Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.84 KB, 28 trang )

Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
PHẦN I: MỞ ĐẦU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới. Khi toàn cầu hóa về
nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền
kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên
kết với các quốc gia khác để cùng phát triển. Đó là sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều
sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU,
AFTA và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu của
thơì đại. Cho dù đâu đó trên trái đất này vẫn diễn ra những cuộc biểu tình chống
toàn cầu hoá, nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò tích cực của nó trong
quá trình phát triển . Để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá các nước phải tích
cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Trong quá trình này các nước có nền
kinh tế phát triển vững mạnh sẽ chiếm ưu thế hơn , nhưng đây cũng chính là con
đường nhanh nhất , thuận lợi nhất để đưa các nước kém phát triển từng bước bắt
kịp với nền kinh tế thế giới . Một đất nước muốn phát triển kinh tế , thoát khỏi
tình trạng đói nghèo , tụt hậu so với thế giới thì không còn con đường nào khác
là phải chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới .
Ở Việt Nam từ những bài học qua những thành công cũng như những
thất bại của những nước xã hội chủ nghĩa đi trước và của chính mình , Đảng và
nhà nước ta cũng đã sáng suốt lựa chọn con đường mở cửa hội nhập cùng thế
giới , hợp tác và cùng phát triển . Chúng ta đang dần từng bước hội nhập vào
nền kinh tế thế giới để nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự đói nghèo và tụt hậu
với thế giới , nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế .
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Việt Nam là một nước xuất phát từ nông nghiệp, đi lên từ nông nghiệp và


cũng từ nông nghiệp mà trưởng thành. Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia
các tổ chức khu vực như ASEAN, AFTA, ASEM và mục tiêu gia nhập WTO
của chúng ta cuối cùng cũng đã được hoàn thành sau 11 năm phấn đấu. Trở
thành thành viên chính thức của WTO, cũng như các ngành khác, ngành nông
nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng quy chế đối xử bình đẳng của các Hiệp định,
từ đó mở ra nhiều cơ hội về mở cửa thị trường và đầu tư nước ngoài nhưng
đồng thời chúng ta cũng phải chịu áp lực trên cả thị trường trong lẫn ngoài nước
do phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế khi tính cạnh tranh của hàng nông sản
nước nhà còn rất thấp… Các cơ hội và thách thức này đã được chúng ta nghiên
cứu, thảo luận trong suốt 11 năm qua nên không còn mới mẻ.
Từ khi có Luật Doanh nghiệp, số lượng các doanh nghiệp mới thành
lập tăng khá nhanh. Nếu như năm 2001 nước ta có 51.680 doanh nghiệp
(trong đó doanh nghiệp nông nghiệp là 875) thì đến năm 2004 con số này đã
lên tới 91.755 doanh nghiệp (trong đó có 1015 doanh nghiệp trong nông
nghiệp). Các doanh nghiệp đã thu hút khoảng 5-6 triệu người lao động trên
phạm vi toàn quốc trong số đó gần 5% làm việc trong ngành nông nghiệp tức
hơn 22 vạn lao động (theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kế 2003-2005).
Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 1996-2004, dân số nông thôn giảm
khoảng 5% nhưng số lượng lao động nông nghiệp chỉ giảm ở mức 2%. Như
vậy, việc phát triển các ngành kinh tế khác như công nghiệp, dịch vụ cũng chưa
đáp ứng nhu cầu thu hút lực lượng lao động dư thừa trong nông thôn. Mặc khác
sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp có chiều hướng ngày càng hạn chế, không
chỉ do điều kiện sản xuất mà cả những yếu tố mang tính kinh tế xã hội như chi
phí cơ hội, lợi nhuận thấp, v.v Do vậy để đảm bảo cho việc tăng trưởng cao và
bền vững thì việc phát triển các doanh nghiệp trong nông nghiệp là một chiến
lược hết sức quan trọng. Điều này giải quyết không những các vấn đề của nông
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
thôn mà còn cả những vấn đề của thành thị như áp lực về di cư tự do, tệ nạn xã

