Kyushu (1959), v.v Các cuộc điều tra đầu tiên về xu hướng và đặc điểm
xây dựng các nhà máy công nghiệp đã được tiến hành vào năm 1959. Các cơ sở pháp lý
cho chính sách định hướng phân bố công nghiệp cũng đã được xây dựng trong thời kỳ
này.
1.2. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh (1960-1973): Ở Nhật Bản đã sớm
xuất hiện tình trạng tập trung quá cao dân số và hoạt động kinh tế trong các thành phố
lớn và sự gia tăng khoảng cách về thu nhập giữa các vùng. Chính phủ đã đưa ra các biện
pháp nhằm hạn chế việc xây dựng mới hoặc mở rộng các cơ sở công nghiệp lớn tại các
quận cần kiểm tra chặt chẽ của 4 vùng công nghiệp lớn, đồng thời cổ vũ cho ý tưởng về
"vành đai công nghiệp Thái Bình Dương" nhằm khuyến khích phát triển công nghiệp
bên ngoài vùng Tokyo. Một số cơ sở công nghiệp mới, qui mô trung bình đã được xây
dựng tại các địa điểm nằm giữa bốn vùng công nghiệp lớn chạy dọc theo bờ biển Thái
Bình Dương.
Hai sự kiện quan trọng trong giai đoạn này là: việc phê chuẩn kế hoạch chi tiết
về phát triển quốc gia năm 1962 và việc phê chuẩn luật khuyến khích phân bố lại công
nghiệp năm 1972. Đặc biệt, lần đầu tiên những vấn đề môi trường đã được lồng vào
trong chính sách công nghiệp. Kế hoạch nói trên có ý định tạo lập "sự hài hoà giữa con
người và thiên nhiên", bảo vệ môi trường. Một số vành đai xanh đã được tạo lập trong
các khu công nghiệp, và các nhà chức trách Nhà nước từ trung ương tới các địa phương
đã đề ra các đề án như các thành phố xanh, các "khu sinh sống".
1.3. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế ổn định (1975-1985): Cuộc khủng hoảng
dầu mỏ cuối năm 1973 đã làm thay đổi sâu sắc các xu hướng phân bố công nghiệp: sự
giảm sút nhịp độ xây dựng các nhà máy mới và làm gián đoạn các quá trình phân tán
đầu tư vào các khu vực ưu tiên của các vùng; sự nhập cư từ một số vùng bị chậm lại. Sự
thất bại trong khuyến khích đầu tư công nghiệp vào một số vùng xa như Hokkaiđo và
một số khu vực ở Kyushu và Shikiku đã đặt ra các thách thức mới. Đáp lại, Kế hoạch
thứ ba về phát triển quốc gia được phê chuẩn năm 1977 hàm chứa một kiểu mẫu kế
hoạch về các khu dân cư liên kết, nhằm xây dựng một đất nước của những "thành phố
công viên". Mặt khác, Luật năm 1983 về các cực công nghệ ra đời nhằm thúc đẩy sự

phát triển vùng thông qua việc xây dựng các tổ hợp công nghiệp công nghệ cao trong
những khu được chọn lọc (lúc đó đã xác định được 26 khu), luật này đã bổ sung nhiều
qui định quan trọng đối với chính sách phát triển vùng nhằm khuyến khích xây dựng
các ngành công nghiệp mũi nhọn tại các vùng hấp dẫn dưới góc độ môi trường, nơi tập
trung tương đối thấp các hoạt động kinh tế. Chẳng hạn những qui định khuyến khích tài
7
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
chính dưới hình thức cho vay với lãi suất thấp đối với các xí nghiệp đổi mới thiết bị
hoặc áp dụng công nghệ cao, cũng như các biện pháp giảm thuế đặc biệt và cho phép
khấu hao nhanh, v.v
1.4. Giai đoạn cơ cấu lại công nghiệp từ 1985 đến nay: có tình trạng tăng
cường dòng di cư về thủ đô. Kế hoạch quốc gia lần thứ tư (thông qua vào năm 1987) đã
đưa ra một chính sách quốc gia về phát triển lãnh thổ theo hướng đa cực, bao hàm sự
tăng thêm đầu tư vào kết cấu hạ tầng, đặc biệt vào mạng lưới giao dịch công nghệ tin
học để uốn nắn lại xu hướng gia tăng tính đơn cực.
2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ, Trung
Quốc đã lựa chọn những vùng có vị trí gần đường giao thông, ven biển, gần các đô
thị, có nhiều nguồn lực nhất để tập trung đầu tư, lập các trọng điểm công nghiệp
với các tên gọi khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do, khu du
lịch, khu công nghiệp cảng v.v
Năm 1979, Trung Quốc đã chọn bốn vùng đông dân ở bờ biển phía Đông Nam
làm những lãnh thổ trọng điểm - đặc khu kinh tế. Những vùng này được sự ưu đãi của
trung ương về chính sách thuế. Ba trong số các đặc khu đầu tiên là Thâm Quyến, Hạ
Môn, Sán Dầu thuộc tỉnh Quảng Đông, khu thứ tư là Phúc Đông ở tỉnh Phú Giang,
Thâm Quyến, bến phải giáp Hông Kông, hiện có khoảng 2 triệu người. Hạ Môn gần
Macao và Carton, Đảo Hải Nam ở ngoài khơi Quảng Đông về phía Nam được lập thành
một tỉnh tách biệt và là đặc khu kinh tế thứ năm vào năm 1988.
Sau 20 năm xây dựng (thành lập 8-1980), đặc khu kinh tế Thâm Quyến đã trở
thành một khu công nghiệp phát triển có hơn 30 loại ngành kỹ thuật cao, sản xuất trên

1000 mặt hàng, trong đó 800 mặt hàng đang cạnh tranh có uy tín trên thế giới. Trong 10
năm, tổng giá trị công nghiệp từ 60 triệu nhân đân tệ lên 11.650 triệu (gấp 195 lần), kim
ngạch xuất khẩu từ 9 triệu USD lên 2.170 triệu USD (gấp 232 lần).
Đến năm 1984, sau khi giành được thành công của đặc khu kinh tế, Trung Quốc
đã quyết định mở cửa 14 thành phố cảng như Đại Liên, Tần Hoàng Đảo, Thiên Tân,
Yên Đài, Thanh Đảo, Liên Vân Cảng, Nam Thông, Thượng Hải, Ninh Ba, ổn Châu,
Quảng Châu, Trạm Giang Bắc Hải, Phúc Châu và cho các thành phố này thực hiện một
số chính sách đặc thù của đặc khu kinh tế. Đồng thời Trung Quốc đã quyết định xây
dựng các khu phát triển kinh tế và công nghệ (ETDZ) tại các thành phố ven biển.
Sự thành công của Trung Quốc là do phát triển mạnh vùng ven biển trên cơ sở
lựa chọn một số khu vực để tập trung đầu tư và đưa ra cơ chế thích hợp cho khu vực đó.
Trung Quốc đã sử dụng đầy đủ lợi thế của đặc khu để huy động sức mạnh tổng hợp của
đất nước, tạo ra hàng xuất khẩu, không chỉ trong đặc khu mà cả hàng hoá nội địa đều
tránh được thuế quan, hạ giá thành, kích thích và thúc đẩy xuất khẩu, tái đầu tư mở rộng
sản xuất. Tạo được những vùng động lực đảm nhận vai trò đầu tầu lôi kéo sự phát triển
chung của cả nước.
3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc với sự kết hợp chính sách đô thị hoá và phát
triển nông thôn hài hoà
8
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Để thúc đẩy phát triển vùng, Hàn Quốc coi khu vực định cư tổng thể (IRSAs)
như là 1 đơn vị quy hoạch. Quy hoạch nhằm mục đích chính là làm dịu xu hướng phân
cực của cơ cấu không gian và thúc đẩy sự phát triển đa trung tâm. Lãnh thổ Hàn Quốc
được chia thành 28 IRSAs (bao gồm 5 thành phố lớn IRSAs, 17 địa phương IRSAs và 6
thị trấn nông thôn IRSAs). Sự phát triển của IRSAs nhằm cung cấp cơ hội việc làm và
cải thiện các tiện nghi sinh sống ngày càng bình đẳng trong cả nước. Làm tốt việc này
đã dẫn tới làm giảm một cách đáng kể về chênh lệch vùng và khuyến khích mọi người
sống ở các khu vực địa phương của họ. Nói cách khác, chiến lược phát triển các trung
tâm tăng trưởng đã được chấp nhận để quy định sự phát triển của IRSAs, Chính phủ
Hàn Quốc đã tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các đô thị, các khu công nghiệp,

các tuyến đường quan trọng, cảng biển, trên các vùng nên đã giảm được mức chênh
lệch vùng. Từ một trung tâm tăng trưởng đến nay đã có 4 trung tâm tăng trưởng với
mức đầu tư kết cấu hạ tầng từ 0,61% GDP năm 1900 lên 5,26% năm 1980 và 7,29%
GDP vào năm 1994.
4. Kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á qua chính sách xây dựng khu đô
thị mới và phát triển nông thôn.
Singapore, Thái Lan, Inđônêxia, Philippine đều coi trọng việc phát triển các đô
thị mới trên cơ sở phát triển các khu công nghiêp, các trung tâm thương mại, các khu du
lịch,
Chính phủ các nước được xem là thành công ở Đông Nam Á đã phát triển kết
cấu hạ tầng cứng ở nông thôn (đường sá, cầu cống, điện lực, nước và công trình vệ sinh)
trong những năm đầu của quá trình biến đổi nông thôn. Hình thành những mối liên hệ
thành thị - nông thôn rộng lớn hơn và thực hiện công nghiệp hoá nông thôn mạnh hơn.
Chính phủ cung cấp các dịch vụ cơ bản không mất tiền hoặc được trợ cấp rất nhiều, số
việc làm phi nông nghiệp cho người nghèo đã gia tăng mạnh mẽ. Kết quả là các nước
Đông Nam Á không những đạt được thành tựu tăng trưởng nhanh và bền vững trong
khoảng 30 năm qua, mà còn giảm bớt đói nghèo một cách nhanh chóng (ví dụ ở
Indonesia từ 1976-1987, số dân nghèo đã giảm từ 40% xuống 17%).
IV. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC LÃNH THỔ Ở VIỆT NAM
Công tác phân vùng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm. Có thể nói công tác phân vùng quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, trong đó nổi bật
nhất là tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.
Quá trình nghiên cứu phân vùng quy hoạch phát triển và tổ chức lãnh thổ kinh tế
- xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn và sau mỗi giai đoạn đều có bước phát triển mới,
trình độ ngày càng được nâng cao.
1. Giai đoạn 1960-1975
Việc nghiên cứu và phân chia vùng trong giai đoạn này diễn ra chủ yếu trên lãnh
thổ miền Bắc Việt Nam (từ Vĩnh Linh trở ra) với tư tưởng chủ đạo là phục vụ phát triển
nông – lâm - ngư nghiệp. Do đó sản phẩm phân vùng lúc đó chủ yếu là các vùng nông

– lâm - ngư nghiệp. Giai đoạn này có thể chia làm 2 thời kỳ:
9
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
1.1.Thời kỳ 1960-1970: Công tác phân vùng qui hoạch trong thời kỳ này tập
trung chủ yếu các lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Lúc đó, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước phối
hợp với Bộ Nông nghiệp nghiên cứu phân vùng nông nghiệp ở miền Bắc, chia miền Bắc
thành 4 vùng nông nghiệp lớn: Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Khu Bốn cũ
(từ Thanh Hoá đến Vĩnh Linh). Tổng cục lâm nghiệp đã tổ chức điều tra rừng, xây dựng
tài liệu phân vùng lâm nghiệp để làm cơ sở phát triển ngành. Năm 1968, Uỷ ban xây
dựng cơ bản Nhà nước triển khai nghiên cứu qui hoạch các điểm xây dựng công nghiệp
toàn miền Bắc, một số khu vực tập trung công nghiệp ra đời: gang thép Thái nguyên,
hoá chất phân bón Việt Trì, than Quảng Ninh
1.2.Thời kỳ 1970-1975: Một số vùng kinh tế mới ở trung du miền núi được hình
thành gắn với các vùng chuyên canh cây nông nghiệp. Ngành lâm nghiệp qui hoạch một
số vùng chuyên môn hoá như vùng giấy sợi, vùng gỗ trụ mỏ Trong công nghiệp tiếp
tục nghiên cứu địa điểm bố trí các công trình lớn. Thời kỳ này cũng bắt đầu tiến hành
qui hoạch một số huyện, thị xã trọng điểm. Công tác qui hoạch trong thời kỳ 1970 -
1975 chủ yếu đáp ứng yêu cầu tổ chức lại sản xuất nông - lâm nghiệp trên các địa bàn
lãnh thổ. Qui mô các vùng được qui hoạch lớn hơn thời kỳ trước. Uỷ ban sông Hồng đã
đưa ra qui hoạch sử dụng tổng hợp nguồn nước trên cơ sở qui hoạch này, nhiều công
trình như thuỷ điện, hồ chứa, đập ngăn nước, công trình thuỷ lợi đã được xây dựng
không những phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp, mà còn cho nhiều mục tiêu kinh
tế - xã hội khác.
Thời kỳ này, những đề xuất về phát triển lãnh thổ, các vấn đề tổ chức lãnh thổ kinh
tế - xã hội liên ngành, liên vùng đã được chú ý cả về quan điểm, nội dung và phương
pháp tiếp cận.
2. Giai đoạn 1975-1980
Ngay sau khi đất nước thống nhất, một chương trình phân vùng qui hoạch đã
được triển khai trên phạm vi cả nước với qui mô lớn theo quan điểm tổng hợp, kết hợp
phát triển ngành gắn với lãnh thổ và được sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ. Đây là