hội…
Vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong nền nông nghiệp ngày
càng tăng lên đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Thông qua bài tiểu luận mang tên : “ Phân tích cơ hội và thách thức
của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi Việt Nam hội nhập kinh tế
thế giới” này, em mong có một cái nhìn tổng hợp nhất về quá trình hội nhập nền
kinh tế thế giới của Việt Nam, phân tích những cơ hội và thách thức của các
doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
PHẦN II
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
CỦA VIỆT NAM
Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
(HNKTQT) luôn luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp
là nền tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình HNKTQT trực tiếp tác động
đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội nhập hiện
nay của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong tương lai có ý
nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở để các doanh
nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động phù hợp với tình
hình đan xen giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự cạnh canh ngày
càng tăng từ nhiều phía và ngay cả trên thị trường trong nước.
Có thể nói HNKTQT của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự nghiệp
đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình từng bước
tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào
các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta
từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất
kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị

trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan
thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ,
nhân công… giữa Việt Nam và các nước được dễ dàng, phù hợp với những quy
định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới mà Việt Nam tham gia.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
2.1. Các bước đi trong quá trình hội nhập
Về các bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta,
chúng ta cần xem xét đến hai mặt.
Đối với bên ngoài: Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó
là:
- Năm 1993 đã khai thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB);
- Ngày 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO (cho đến nay, chúng ta đã tiến
hành được 10 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán với 20 đối tác
song phương.
- Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam đang bước vào giai
đoạn cuối cùng. Phiên đàm phán đa phương thứ 10 về việc Việt Nam gia nhập
WTO được tiến hành vào ngày 15/9, là phiên rất quan trọng và có ý nghĩa quyết
định đối với quá trình đàm phán của Việt Nam với các đối tác đa phương.
- Việc đạt được thỏa thuận sớm với EU, một đối tác thương mại lớn có 25
nước thành viên, đã có tác động tích cực đối với quá trình đàm phán của Việt
Nam);
- Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), đồng thời tham gia vào AFTA và Chương trình thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung (CEPT);
- Ngày 3/1996 tham gia Diễn đàn Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành
viên sáng lập;

- Ngày 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC; 11/1998 được công nhận
là thành viên của APEC;
- Năm 2000 ký Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ…
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Đối với trong nước: Chúng ta đã làm 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông
qua nhiều đạo luật, văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội
nhập (Ví dụ: Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty, Luật Đầu tư nước ngoài…);
thực hiện sự chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế
vĩ mô và cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế; để thống
nhất việc chỉ đạo quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 31/1998-TTg thành lập Uỷ ban quốc gia về
hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều
hành các bộ, ban, ngành trong việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, HNKTQT của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ thấp đến
cao diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa phương, lồng
gép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, diễn ra trên hầu
hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…
Cho đến nay, các cam kết hội nhập chủ yếu của Việt Nam gồm những nội
dung cơ bản như sau:
* Về cắt giảm thuế quan
- Trong AFTA: Bắt đầu thực hiện giảm thuế quan vào 1996; về cơ bản
đưa mức thuế suất xuống còn 0-5% vào năm 2005 đối với hàng hoá nhập khẩu
từ các nước ASEAN và đạt 100% số dòng thuế ở mức 0% vào năm 2015.
- Trong APEC: Về cơ bản thực hiện mức thuế suất 0% vào 2020.
- Hiệp định Việt-Mỹ: Cắt giảm thuế quan đối với khoảng 400 dòng thuế
theo những lộ trình khác nhau.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365

Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
- Khu vực MDTD ASEAN-Trung Quốc: Theo Chương trình “Thu hoạch
sớm” thì bắt đầu từ 2004, ta sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan nhanh đối với mặt
hàng cam, quýt của Trung Quốc nhập vào Việt Nam, trong khi đó tất cả các mặt
hàng nông sản ta xuất sáng Trung Quốc nằm trong các chương từ 1-9 của biểu
thuế xuất nhập khẩu của ta hiện nay sẽ được hưởng nhân nhượng về thuế quan
nhanh của Trung Quốc.
* Về phi thuế
- Trong AFTA:
+ Đến 2006, về cơ bản ta hoàn thành việc xoá bỏ các hạn chế về định lượng đối
với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN và tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi
thuế quan khác.
+ Bắt đầu từ 2002 thực hiện Hiệp định đánh giá giá trị hải quan của WTO;
+ Từng bước thực hiện việc đơn giản hoá, thuận lợi hoá và thống nhất các thủ
tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu.
- Trong APEC: Từng bước và tiến tới xoá về cơ bản các hàng rào phi thuế
quan vào năm 2002.
- Hiệp định Việt-Mỹ: Việc xoá bỏ các rào cản phi thuế được thực hiện
theo những lộ trình cụ thể đối với trên 200 sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ vào VN.
* Về dịch vụ
Chúng ta đã cam kết thực hiện tự do hoá đối với nhiều lĩnh vực dịch vụ
theo các lộ trình cụ thể khác nhau cả trong ASEAN, APEC, Hiệp định Việt-Mỹ.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Nhìn chung, ta sẽ từng bước mở cửa thị trường Việt Nam và dành đối xử bình
đẳng đối với các dịch vụ cũng như các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực
dịch vụ.
* Về đầu tư