giai đoạn phân vùng nông - lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, hải
sản. Để phục vụ cho công việc này, đất nước được phân chia thành 7 vùng nông nghiệp
lớn. Đó là Trung du và miền núi Bắc Bộ (10 tỉnh), Đồng bằng sông Hồng (6 tỉnh), Khu
4 cũ nay gọi Bắc Trung Bộ (3 tỉnh), Duyên hải Nam Trung Bộ (4 tỉnh); Tây Nguyên (3
tỉnh); Đông Nam Bộ (5 tỉnh, thành phố, đặc khu); Đồng bằng sông Cửu Long (9 tỉnh).
Hệ thống 7 vùng này là cơ sở cho việc phân vùng quy hoạch phát triển nông - lâm
nghiệp, hình thành các vùng chuyên môn hoá tập trung.
Sau phân vùng nông - lâm nghiệp, công tác phân bố công nghiệp cũng được triển
khai. Từ chỗ chủ yếu tìm địa điểm cho từng nhà máy, công trình riêng lẻ, đã bắt đầu
nghiên cứu bố trí một hệ thống các nhà máy, xí nghiệp có tính chất liên ngành, hỗ trợ
lẫn nhau, hình thành các cụm công nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phân vùng qui hoạch và tổ chức
không gian lãnh thổ, năm 1977 Uỷ ban phân vùng kinh tế trung ương đã được thành lập.
Vụ phân vùng qui hoạch của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước được tách ra và đổi tên thành
Viện phân vùng qui hoạch Trung ương và là cơ quan thường trực của Uỷ ban phân vùng
kinh tế trung ương. Đã hình thành hệ thống tổ chức của ngành từ trung ương đến các địa
10
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
phương. Uỷ ban phân vùng qui hoạch các tỉnh được thành lập, các Viện qui hoạch
ngành cũng được tăng cường và phát triển. Toàn bộ quá trình phân vùng qui hoạch
được tiến hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, của Uỷ ban nhân dân các cấp.
3. Giai đoạn 1980-1986
Theo quan điểm phát triển kinh tế tổng hợp, đồng bộ và cân đối, được sự giúp đỡ
của Liên Xô (cũ), năm 1982 lần đầu tiên chúng ta tiến hành nghiên cứu xây dựng “Tổng
sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất giai đoạn 1986-2000”. Lãnh thổ Việt Nam được chia
thành 4 vùng kinh tế lớn (dựa trên những căn cứ nhất định) và các tiểu vùng. Bốn vùng
kinh tế lớn đó là: Vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và vùng Nam Bộ.
4. Giai đoạn từ 1986 đến nay
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình

đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho Uỷ ban kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ kế hoạch
và Đầu tư) có nhiệm vụ làm đầu mối, chủ trì phối hợp với các ngành Trung ương nghiên
cứu qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội 8 vùng lớn, 3 vùng kinh tế trọng điểm ở Bắc
Bộ, Nam Bộ và Trung Bộ; chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ tất cả các tỉnh, thành phố trong
cả nước xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. Yêu cầu
của công tác qui hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội cần được đổi mới về
nội dung và phương pháp. Viện Chiến lược phát triển đã xây dựng phưong pháp qui
hoạch vùng, kể cả vùng trọng điểm và phương pháp qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
tỉnh.
Hệ thống vùng trong giai đoạn này gồm có: 8 vùng lớn (vùng Đông Bắc, Tây
Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long) và ba vùng kinh tế trọng điểm (Bắc
Bộ, Nam Bộ và Miền Trung). Ngoài 2 cấp vùng quy hoạch trên, các tỉnh, huyện cũng
được xác định là cấp quy hoạch: 64 tỉnh đều có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2010. Nhiều huyện cũng đã được lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ chương trình khoa học cấp Nhà nước ( mã số
KX-03, đề tài KX-03-02) đã đề xuất chia lãnh thổ nước ta thành các dải lớn. Đó là:
+ Dải Đồng bằng ven biển (kể cả vùng biển và hải đảo quốc gia)
+ Dải Trung du và miền núi (dải này có thể chia thành hai là dải trung du và dải
miền núi).
Năm 1998 Chính phủ đã phê duyệt chương trình phát triển kinh tế -xã hội các xã
đặc biệt khó khăn ở miền núi và vùng sâu, vùng xa ( quyết định số 135/1998/QĐ-TTg
ngày 31/7/1998). Loại vùng khó khăn gồm 1715 xã của 46 tỉnh.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
11
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
1. Hiểu như thế nào là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ? Phân tích các
hình thức thể hiện của nó. Lấy ví dụ để minh họa.
2. Trình bày mối quan hệ giữa sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và
việc tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế.

3. Hãy bình luận khái quát các lý thuyết liên quan đến tổ chức lãnh thổ. Qua đó
vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.
4. Trình bày những nhận thức về tổ chức lãnh thổ ở Việt Nam.


12
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Chương II
TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP
I. QUAN NIỆM VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP
Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng, nhất là đối
với những quốc gia đang trong quá công nghiệp hóa, hiện đại hóa như nước ta có một ý
nghĩa cực kỳ to lớn để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế- xã hội
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản
xuất xã hội theo lãnh thổ. Vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học.
Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ công nghiệp” ngày càng được sử dụng rộng rãi
trong các tài liệu khoa học cũng như trong thực tiễn. Vậy quan niệm như thế nào là tổ
chức lãnh thổ công nghiệp?
Theo A.T.Khơrusôv (1979) cho rằng: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp được hiểu là
hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ
khác nhau trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao
động cũng như tiết kiệm chi phí để khắc phục sự không phù hợp đã xuất hiện trong lịch
sử về việc phân bố các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, nơi sản xuất và nơi tiêu
thụ sản phẩm, góp phần đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp không phải là hiện tượng địa lý bất di, bất dịch, mà
chúng có thể thay đổi. So với nông nghiệp, sự thay đổi của tổ chức lãnh thổ công nghiệp
nhanh chóng hơn nhiều, bởi vì, công nghiệp là lĩnh vực rất nhạy cảm với sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ và nhu cầu luôn thay đổi của thị trường. Do đó, trong thời đại
ngày nay tổ chức lãnh thổ công nghiệp muốn tồn tại và phát huy tác dụng thì không thể

sơ cứng và chậm biến đổi, mặc dù về mặt lý thuyết, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có các
kiểu tổ chức lãnh thổ công nghiệp tương ứng.
Đối với nước ta tổ chức lãnh thổ công nghiệp được coi là việc bố trí hợp lý các
cơ sở sản xuất công nghiệp, các cơ sở phục vụ cho hoạt động công nghiệp, các điểm dân
cư, cũng như kết cấu hạ tầng trên phạm vi một lãnh thổ nhất định, nhằm sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài của lãnh thổ đó.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp mang một số đặc điểm sau đây:
1. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là sự gắn bó chặt chẽ giữa khía cạnh ngành và
khía cạnh lãnh thổ.
Trong tổ chức lãnh thổ công nghiệp, ngành và lãnh thổ có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Bởi vì:
13
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Nếu thiếu tri thức về những đặc trưng kinh tế - kỹ thuật và đặc điểm phân bố
của từng ngành thì không thể hiểu đúng đắn, dù chỉ một kết hợp không gian của các xí
nghiệp ở bất kỳ hình thức nào. Như vậy, cần phải đi từ các ngành đến các kết hợp sản
xuất lãnh thổ.
- Đến lượt mình mỗi ngành lại được xem xét dưới góc độ của tất cả các ngành
công nghiệp ( và của cả nền kinh tế nói chung) và thông qua sự kết hợp của các ngành
khác nhau trên cùng một lãnh thổ.
Hơn nữa, khi xác định đặc điểm của từng ngành công nghiệp, thường nổi lên một
số vấn đề quan trọng sau:
+ Vai trò của ngành trong nền kinh tế và trong sự phân công lao động theo lãnh
thổ của vùng hoặc cả nước;
+ Các mối liên hệ qua lại của nó với các ngành khác;
+ Các đặc điểm về chuyên môn hóa, về cấu trúc và tổ chức sản xuất lãnh thổ;
+ Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - kỹ thuật và hiệu quả của sản xuất;
+ Phân vùng sản xuất và việc phân chia các khu vực tiêu thụ sản phẩm;
+ Các xu hướng thay đổi về mặt lãnh thổ.

Tất nhiên, chỉ nghiên cứu các ngành thuần túy thì chưa thể coi là đầy đủ. Song
nếu không vạch ra được đặc điểm của chúng, thì rõ ràng khó có được những kết luận
đúng đắn về các quy luật phát sinh và phát triển của các kết hợp sản xuất lãnh thổ.
Như vậy, khi đề cập đến khái niệm tổ chức lãnh thổ công nghiệp tất yếu phải
nghiên cứu mối quan hệ giữa các ngành với các kết hợp sản xuất lãnh thổ, đây là vấn đề
mang tính nguyên tắc.
2. Dấu hiệu cấu trúc có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức lãnh thổ công
nghiệp
Dấu hiệu cấu trúc phản ánh tính cân đối và mối liên hệ bên trong của ngành công
nghiệp và của các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Có thể hiểu công nghiệp như một tòa nhà
đồ sộ, trong đó cấu kiện theo chiều thẳng đứng của nó giống như các mối liên hệ trong
phạm vi một ngành (hoặc giữa các phân ngành giống nhau), cấu kiện theo chiều ngang
tương tự như các mối liên hệ liên ngành (hoặc các phân ngành khác nhau)
Riêng đối với các kết hợp sản xuất lãnh thổ, sự đa dạng, sự phức tạp của các mối
liên hệ không phải là như nhau. Các kết hợp sản xuất lãnh thổ càng phức tạp bao nhiêu
thì các mối liên hệ bên trong của chúng càng đa dạng bấy nhiêu.
3. Chiều sâu của việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp phù hợp với trình độ phát triển
của nền sản xuất.
Trình độ phát triển công nghiệp thể hiện ở quy mô và hiệu quả sản xuất cần đạt
được trong một thời điểm nào đó. Vấn đề là ở chỗ khối lượng và hiệu quả của nó phụ
thuộc nhiều vào độ lớn và thành phần của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất,
lao động, vào trình độ và cả việc sử dụng chúng một cách hợp lý nhất. Về phía mình,
trình độü phát triển sản xuất cũng ảnh hưởng lại tới cấu trúc và việc tổ chức lãnh thổ
công nghiệp.
14
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
4. Tiêu chuẩn tối ưu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp là việc giảm chi phí tới mức
thấp nhất trong sản xuất, nhằm đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội và môi
trường.
III. NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG

NGHIỆP
1. Nội dung:
Từ những đặc điểm nêu trên, khái quát chung, nội dung của tổ chức lãnh thổ
công nghiệp bao gồm các vấn đề chính sau đây:
- Các điều kiện hình thành và phát triển của ngành công nghiệp và các kết hợp
sản xuất lãnh thổ;
- Cơ cấu và phân bố của các ngành công nghiệp và các kết hợp sản xuất lãnh thổ;
- Hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất
lãnh thổ;
- Khả năng điều khiển của các hệ thống không gian trong các ngành và các kết
hợp sản xuất lãnh thổ.
2. Yêu cầu:
- Sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn lực của lãnh thổ (điều kiện tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội)
- Giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan, nhất là vấn đề việc làm cho
người lao động
- Giảm thiểu sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa phương trong lãnh
thổ nghiên cứu nói riêng và giữa các vùng trong phạm vi cả nước nói chung.
- Bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, môi trường nhằm đảm bảo cho việc phát triển bền
vững; kết hợp phát triển công nghiệp với an ninh quốc phòng
- Dự báo để có chiến lược phát triển kinh tế -xã hội thích hợp
IV. CÁC NGUỒN LỰC ẢNH HƯỞNG TỚI TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG
NGHIỆP
1.Nguồn lực bên trong
1.1. Nguồn lực tự nhiên
- Khoáng sản là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến việc tổ chức
lãnh thổ công nghiệp. Số lượng, trữ lượng, chất lượng và sự kết hợp các loại khoáng
sản theo lãnh thổ sẽ chi phối quy mô, cơ cấu và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp trên
lãnh thổ.
- Nguồn nước có ý nghĩa to lớn đối với các ngành sản xuất công nghiệp. Do đó

khi lựa chọn lãnh thổ để phân bố các xí nghiệp và hình thành các hình thức tổ chức lãnh
thổ công nghiệp cần phải đặc biệt chú ý đến nguồn nước. Ở khu vực vên biển hay vùng
gò đồi, trong nhiều trường hợp, yếu tố nguồn nước quyết định sự phân bố và tổ chức
lãnh thổ công nghiệp. Mức độ thuận lợi (hay khó khăn) về nguồn cung cấp nước hoặc
thoát nước là điều kiệm quan trọng để định vị các xí nghiệp công nghiệp.
15
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Khí hậu cũng có ảnh hưởng nhất định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Trong
một số trường hợp, nó chi phối đến việc lựa chọn kỹ thuật và công nghệ sản xuất , nhất
là đối với vùng ven biển dễ bị nhiễm mặn do độ ẩm của không khí. Ngoài ra, khí hậu đa
dạng, phức tạp cũng làm xuất hiện những tập đoàn cây trồng, vật nuôi đặc thù. Đó là cơ
sở để phát triển các ngành công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm.
- Ngoài các yếu tố tự nhiên nói trên, còn có một số yếu tố tự nhiên khác tác động
đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp như: vị trí địa lý, đất đai (với tư cách là nơi phân bố
công nghiệp, nhất là về địa chất công trình), tài nguyên sinh vật, biển
1.2. Nguồn lực kinh tế -xã hội:
- Dân cư và nguồn lao động:
Dân cư với những tập quán sản xuất, tiêu dùng và nguồn lao động (số lượng, chất
lượng) có ảnh hưởng lớn đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
+ Thị trường tiêu thụ gắn với số dân có thể coi là một nguồn lực quan trọng.
+ Ở nơi nào có nguồn lao động dồi dào thì ở nơi đó có khả năng để phân bố và
phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Những nơi có đội ngũ lao
động lành nghề cho phép phát triển các ngành công nghiệp đòi hỏi tay nghề cao và sản
xuất ra các sản phẩm chứa đựng hàm lượng kỹ thuật lớn. Còn ở những nơi mà nguồn
lao động có nhiều ngành nghề truyền thống, thì có thể phát triển các ngành nghề này
nhằm thu hút lao động và tạo ra sản phẩm độc đáo mang bản sắc dân tộc
+ Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, tập quán tiêu dùng có thể thay đổi
và kéo theo nó là sự biến đổi về hướng và quy mô chuyên môn hóa của các ngành cũng
như các xí nghiệp công nghiệp. Từ đó, dẫn đến sự mở rộng hay thu hẹp không gian
công nghiệp.