Chúng ta cũng đã có những cam kết cả trong khuôn khổ ASEAN, APEC,
Hiệp định Việt-Mỹ về mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà đầu tư nước
ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp tự do hoá
và thuận lợi hoá đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và tiến tới dành cho các nhà
đầu tư nước ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia.
* Về sở hữu trí tuệ
Những cam kết của ta dựa căn bản trên các nguyên tắc của Hiệp định
TRIPS và các công ước của WIPO. Theo đó, ta sẽ phải tôn trọng và thực hiện
bảo hộ các quyền về bản quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu,
thiết kế, kểu dáng công nghiệp, giống vật nuôi cây trồng…
* Về công khai hóa
Chúng ta phải công khai hoá các chính sách, luật lệ, quy định về chế độ
thương mại, thủ tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người có thể
tiếp cận một cách thuận lợi và dễ dàng các thông tin đó.
Những gì chúng ta đã cam kết và thực hiện trong những năm qua được
kiểm nghiệm là đúng, cơ bản phù hợp với xu thế và điều kiện thực tế của đất
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
nước ta, do vậy đã đóng góp quan trọng vào những thành tựu kinh tế xã hội to
lớn của đất nước.
Trước sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá trong những năm tới, tiến trình
HNKTQT của chúng ta sẽ tiếp tục có những phát triển mới cả về bề rộng lẫn bề
sâu.
Trong ASEAN, quá trình tự do hoá sẽ được thúc đẩy lên mức cao hơn và
rộng hơn về phạm vi lĩnh vực nhằm biến ASEAN không chỉ thành một khu vực
mậu dịch tự do mà còn là một thị trường chung, một cộng đồng kinh tế trong
tương lai. ASEAN cũng sẽ phát triển mạnh hơn các mối liên kết kinh tế với các
đối tác ngoài khu vực để hình thành những khối liên kết kinh tế lớn hơn như các
khu vực MDTD ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Nhật như đã được các nhà lãnh

đạo các nước này nhất trí. Có thể trong tương lai, sẽ hình thành và phát triển các
liên kết kinh tế sâu giữa ASEAN-Mỹ, ASEAN-CER, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-
EU, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-NAFTA, ASEAN-MERCOSUR… Không
loại trừ khả năng sẽ hình thành một khu vực MDTD thống nhất cho toàn bộ khu
vực Đông á.
Song hành với tiến trình hội nhập khu vực đó, chúng ta sẽ tích cực chuẩn
bị và đàm phán để sớm gia nhập WTO (mục tiêu là cố gắng trước khi kết thúc
Vòng Đô-ha vào 2005).
Ngoài ra, chúng ta cũng thúc đẩy các liên kết kinh tế song phương trên cơ
sở các hiệp định MDTD song phương với các nước, đồng thời tiếp tục tăng
cường liên kết kinh tế vùng.
2.2. Những kết quả đã đạt được trong tiến trình hội nhập
Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
hạn chế nhưng cũng đã mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hơn 170 nước và có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 160 nước và vùng
lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế, khu vực quan trọng. Đẩy lùi được
chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù địch. Tạo được thế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên chính trường và thương trường quốc tế.
Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế
trong khu vực năm 1997, đồng thời cũng đã mở rộng được thị trường xuất khẩu.
Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước đạt 26,003 tỷ USD,
tăng 28,9% so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm trở lại đây.
Ðây là một trong những thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta năm qua.

Tính riêng trong tháng 8 năm nay, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 2,8 tỷ
USD, nâng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng qua lên hơn 20,3 tỷ USD, tăng
gần 19% so với cùng kỳ năm trước, đã chứng tỏ đường lối đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế của Ðảng và Nhà nước ta đang được thực tiễn khẳng định.
Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ
nước ngoài. Năm 2004, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 2,85
tỷ USD, tăng 7,5% so với năm 2003 và vượt so với dự kiến ban đầu (mục tiêu
năm 2004 là 2,75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài trong năm
2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2003. Khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho 7,4 vạn lao động, đưa tổng số
lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người. Năm 2004 cả nước đã thu hút được
hơn 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003, trong đó vốn cấp
mới đạt trên 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung đạt gần 2 tỷ USD. Đây là mức đăng ký
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra vào năm 1997.
Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và
thực hiện các hiệp định song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động
thái mới về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thể hiện qua việc gia tăng số lượng
nhà đầu tư vào Việt Nam khảo sát, tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh. Xu
hướng nói trên đã tạo điều kiện để hình thành các dự án đầu tư mới trong năm
2005. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp phép và số vốn bổ
sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới trong 7
tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm
trước.
Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng
quản lý. Nhiều ngành kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm
lượng chất xám trong sản xuất - kinh doanh. Các ngành cơ khí chế tạo, đóng

tàu… từng bước được nâng lên tầm cao mới, sản phẩm ngày càng tạo được uy
tín trên thị trường trong và ngoài nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ
theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch
vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng
giảm. Trong đó xu hướng tỷ trọng giá trị của dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá
trị sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng.
Giữ vững sự ổn định về kinh tế. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng liên tục khá cao và tương đối ổn định, đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1991 đến năm 2000, GDP tăng liên tục qua các
năm với nhịp tăng bình quân hàng năm 7,5%. So với năm 1990, năm 2000 GDP
tăng gấp 2,07 lần. Tuy xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm
1997, nhưng từ năm 2001 đến 2004, GDP của Việt Nam vẫn có nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm 7,25%. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP
quí I đạt 7,23%, 6 tháng đầu năm đạt 7,63% (tuy nhiên, tốc độ tăng này chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước - mặc dù có chịu ảnh hưởng do thiên tai,
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
dịch bệnh). Như vậy liên tục trong thời gian qua, kinh tế Việt Nam luôn đạt mức
tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo đói
ở Việt Nam đã giảm mạnh, từ 58% (năm 1993) xuống 24,1% vào năm 2004
(theo chuẩn nghèo 1USD/ngày), chuẩn nghèo lương thực đã giảm từ 24,9%
(năm 1993) xuống 7,8% trong năm 2004.
Bước đầu chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng
vẫn còn những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: Nhận thức về hội
nhập của cán bộ và nhân dân chưa được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch
tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống chính sách, luật pháp
quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, còn có những chính sách, luật
chưa thực sự phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy
cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh

hàng hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá chủ yếu là bán sản phẩm
và gia công, xuất khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị thu được thấp.
Trước xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh, có thể dẫn đến
khả năng mất thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu
phát triển kinh tế của ta là hướng về xuất khẩu, nhưng thực tế lại có xu hướng
thực hiện theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nền kinh tế đang ở
trình độ phát triển chậm, còn chênh lệch quá nhiều so với các nước trong khu
vực; đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại; Bản sắc văn hoá đang bị đe doạ, đặc biệt là lối sống
của lớp trẻ.
Với những thành công bước đầu về hội nhập kinh tế quốc tế mà Đảng và
Nhà nước ta đã xác định trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng đến năm
2020, nước ta cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
PHẦN III
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
3.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp nông nghiệp ở Việt Nam
Trên 90% các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam hiện đang hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn với quy mô lao động bình quân 10-
200 lao động/doanh nghiệp.
Quy mô huy động vốn của khối doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn
này đã đạt gần 30 tỷ USD, sử dụng gần 3 triệu lao động, tạo 49% việc làm phi
nông nghiệp ở nông thôn (tương đương 26% lao động cả nước); đóng góp 49%
GDP, 29% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ đạt
khoảng 2%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp bình quân