- Các trung tâm kinh tế và mạng lưới đô thị luôn có những điều kiện thuận lợi
cho sự ra đời và phát triển một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Bởi vì, nơi
đây thường hội tụ những thế mạnh về kết cấu hạ tầng, nguồn lao động với chất lượng
cao và thị trường tiêu thụ rộng lớn với sự đa dạng về thị hiếu tiêu dùng.
- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công nghiệp có ảnh hưởng
nhất định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó có thể là tiền đề thuận lợi hay cản trở sự
phát triển công nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng.
Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác như: chiến lược và đường lối chính sách của
mỗi quốc gia đối với sự phát triển công nghiệp, vốn đầu tư cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến phát triển công nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng.
2. Nguồn lực bên ngoài:
Các nguồn lực bên ngoài ở đây là những nguồn lực bên ngoài lãnh thổ công
nghiệp (các vùng khác trong nước hay từ nước ngoài). Trong một số trường hợp các
nguồn lực bên ngoài chi phối mạnh mẽ và thậm chí có thể có ý nghĩa quyết định đối với
tổ chức lãnh thổ công nghiệp của một vùng nào đó.
- Thị trường bên ngoài: Có tác động mạnh mẽ tới quá trình lựa chọn vị trí xí
nghiệp, hướng chuyên môn hóa sản xuất và chi phối trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ công
nghiệp. Ở trong nước, các đô thị lớn ngoài chức năng trung tâm - hạt nhân công nghiệp,
16
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
còn là thị trường quan trọng khuyến khích sự phát triển của sản xuất. Thị trường quốc tế
cũng có vai trò đặc biệt. Sự phát triển công nghiệp của bất kỳ một quốc gia nào cũng
đều nhằm thỏa mãn nhu cầu trong nước và hội nhập với thị trường thế giới. Vì vậy, thị
trường này chắc chắn có tác động nhất định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
- Mối quan hệ hợp tác liên vùng và quốc tế có vai trò đáng kể đối với việc tổ
chức lãnh thổ công nghiệp. Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa nền
kinh tế thế giới cùng với những tiến bộ và sự phát triểnü như vũ bão của khoa học - kỹ
thuật, vấn đề hợp tác quốc tế là một xu thế tất yếu, đem lại lợi ích cho các bên đối tác.
Đối với các nước, các vùng chậm phát triển, để giảm khoảng cách về trình độ phát triển
và tránh được tụt hậu, không thể không quan tâm đến sự hợp tác quốc tế và liên vùng.

Hợp tác quốc tế và liên vùng được thể hiện qua một số lĩnh vực chủ yếu sau đây:
+ Hỗ trợ vốn đầu tư từ các nước, các vùng phát triển cho các nước, các vùng
chậm phát triển. Quá trình hợp tác đầu tư làm xuất hiện ở các nước, các vùng chậm phát
triểnmột số ngành công nghiệp mới, các khu vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất và
mở mang các ngành nghề truyền thống. Điều đó dẫn đến sự thay đổi tổ chức lãnh thổ
công nghiệp theo cả hai chiều: tích cực và tiêu cực.
+ Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cũng là một trong những hướng quan trọng
của sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại có ý nghĩa quyết định
đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Trước hết, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, phương
hướng sản xuất và sau đó là việc phân bố sản xuất, các hình thức tổ chức lãnh thổ cũng
như bộ mặt kinh tế - xã hội của cả vùng (hay quốc gia).
+ Chuyển giao kinh nghiệm tổ chức quản lý đến các nước, các vùng chậm phát
triển đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Kinh nghiệm quản trị giỏi không chỉ giúp từng
xí nghiệp làm ăn phát đạt, mà còn mở ra cơ hội cho họ hợp tác chặt chẽ với nhau, tạo
thành sự liên kết bền chặt trong một hệ thống sản xuất kinh doanh thống nhất. Chính sự
liên kết đó là tiền đề để hình thành các không gian công nghiệp cũng như các hình thức
tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
+ Sự hỗ trợ từ bên ngoài về năng lượng, nguyên vật liệu cũng hết sức quan
trọng. Đối với các vùng thiếu năng lượng, nguyên vật liệu, sự hỗ trợ từ bên ngoài rõ
ràng là không thể thiếu được. Sự hỗ trợ này sẽ tác động đến quá trình phát triển và tiếp
theo là đến việc tổ chức lãnh thổ nền kinh tế của vùng nói chung và tổ chức lãnh thổ
công nghiệp nói riêng.
V. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP
1. Tổng quan chung về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp rất đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên, giữa các nước có sự khác nhau khá xa về lý luận và thực tiễn:
1.1. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Liên Xô và Đông Âu trước đây:
Mặc dù còn có những điểm chưa thống nhất, nhưng về cơ bản, có thể nêu lên các
hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp chủ yếu sau đây:
1.1.1. Điểm công nghiệp

17
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Đây là hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đơn giản nhất, có thể được hiểu là
lãnh thổ (thị trấn, thị tứ, trung tâm cụm xã) trên đó có một điểm dân cư với một xí
nghiệp công nghiệp. Ở đây không có mối liên hệ sản xuất, bởi vì trên lãnh thổ chỉ có
một xí nghiệp công nghiệp duy nhất. Mỗi một điểm công nghiệp có kết cấu hạ tầng sản
xuất và xã hội với ý nghĩa nhất định; có quá trình phát sinh, phát triển và cấu trúc sản
xuất riêng.
Trong quá trình phát triển, thông qua sự gắn bó về mặt lãnh thổ và mạng lưới
giao thông, việc sử dụng các điều kiện hiện có và các điều kiện tiềm năng trong hạt
nhân công nghiệp sẽ đầy đủ và hợp lý hơn. Ở đây, đôi khi diễn ra cả quá trình liên kết,
từ đó dẫn đến chuyển hóa nó sang hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cao hơn.
1.1.2. Cụm công nghiệp
Đây là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp phức tạp, vì vậy còn có sự
chưa thống nhất về quan niệm. Tuy nhiên về cơ bản, để xác định cụm công nghiệp cần
căn cứ ít nhất vào 2 dấu hiệu quan trọng sau đây:
- Sự thống nhất và liên hệ chặt chẽ giữa các xí nghiệp, các điểm dân cư, mạng
lưới giao thông trên một lãnh thổ nhất định. Nếu chỉ có riêng các xí nghiệp công
nghiệp tồn tại độc lập trên một lãnh thổ thì chưa nói đến cụm công nghiệp được. Giữa
sản xuất với quần cư, giao thông phải có sự thống nhất và liên hệ với nhau, mặc dù
mối liên hệ qua lại giữa các xí nghiệp công nghiệp giữ địa vị then chốt.
- Tính gọn của lãnh thổ (bao gồm cả lãnh thổ dự trữ cho việc phát triển của cụm
công nghiệp tương lai). Điều này nghĩa là phải có sự tập trung cao độ của sản xuất trên
một lãnh thổ, hoặc số vốn đầu tư lớn trên một đơn vị diện tích, sự tập trung của kết cấu
hạ tầng và sự thống nhất của các xí nghiệp trong quá trình sử dụng các nguồn năng
lượng - nguyên liệu, khả năng đi lại nhanh chóng từ nơi này đến nơi khác trong phạm vi
của cụm công nghiệp và mối liên hệ sản xuất giữa các xí nghiệp, nhất là việc cùng sử
dụng các dạng nguyên liệu nói chung và các phế liệu nói riêng.
Về quy mô của cụm công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước.
Nhưng khi xác định ranh giới, cần chú ý tới các mối liên hệ giữa các xí nghiệp ở khu