chung của cả nước là 20 - 25%/năm. Bình quân khoảng 57.000 người dân sống
ở khu vực nông thôn mới có 1 doanh nghiệp nông nghiệp, trong khi trên cả
nước cứ trên 700 người đã có 1 doanh nghiệp. Hạn chế lớn nhất ảnh hưởng đến
việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa nông nghiệp là thiếu các cơ hội đầu
tư, kinh doanh, môi trường đầu tư, chính sách ưu đãi hầu như không có hoặc rất
khó triển khai, áp dụng.
Quy mô nhỏ hạn chế phát triển
Nếu chỉ nhìn vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, cả nước hiện có khoảng
1.100 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh. Như vậy, số doanh
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
nghiệp nông, lâm nghiệp mới chỉ bằng xấp xỉ 1% tổng số doanh nghiệp đang
hoạt động. Còn xét về mức vốn, hiện có khoảng 60% số doanh nghiệp nông,
lâm nghiệp của Việt Nam có vốn dưới 10 tỷ đồng - quá nhỏ bé so với doanh
nghiệp các nước trên thế giới và so với nhu cầu thực tế.
Thêm nữa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn lại đang sử dụng
những công nghệ, hệ thống máy móc, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Tỷ lệ đổi mới trang
thiết bị hàng năm chỉ đạt 5-7% (trong khi cả thế giới là 20%).
3.2. Cơ hội của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi hội nhập
kinh tế thế giới.
Cơ hội cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường
mới nổi:
Bộ Công Thương cho biết kim ngạch thương mại với các nước khu vực
châu Phi, Tây Á, Nam Á duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong bối cảnh thị
trường khu vực này ít nhiều chịu ảnh hưởng từ tình hình bất ổn chính trị từ các
nước trong khu vực và suy thoái kinh tế thế giới.
Số lượng các mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn trước, nhiều mặt hàng mới
lần đầu xuất hiện trong danh mục xuất khẩu như ximăng, điện thoại di động,
phần cứng máy tính, máy móc nông nghiệp.

Trong quan hệ thương mại, Việt Nam xuất siêu sang phần lớn các nước
khu vực này và chủ yếu nhập siêu từ Ấn Độ, song chênh lệch thương mại giữa
hai nước bắt đầu thu hẹp đáng kể từ sau khi hiệp định FTA ASEAN - Ấn Độ có
hiệu lực.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Mặt hàng nhập khẩu từ khu vực này tập trung chủ yếu vào các loại
nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trong nước. Ấn Độ
là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khu vực, chiếm gần 1/2
kim ngạch nhập khẩu toàn khu vực.
Nhiều mặt hàng khu vực có thế mạnh như bông, hạt điều thô, dầu thô và
các chế phẩm dầu mỏ thì lượng nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn hạn chế, chủ
yếu nhập khẩu qua trung gian do các khó khăn trong khâu thanh toán, vận
chuyển và chế biến.
Tuy nhiên, thực tế là mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể, thương mại giữa
Việt Nam với khu vực còn ở mức thấp.
Đến nay, khu vực châu Phi, Tây Á, Nam Á vẫn là khu vực mà Việt Nam
có mức độ trao đổi thương mại thấp nhất so với các thị trường khác trên thế
giới.
Mặt hàng xuất khẩu kim ngạch lớn nhất vẫn chỉ là gạo. Các mặt hàng
nông sản khác như càphê, tiêu; hải sản, hàng dệt may, hàng tiêu dùng có tỷ
trọng giá trị gia tăng thấp.
Ông Lý Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á ,
cho biết phần lớn các nước châu Phi, Trung Đông có nền nông nghiệp lạc hậu,
năng suất thấp, không thể đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho người dân. Do đó,
đây là thị trường hết sức tiềm năng cho mặt hàng gạo của Việt Nam.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam như cà phê, hạt tiêu,
cơm dừa, hạt điều, thủy sản đông lạnh, giày dép đều là những mặt hàng có
chất lượng, giá cả phù hợp với thị hiếu thị trường và có tiềm năng lâu dài (thị

trường các nước không đáp ứng đủ sản lượng hoặc không sản xuất).
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Với số lượng dân số lớn, đại đa số người dân có thu nhập trung bình và
thấp, các mặt hàng như may mặc, tân dược, hàng gia dụng sẽ nhanh chóng đạt
tăng trưởng rất cao cả về khối lượng và giá trị.
Hơn nữa, để phục vụ các dự án cải tạo, nâng cấp và xây mới các nhà máy
phát điện và hệ thống đường dây tải điện và cơ sở hạ tầng, nhu cầu đối với các
sản phẩm điện dân dụng, vật liệu xây dựng cũng sẽ gia tăng.
Bên cạnh đó, xu hướng sử dụng hải sản thay thế cho thịt trong bữa ăn
hàng ngày tại các nước châu Phi, Trung Đông cũng khiến nhu cầu nhập khẩu
các sản phẩm thủy hải sản ngày càng tăng.
Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu
mặt hàng thủy sản, thậm chí có thể nghiên cứu phương án nuôi trồng thủy sản
tại nước sở tại phục vụ xuất khẩu sang các nước lân cận.
Sự tăng trưởng của các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng giá trị gia
tăng cao như linh kiện máy tính và điện tử; phụ tùng ôtô và xe gắn máy, sản
phẩm hóa chất, nhựa, cao su, máy móc thiết bị phụ tùng sẽ ổn định do nhu cầu
cao từ thị trường khu vực cũng như chất lượng hàng hóa Việt Nam đã được
khẳng định.
Cơ hội khi tham gia tổ chức thương mại thế giới.
Được tiếp cận hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức
thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa
theo các nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử.
Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong
tương lai. Với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta – mở rộng
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới

kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở
lớn như nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là
đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luận kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng theo chế độ chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết
chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày
càng được hoàn thiện. đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế trong mà còn thu hút mạnh đầu tư nước
ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao
động, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế ngày càng
nổi trội: Năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp,
gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động
trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu
tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều
kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu
tranh còn tùy thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và
năng lực quản lý điều hành của ta.
Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới,cải cách thể chế
kinh tế ở trong nước và phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính
việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu

quả hơn.
Cùng với những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới,
việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện
cho chúng ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại thao phương châm: Việt
Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế
giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Các cơ hội của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi Việt Nam
hội nhập kinh tế thế giới.
 Có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu đãi thương
mại (giảm thuế quan và phi thuế, quy chế MFN, NT, GSP…) để tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên,nhiên liệu, thiết bị với giá cạnh
tranh;
 Cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh;
 Cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài;
 Khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở trong lẫn
ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh;
 Thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri thức, rèn
luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực;
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
 Nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình
tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và
cạnh tranh bình đẳng hơn.
 Sự quan tâm, môi trường pháp lý và chính sách đối với nông nghiệp tốt hơn,
minh bạch hơn, ổn định hơn.
 Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển nông nghiệp theo
hướng thị trường hơn, bền vững hơn.
 Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng như mở rộng thị trường

cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thủy sản, đồng thời
chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (về lâu dài)
giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ.
Một khi ngành nông nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông
nghiệp trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc
đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển vùng nông thôn.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam có thêm nhiều cơ
hội phát triển.
 Đồng thời Việt Nam đã có nhiều cơ hội thuận lợi để tiếp cận nguồn vốn vay,
các hình thức tín dụng và tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB,
IMF Quá trình hội nhập WTO cũng đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam.
 Các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của nhà nước đối với nông nghiệp và phát
triển nông thôn công bằng, phù hợp hơn.
 Các ngành dịch vụ, công nghệ, công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp sẽ phát triển, cơ
sở hạ tầng ở nông thôn sẽ cải thiện.
 Triển vọng tiếp cận thị trường xuất khẩu tốt hơn do vị thế mới của Việt Nam
trong WTO, trong vòng đàm phán Doha.
 Thị trường nội địa phát triển, hệ thống phân phối mở rộng, thuận lợi hơn cho
tiêu thụ nông sản.
 Triển vọng mở rộng thị trường ở nông thôn cho các sản phẩm, dịch vụ của
Doanh nghiệp.
 Tiếp cận các nguồn lực cần thiết thuận lợi hơn.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
 Chi phí đầu vào có thể giảm do cạnh tranh (trong nước và nhập khẩu), xã hội
hóa một số dịch vụ, tăng nguồn cung.
 Cải cách doanh nghiệp nông nghiệp, nông lâm trường quốc doanh. Tạo bình
đẳng, giải phóng một số nguồn lực (đất, quyền kinh doanh…)