vực hạt nhân và ở các điểm vệ tinh, tới việc sử dụng nguồn lao động trong cụm và cả
hiệu quả của việc phân bố kết hợp các xí nghiệp công nghiệp.
Về việc phân kiểu các cụm công nghiệp, cần dựa vào những dấu hiệu nhất định.
Chẳng hạn như:
- Theo dấu hiệu hình thái (A. N.Kravchuc, 1972) có: cụm một trung tâm và cụm
nhiều trung tâm.
- Theo dấu hiệu chức năng và phát sinh (A.T.Khơrutxov, 1979) có:
+ Theo chức năng, có cụm công nghiệp khai thác, cụm công nghiệp chế biến,
cụm công nghiệp hỗn hợp (cả khai thác và chế biến)
+ Theo mức độ phát triển: có cụm công nghiệp đã hình thành, cụm mới hình
thành, cụm đang hình thành
+ Theo khối lượng sản phẩm: có cụm công nghiệp cực lớn, cụm lớn, cụm tương
đối lớn
18
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
+ Theo điều kiện hình thành: có cụm công nghiệp dựa vào nguồn nguyên, nhiên
liệu, năng lượng; cụm dựa vào việc đảm bảo nguồn lao động và ưu thế về vị trí địa lý
giao thông; cụm dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động.
1.1.3. Trung tâm công nghiệp
Trung tâm công nghiệp là hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở trình độ cao
hơn điểm công nghiệp. Trong điều kiện thuận lợi, các điểm công nghiệp có những biến
đổi về chất và chuyển dần thành một kết hợp sản xuất lãnh thổ khác. Đó là trung tâm
công nghiệp.
Theo nhiều tác giả, trong đó đại diện là X.Xlavev (1977) cho rằng trung tâm
công nghiệp thường là một điểm dân cư tương đối lớn (thành phố), trên đó tập trung các
xí nghiệp của một số ngành công nghiệp.
Với cách hiểu trên, trung tâm công nghiệp được đặc trưng bởi hai dấu hiệu cơ
bản:
- Dấu hiệu về chất thể hiện ở trình độ cao về cường độ và phạm vi của các mối
liên hệ sản xuất - kỹ thuật, kinh tế và quy trình công nghệ. Đây có thể coi là dấu hiệu cơ

bản nhất.
- Dấu hiệu thống nhất về mặt lãnh thổ: Đây là dấu hiệu mang tính chất thứ yếu và
chỉ có ý nghĩa tương đối.
Như vậy, trung tâm công nghiệp được hiểu là toàn bộ sự kết hợp các điểm (và
hạt nhân) công nghiệp có mối liên hệ và được hình thành một cách khách quan trên
phạm vi một lãnh thổ nhất định với các điều kiện tự nhiên, kinh tế và vị trí địa lý riêng
của nó.
Đối với việc hình thành trung tâm công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp có vai
trò hàng đầu. Các xí nghiệp này bao gồm:
- Nhóm xí nghiệp nòng cốt là bộ khung của trung tâm công nghiệp, thường là
một số xí nghiệp lớn và cũng có thể là một xí nghiệp liên hợp. Hướng chuyên môn hóa
của trung tâm công nghiệp là do nhóm xí nghiệp này quyết định.
- Nhóm các xí nghiệp bổ trợ: Nhóm này gắn liền và có mối liên hệ với nhóm xí
nghiệp nòng cốt, nhưng đó không phải là mối liên hệ chặt chẽ về kỹ thuật - công nghệ.
Nhìn chung, các xí nghiệp bổ trợ được chia thành 3 nhóm:
+ Nhóm 1 chủ yếu sử dụng các thành phẩm hoặc phế thải của xí nghiệp nòng cốt
+ Nhóm 2 cung cấp tư liệu sản xuất và bổ trợ cho nhóm 1
+ Nhóm 3 đảm bảo nhu cầu cho dân cư
Ngoài ra, còn có các xí nghiệp (không thuộc ngành công nghiệp) đáp ứng nhu
cầu của trung tâm công nghiệp (xí nghiệp nông nghiệp ngoại thành cung cấp thực phẩm
tươi sống, vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc ) và các cơ sở thuộc lĩnh vực phi sản
xuất vật chất (chợ, bệnh viện, trường học )
Các trung tâm công nghiệp có quá trình hình thành và phát triển riêng. Do sự
khác biệt về các đặc trưng định lượng và về mối liên hệ sản xuất - lãnh thổ của các xí
nghiệp, có thể phân các trung tâm công nghiệp thành ba cấp:
19
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Trung tâm công nghiệp cấp I với đặc trưng là sự có mặt thường xuyên của các
mối liên hệ sản xuất, kỹ thuật với cường độ mạnh. Ở đây đã hình thành các chu trình
sản xuất nhất định. Chuyên môn hóa sản xuất của trung tâm thường là những xí nghiệp

nòng cốt quyết định.
- Trung tâm công nghiệp cấp II, các mối liên hệ diễn ra tương đối mạnh và phần
lớn mang tính chất kỹ thuật, công nghệ
- Trung tâm công nghiệp cấp III, nét tiêu biểu là các mối liên hệ tuy có nhưng
thiếu sự ổn định, theo hướng sản xuất và theo thời gian.
1.1.4. Khu công nghiệp
Khu công nghiệp là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp, nhưng giữa các
nhà địa lý Xô Viết chưa có sự thống nhất về nội dung và những đặc trưng chủ yếu.
- Các nhà khoa học của trường Đại học Tổng hợp Matxcơva đưa ra một số quan
niệm sau:
+ Khu công nghiệp là sự kết hợp theo lãnh thổ của những điểm công nghiệp ở
gần nhau được quy tụ về một hay một vài trung tâm công nghiệp và bị chi phối bởi các
nhân tố phân bố công nghiệp đồng nhất.
+ Khu công nghiệp là sự tập hợp theo lãnh thổ của những điểm công nghiệp, tạo
thành sự thống nhất kinh tế với nền tảng là các ngành công nghiệp lớn có ý nghĩa toàn
quốc và các ngành phục vụ có liên quan.
+ Hoặc khu công nghiệp là một đối tượng sản xuất phức tạp kết hợp hàng loạt
nhân tố kinh tế, xã hội, tự nhiên có quan hệ với nhau, nhưng khác nhau về loại hình và
mục đích.
Nhìn chung, các quan niệm trên đưa ra không thật rõ ràng và cụ thể còn mang
tính chất chung chung.
- Một số nhà khoa học thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô trước đây đưa ra
quan niệm về khu công nghiệp tương đối rõ hơn: Khu công nghiệp bao gồm một nhóm
trung tâm công nghiệp phân bố gần nhau và kết hợp với nhau bằng việc cùng chung
chuyên môn hóa, mạng lưới vận tải thống nhất và những mối liên hệ sản xuất chặt chẽ.
Với quan niệm trên, để xác định một khu công nghiệp có 3 tiêu chuẩn sau:
+ Khu công nghiệp phải bao gồm một số trung tâm công nghiệp
+ Các trung tâm công nghiệp phải phân bố gần nhau và gắn bó với nhau trên cơ
sở cùng hướng chuyên môn hóa
+ Có mạng lưới vận tải thống nhất và các mối liên hệ sản xuất chặt chẽ. Các mối