 Cơ cấu lại lao động nông nghiệp, từ đó thay đổi các tư duy, cách làm ăn, năng
suất, chất lượng lao động, khả năng tiếp cận thị trường của nông dân sẽ được cải
thiện.
 Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức
thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo
các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó,
tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự
lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ
ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế
nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt
quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
 Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được
cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua
đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng
và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày
càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công
nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao
động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
 Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong
việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm

thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn
tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản
lý điều hành của ta.
 Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở
trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia
nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả
hơn.
 Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia
nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển
khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác
và phát triển.
Cơ hội về kinh tế bên trong
 Hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy cạnh
tranh để phát triển
 Cấu trúc lại nền kinh tế về các mặt cơ cấu ngành, sản phẩm, thị trường, lao
động, các khu vực doanh nghiệp theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tạo lợi thế
mới.
 Phát triển doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập.
 Khai thác và phân bổ các nguồn lực của đất nước theo hướng hiệu quả, bền
vững hơn.
Cơ hội về kinh tế bên ngoài
 Mở cửa thị trường các nước: hưởng quy chế MFN, không bị phân biệt đối xử.
Từ đó tăng khả năng xuất khẩu, nhập khẩu một cách hiệu quả hơn.
 Thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp hiệu quả hơn các nguồn lực trong và ngoài
nước để phát triển.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam

khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
 Tham gia phân công lao động quốc tế thuận lợi hơn, giành vị trí cao hơn trong
chuỗi giá trị toàn cầu.
 Đỡ bị khiếu kiện bất công, giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế công
bằng hơn.
 Tạo vị thế mới trong tham gia các vòng đàm phán toàn cầu, khu vực và song
phương trong tương lai.
3.3. Thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi hội
nhập kinh tế thế giới.
 Nhiều nông sản của Việt Nam giá thành còn cao và chưa có thương hiệu uy tín
trên quốc tế. Do vậy, trong quá trình tự do hoá thương mại, một số lĩnh vực NN
cạnh tranh yếu sẽ bị thu hẹp, dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động nông
thôn mất việc làm, giảm thu nhập nhất là các nông hộ ở các xã nghèo, vùng dân
tộc thiểu số.
 Cạnh tranh tăng lên trên thị trường nông sản trong nước và quốc tế về chất
lượng, tiêu chuẩn, giá cả, dịch vụ
 Những tiêu chuẩn bắt buộc cao hơn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
(trong nước và quốc tế) đối với nông sản song song với đó là sự giám sát
nghiêm ngặt hơn.
 Việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách, chiến lược, qui hoạch, hạ tầng
cho nông nghiệp và phát triển nông thôn cần thới gian và đầu tư mạnh, không
dễ thực hiện.
 Các biện pháp hỗ trợ kinh doanh xuất khẩu nông sản không phù hợp WTO phải
bãi bỏ, hệ thống mới chưa hình thành nhưng thách thức cạnh tranh đến ngay,
doanh nghiệp khó đối phó.
 Tổ chức sản xuất, kinh doanh nông sản và các hoạt động liên quan còn nhiều bất
cập: nhỏ lẻ, phân tán, chuyển đổi chậm và không đồng bộ, không đều, thiếu đầu
tư các khâu tạo thêm giá trị gia tăng, chưa liên kết thành chuỗi.
 Nông sản Việt Nam có những hạn chế về chất lượng, quy cách, tính ổn định và
đồng đều, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, môi trường, cách thu hoạch và

Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
bảo quản, mức chế biến thấp Chưa phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị
trường đô thị nội địa và xuất khẩu, thiếu thương hiệu mạnh.
 Hệ thống tiêu thụ nông sản nội địa và hệ thống xuất khẩu đều cần cải thiện về
nhiều mặt (hạ tầng, vốn, tổ chức và phương thức kinh doanh chuyên nghiệp,
marketing, )
 Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam có những tồn tại chủ quan hạn chế năng
lực cạnh tranh không dễ khắc phục.
 Nhiều hàng rào kỹ thuật sẽ được tạo lập khi thuế quan giảm nhằm hạn chế hàng
nhập khẩu bên ngoài vào.
 Những nghành có ít lợi thế so sanh sẽ bị sức ép nhiều hơn như: mía đường, sữa,
bông, chăn nuôi….
 Nông sản chế biến chịu sức ép nhiều hơn so với nông sản thô. Một số nghành
hàng chăn nuôi , rau quả ôn đới chịu tác động của WTO.
 Năng suất lao động rất thấp.
 Chất lượng năng suất hàng hóa nhìn chung còn rất thấp không đều
 Việt Nam xuất khẩu nhất nhì thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, điều nhân…
nhưng chỉ mới là xuất thô, hàm lượng chất xám trong nông sản xuất khẩu chưa
nhiều.
 Giá thành cao, sản xuất manh mún là yếu tố khiến ngành nông nghiệp không thể
đáp ứng những đơn đặt hàng với số lượng lớn. Các giống cây, con mới nhập vào
nước ta bán rất đắt, bà con lại không thể tùy tiện nhân giống vì vấn đề bản
quyền là những trở ngại lớn của ngành nông nghiệp. Nhiều mặt hàng nông sản
của ta hiện nay giá cao hơn nước ngoài, chất lượng không bảo đảm. Khả năng
chuyển từ xuất khẩu thô lên chế biến với thương hiệu riêng để tăng giá trị gia
tăng của các doanh nghiệp đòi hỏi cả một quá trình.
 Ngành chăn nuôi cơ bản vẫn là phân tán, trình độ thấp. Giá thành cao, chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Hai mặt

hàng chiến lược là thịt heo và bò, dù năng suất được cải thiện nhưng so với hệ
thống chăn nuôi hiện đại, hiệu quả như Australia, New Zealand, trình độ vẫn
còn thấp. Sản phẩm chăn nuôi trong nước còn phải đối mặt với việc trợ cấp
của các nước giàu. Một con bò của EU được hưởng trợ cấp 2,62 USD/ngày.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
 Khi Việt Nam mở cửa thị trường việc tăng các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu
tác động đến giá các mặt hàng trong nước. Nhưng điều đáng lo ngại là những hộ
nuôi nhỏ lẻ ở Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ khá lớn, sẽ khó cạnh tranh về giá cả
nếu như không có những thay đổi căn bản về sản xuất.
 Tổng vốn ngân sách tập trung mà Chính phủ giao cho Bộ NN&PTNT thực hiện
xây dựng cơ bản, chỉ dừng ở mức trên 3.672 tỷ đồng, trong đó có trên 1.519 tỷ
đồng vốn trong nước và 2.153 tỷ đồng vốn nước ngoài. Điều này gây khó khăn
không nhỏ cho việc đã gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí kế hoạch và giải
quyết các công việc cấp bách của ngành, nhất là các công trình liên quan đến
hoạt động sản xuất nông, lâm, thủy sản.
 Sau hội nhập WTO xuất khẩu tiếp tục đối mặt với các rào cản kỹ thuật và áp lực
nhà sản xuất nước ngoài. Đã từng có một xu hướng ảo tưởng cho rằng khi hội
nhập WTO, cơ hội để hàng Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới sẽ trở nên
dễ dàng. Điều này có thể đúng trên bình diện xu thế, nhưng không hoàn toàn
đúng trong ngắn hạn, đặc biệt trong bối cảnh thị trường thế giới suy thoái.
 Chưa chuẩn bị tốt về năng lực bảo vệ người tiêu dùng nội địa. Sau 3 năm hội
nhập WTO, những hạn chế về chế tài, về phân định chức năng nhiệm vụ của bộ
máy triển khai, và năng lực con người và phương tiện của bộ máy triển khai đã
làm cho Việt Nam gặp phải những thách thức rất lớn đối với các vấn đề an toàn
thực phẩm. Ở thị trường nội địa vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm gặp nhiều vấn
đề đối với cả sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu. Thực tế
hiện nay cho thấy tình trạng tồn dư các chất có hại cho sức khoẻ con người
trong rau quả rất cao; gia súc, gia cầm bệnh, chết vẫn đựợc đưa vào các lò mổ

lậu; sử dụng hoá chất cấm trong chăn nuôi đang tái diễn.
 Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng
hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các
nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị
trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm
từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3
đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365
Phân tích cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam
khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh
nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước
trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát
huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy
được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt
trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý
có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay
không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi
hay không…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của
toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
 Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những
nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự
“phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi
ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một
bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo
sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội
đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước phát triển”.

 Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh
đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng
đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để
nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu
Kinh tế hợp tác Nguyễn Thị Bích Ngọc - 541365

×