liên hệ kinh tế - sản xuất giữa các trung tâm tạo thành một khu công nghiệp bao gồm:
* Liên hệ trực tiếp về mặt phối hợp sản xuất, cùng tham gia vào quá trình tạo ra
một loại sản phẩm, hoặc về mặt chế biến phế liệu của nhau
* Liên hệ gián tiếp về mặt sử dụng chung một nguồn nguyên liệu, nhiên liệu,
động lực, mạng lưới vận tải
1.1.5. Thể tổng hợp công nghiệp
20
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Theo các nhà khoa học địa lý Xô Viết, thể tổng hợp công nghiệp là một hình
thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp có sự kết hợp sản xuất lãnh thổ mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Tuy nhiên, về bản chất, dấu hiệu và cả vai trò tạo vùng của các thể tổng hợp
công nghiệp vẫn có những quan niệm khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có một số dấu hiệu
chung cho thể tổng hợp công nghiệp. Đó là:
- Sự thống nhất và tác động qua lại của các xí nghiệp công nghiệp
- Sự gắn bó của các xí nghiệp công nghiệp với một lãnh thổ nhất định
- Sự phù hợp của kết hợp sản xuất lãnh thổ nói chung và của các xí nghiệp nói
riêng với các nguồn lực địa phương
- Hiệu quả có thể đạt được nhờ sự cân đối của cấu trúc và sử dụng hợp lý không
gian công nghiệp.
Từ những dấu hiệu trên, A.T. Khơrutsov cho rằng: Thể tổng hợp công nghiệp là
sự kết hợp qua lại của các xí nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau trên một lãnh thổ
nhất định, phù hợp với các đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên, kinh tế và vị trí địa lý
giao thông, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Về mặt liên kết, trong thể tổng hợp công nghiệp có các mối liên hệ bên trong và
bên ngoài. Các mối liên hệ bên trong phản ánh sự khác biệt của lãnh thổ về các điều
kiện tự nhiên, kinh tế và đặc điểm cấu trúc sản xuất. Các mối liên hệ bên ngoài quyết
định sự chuyên môn hóa sản xuất, tức là xác định vai trò của từng thể tổng hợp công
nghiệp trong hệ thống phân công lao động theo lãnh thổ.
Trong số các mối liên hệ ( cả bên trong và bên ngoài) nói trên, thì mối liên hệ sản
xuất và sản xuất - kỹ thuật giữ địa vị quan trọng nhất. Chúng có thể là các mối liên hệ

dọc và cũng có thể là các mối liên hệ ngang.
Cùng với việc phát triển liên hợp hóa và hợp tác hóa, cấu trúc của các thể tổng
hợp công nghiệp cũng có sự thay đổi, có thể chia chúng thành 3 nhóm chính:
- Nhóm các thể tổng hợp chủ yếu gồm các nhà máy liên hợp, thường gặp
các kết hợp xí nghiệp thuộc công nghiệp hóa chất, luyện kim đen và màu
- Nhóm các thể tổng hợp chủ yếu gồm các xí nghiệp chuyên môn hóa, thường
gặp ở các ngành công nghiệp chế tạo máy
- Nhóm các thể tổng hợp gồm các nhà máy liên hợp với các xí nghiệp chuyên
môn hóa có đặc điểm không phải tất cả các sản phẩm do nhà máy liên hợp sản xuất ra
đều được chế biến tại chỗ. Thông thường, các sản phẩm đó lại tham gia vào quá trình
hợp tác tiếp theo tại các xí nghiệp chuyên môn hóa.
Về mặt lãnh thổ, bất cứ thể tổng hợp công nghiệp nào cũng phải đáp ứng được
yêu cầu phân bố hợp lý nhất các xí nghiệp, trước hết là đảm bảo sự gần gũi của các xí
nghiệp có liên quan với nhau. Điều đó cho phép không chỉ sử dụng có hiệu quả hơn các
cơ sở dịch vụ chung, mà còn giảm bớt chi phí sản xuất khi chuyển từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác của quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, khả năng phân bố kết hợp các xí nghiệp công nghiệp không phải là vô
tận. Sự tập trung quá mức các xí nghiệp đôi khi có thể dẫn tới những hậu quả xấu.
21
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Các thể tổng hợp công nghiệp rất đa dạng. Chúng có sự khác nhau về điều kiện
hình thành, về quy mô chuyên môn hóa và cấu trúc sản xuất, về trình độ phát triển và
đặc điểm tổ chức lãnh thổ. Do đó, để có thể phân loại các thể tổng hợp công nghiệp,
thông thường người ta dựa vào đặc điểm chuyên môn hóa và cấu trúc sản xuất.
1.1.6. Vùng công nghiệp
Vùng công nghiệp là hình thức cao nhất của tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Khái
quát chung, quá trình tạo vùng được thể hiện ở 2 khía cạnh:
- Có sự tách biệt của các ngành về mặt lãnh thổ
- Có sự tác động qua lại của các xí nghiệp thuộc hàng loạt ngành công nghiệp
khác nhau.

Từ cách hiểu trên, các nhà khoa học thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô
trước đây đưa ra định nghĩa: vùng công nghiệp bao gồm một lãnh thổ rộng lớn tập trung
các xí nghiệp công nghiệp trên cơ sở các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực,
nguyên nhiên liệu, động lực với một số đặc trưng sau đây:
- Có không gian rộng lớn. Ở đây có thể gồm nhiều khu công nghiệp, trung tâm
công nghiệp, cụm công nghiệp độc lập
- Có một số nhân tố đồng nhất trong quá trình hình thành vùng công nghiệp, bao
gồm:
+ Sử dụng chung một (hoặc một vài) loại tài nguyên, tạo nên tính chất
tương đối giống nhau của các ngành công nghiệp
+ Cùng có vị trí địa lý thuận lợi
+ Sử dụng nhiều lao động, gắn với các khu vực tập trung dân cư, đồng thời cũng
là vùng tiêu thụ
Như vậy, vùng công nghiệp là một khái niệm tương đối động. Việc xác định quy
mô và ranh giới của nó khá linh hoạt, tùy theo việc nhấn mạnh tính đồng nhất nào đó
trong quá trình hình thành.
Về nguyên tắc, có thể phân biệt vùng công nghiệp ngành và vùng công nghiệp
tổng hợp:
- Các vùng công nghiệp ngành là tập hợp về lãnh thổ của các xí nghiệp cùng loại,
thường gặp là vùng khai thác than, dầu khí, hoặc vùng luyện kim, hóa chất
- Vùng công nghiệp tổng hợp là một kết hợp sản xuất lãnh thổ, ra đời trên cơ sở
các thể tổng hợp hoặc các nhóm ngành công nghiệp hay cả hai hình thức này, với
chuyên môn hóa và cấu trúc sản xuất rõ rệt.
Các vùng công nghiệp có sự khác nhau bởi nhiều tiêu chí như: quy mô sản xuất
và lãnh thổ, thời gian và điều kiện hình thành, chuyên môn hóa và cấu trúc sản xuất, các
mối liên hệ nội và ngoại vùng, các yếu tố tạo vùng Kết hợp các tiêu chí này có thể chia
thành 3 nhóm vùng công nghiệp:
- Nhóm vùng phát triển trên cơ sở công nghiệp khai thác, thường ra đời ở các
lãnh thổ mới được khai phá;
22

Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
- Nhóm vùng phát triển trên cơ sở công nghiệp chế biến, thường ở các lãnh thổ
có nền công nghiệp hình thành từ lâu;
- Nhóm vùng phát triển trên cơ sở các công trình lớn về năng lượng và kinh tế
nước như: nhà máy thủy điện, kênh đào, hồ chứa nước lớn.
1.2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở phương Tây
Khác với các trường phái trên, các nhà khoa học phương Tây không đưa ra
những định nghĩa có tính chất hàn lâm, mà đi thẳng vào một số hình thức tổ chức lãnh
thổ công nghiệp gắn với thực tiễn và nhấn mạnh nhiều đến quan niệm, nội dung cũng
như quá trình hình thành khu công nghiệp.
2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam
2.1. Lược sử nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam
- Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng hàng đầu của nước ta. Trong quá trình
phát triển, các xí nghiệp công nghiệp xuất hiện ở những địa điểm khác nhau, tùy thuộc
vào các điều kiện cụ thể. Việc hình thành và sắp xếp toàn bộ các cơ sở công nghiệp một
cách tự giác hay tự phát trên phạm vi cả nước tạo nên sự phân hóa lãnh thổ công nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phân hóa lãnh thổ công
nghiệp, nhằm đảm bảo hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường, góp phần thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trước thập kỷ 90 của thế kỷ XX ở nước ta hầu như chưa có công trình nào
nghiên cứu về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
- Năm 1994, lần đầu tiên một cơ quan chức năng của Nhà nước (Viện chiến lược
phát triển thuộc bộ Kế hoạch và Đầu tư) nghiên cứu và đưa ra 6 hình thức tổ chức lãnh
thổ công nghiệp và vận dụng chúng vào thực tiễn phát triển công nghiệp của đất nước.
Đó là:
+ Điểm công nghiệp
+ Cụm công nghiệp
+ Khu công nghiệp
+ Trung tâm công nghiệp
+ Dải công nghiệp

+ Địa bàn công nghiệp trọng điểm
Về vấn đề này có thể còn có những ý kiến trao đổi khác nhau, song một số nội
dung và hình thức cơ bản đã được định hình và đi vào thực tiễn tổ chức lãnh thổ công
nghiệp Việt Nam.
2.2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam
Theo đề tài “ Xây dựng các mô hình khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam trong
giai đoạn 1994 - 2010” của Viện chiến lược phát triển (1995), thì 6 hình thức tổ chức
lãnh thổ công nghiệp bao gồm:
2.2.1. Điểm công nghiệp
23
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
Điểm công nghiệp thường là một xí nghiệp phân bố đơn lẻ (hoặc hai), có kết cấu
hạ tầng riêng. Nó được phân bố ở những nơi gần nguồn nguyên, nhiên liệu hay trung
tâm tiêu thụ, nhưng chưa có điều kiện để tạo nên các hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp ở cấp cao hơn.
Điểm công nghiệp theo kiểu đơn lẻ này có những ưu điểm và nhược điểm nhất
định:
- Về ưu điểm:
+ Nó tương đối thuận lợi cho việc thay đổi mặt hàng trong quá trình sản xuất
kinh doanh;
+ Nó có tính cơ động, dễ ứng phó với các sự cố và thay đổi trang thiết bị;
+ Nó không bị ràng buộc và ảnh hưởng đến các xí nghiệp khác.
- Về nhược điểm:
+ Việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng khá tốn kém;
+ Các chất phế thải bị lãng phí do không tận dụng được;
+ Các mối liên hệ (sản xuất, kinh doanh, kỹ thuật ) với các xí nghiệp khác hầu
như không có. Do đó, giá thành và chất lượng sản phẩm bị hạn chế.
2.2.2. Cụm công nghiệp
So với điểm công nghiệp, số lượng các xí nghiệp của cụm công nghiệp nhiều
hơn, nhưng cũng chỉ vài ba xí nghiệp và được phân bố trên một khu vực nhỏ. Về

phương diện địa lý, nó không có ranh giới rõ ràng và về phương diện tổ chức không có
Ban quản lý riêng. Nó có những đặc điểm sau:
- Lãnh thổ nhỏ, với một vài xí nghiệp công nghiệp;
- Các mối liên hệ giữa các xí nghiệp đơn giản, thiếu chặt chẽ;
- Không có ranh giới rõ rệt và không có Ban quản lý chung.
Ở nước ta, cụm công nghiệp thường được phân bố ở các thị trấn, thị xã, dọc các
trục giao thông Trong quá trình phát triển, cụm công nghiệp có thể là hạt nhân để tạo
nên các khu công nghiệp.
2.2.3. Khu công nghiệp
Khu công nghiệp ở nước ta được nêu trong nghị định 192/CP ngày 25 - 12 - 1994
của Chính phủ: Khu công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh
giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản
xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống.
Từ quy định trên, có thể xác định khu công nghiệp là một khu vực có ranh giới rõ
rệt và có những thế mạnh về tự nhiên, kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng để thu hút đầu tư,
hoạt động với cơ cấu hợp lý, giữa các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ có liên
quan thuộc nhiều thành phần kinh tế nhằm đạt hiệu quả cao của từng doanh nghiệp nói
riêng và tổng thể các doanh nghiệp nói chung.
- Khu công nghiệp có một số đặc điểm chính sau đây:
24
Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế
+ Nơi tập trung tương đối nhiều xí nghiệp công nghiệp trên một khu vực có ranh
giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội.
+ Các xí nghiệp nằm trong khu công nghiệp được hưởng quy chế ưu đãi riêng,
khác với các xí nghiệp phân bố ngoài khu công nghiệp
+ Có Ban quản lý thống nhất để thực hiện quy chế quản lý
+ Có sự phân cấp về quản lý và tổ chức sản xuất. Về phía các xí nghiệp, khả
năng hợp tác sản xuất phụ thuộc vào việc tự liên kết với nhau của từng doanh nghiệp.
Việc quản lý nhà nước được thể hiện ở chỗ Nhà nước chỉ quy định những ngành (hay
loại xí nghiệp) được khuyến khích phát triển và những ngành (hay loại xí nghiệp)

không được đặt trong khu công nghiệp vì lý do môi trường sinh thái hoặc an ninh quốc
phòng.
- Các khu công nghiệp có sự khác nhau về tính chất và loại hình. Ví dụ như:
+ Có khu công nghiệp chỉ xoay quanh một loại nguyên liệu nhất định với chuyên
môn hóa thống nhất
+ Có khu công nghiệp tổng hợp với nhiều loại hình xí nghiệp khác nhau
+ Có khu công nghiệp lớn, trung bình, nhỏ
+ Có khu công nghiệp đã hình thành hay đang trong quá trình hình thành
Chính vì vậy đòi hỏi phải có sự phân loại các khu công nghiệp. Để phân loại các
khu công nghiệp, có thể dựa vào một số chỉ tiêu sau đây:
* Dựa vào chỉ tiêu vị trí địa lý, có thể phân ra:
+ Các khu công nghiệp nằm ở trung du hay miền núi
+ Các khu công nghiệp ven biển
+ Các khu công nghiệp dọc theo quốc lộ
+ Các khu công nghiệp nằm trong các thành phố
* Dựa vào tính chất chuyên môn hóa, cơ cấu và đặc điểm sản xuất, chia ra:
+ Các khu công nghiệp chuyên môn hóa (trên cơ sở xí nghiệp chuyên môn hóa
sử dụng một loại nguyên liệu cơ bản như: than, luyện kim, hóa chất)
+ Các khu công nghiệp tổng hợp (cơ cấu đa dạng với nhiều ngành sản xuất)
+ Các khu công nghiệp sản xuất chủ yếu để xuất khẩu (khu chế xuất)
* Dựa vào quy mô, tùy thuộc vào điều kiện đất đai, vị trí thuận lợi và sự hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư, có thể chia ra:
+ Các khu công nghiệp có quy mô lớn: khoảng trên 300 ha
+ Các khu công nghiệp có quy mô trung bình: từ 150 đến 300 ha
+ Các khu công nghiệp có quy mô nhỏ dưới 150 ha
* Dựa vào tính chất độc lập hay phụ thuộc (tương đối), chia ra:
+ Các khu công nghiệp nằm ngoài các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp
cao hơn nó
25

×