Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.8 KB, 38 trang )

TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

Tiểu luận nghiên cứu :
Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập
GVHD: Ths Nguyễn Thị Hồng Vân
Lớp: TDL & MTT - M11CQCT02-B
Thực hiện: Nhóm 1


Hà Nội, 20/06/2012
Mục lục
1
1. Mở đầu
Thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá,khu vực hoá nền kinh tế.Tiến trình
toàn cầu hoá mở ra cho các quốc gia cả những quốc gia phát triển và đang phát triển
những cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Hội nhập quốc tế vừa
là cơ hộiđồng thời cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong công
cuộc tìm được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế.
Trước thực trạng trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp hơn rất nhiều
so với các nước trong khu vực và thế giới.Một trong những yếu kém hiện nay của
toàn nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng đó là sức cạnh tranh
trên thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài.
Việc nhìn nhận được những thuận lợi và khó khăn của mình sẽ giúp cho các
doanh nghiệp Việt Nam rút ra những bài học bổ ích và tìm được lời giải đúng nhất
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên nhóm em đã quyết định chọn đề
tài tiểu luận “Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
hội nhập”.
2. Nội dung chính


2.1.Cở sở triết học của đề tài
2.1.1. Lý luận triết học
2
Phép biện chứng đã khẳng định: các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác
nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng
thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng
định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều mang tính khách quan, là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến. Bởi
lẽ, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự
vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc
gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời
sống xã hội. Chính vì thế mà hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng
toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở
thành vấn đề toàn cầu như : đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, dân số
và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hoà bình…Ngoài ra, mối liên hệ được biểu
hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định Song, dù dưới
hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mặt khác, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của sự
vật hiện tượng, mà sự vật hiện tượng luôn tồn tại và vận động không ngừng theo
nhiều cách thức khác nhau. Do đó mà mối liên hệ còn mang tính đa dạng. Và trong
mỗi sự vật hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ, chứ không phải chỉ

có một cặp mối liên hệ xác định.
3
2.1.2. Quá trình hội nhập là gì ?
Hội nhập là gì ? Tại sao Việt Nam chúng ta lại chọn con đường chủ động hội
nhập? Hội nhập đầy đủ thì nảy sinh vấn đề gì, cả về cơ hội lẫn thách thức và đứng
trước tình hình này chúng ta nên lưu ý, xử lý những vấn đề gì ?
* Hội nhập là gì và chấp nhận luật chơi chung ra sao ?
Hội nhập là gì ? Đó là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và
nền kinh tế thế giới theo luật chơi chung. Xin nói rõ là gắn kết kinh tế, còn về chính
trị , văn hóa chúng ta có những đặc thù riêng cho nên chúng ta thường dùng khái
niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Vậy luật chơi chung là gì ? Khi nước ta vào ASEAN, ký hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ và gia nhập WTO cũng theo luật chơi chung đó. Tựu trung
lại luật chơi chung đó bao gồm mấy nội dung :
Một là: chúng ta phải phá tháo bỏ hàng rào phi quan thuế đối với nền kinh tế
(ngược lại nước ta cũng được hưởng điều đó ở các nước khác).
Hai là: hàng rào quan thuế (thuế nhập khẩu) cũng phải điều chỉnh theo hướng
giảm dần.
Ba là: tạo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế trong và
ngoài nước mà theo ngôn từ của Tổ chức Thương mại Thế giới gọi là đối xử quốc
gia, tức là người ta vào nước mình cũng được đối xử như công ty nước mình.
Bốn là: phải mở cửa thị trường cho người ta vào làm ăn ở Việt Nam, để đổi lấy
doanh nghiệp Việt Nam cũng được vào thị trường các nước khác để làm ăn.
Năm là: phải tuân thủ một số qui định về kỹ thuật, ví dụ như là vệ sinh an toàn
thực phẩm, về hải quan, bảo vệ sở hữu trí tuệ, nhãn mác hàng hóa
Vì sao lại chủ động chọn con đường hội nhập với các qui định khá ngặt nghèo?
4
Chúng ta có sự lựa chọn chủ động hội nhập là do chúng ta nhận thức về xu thế
khách quan của thế giới và nhu cầu nội tại của nền kinh tế đất nước ta .
Về kinh tế, sau khi thực hiện đường lối đổi mới bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ

VI năm 1986 chúng ta đã bắt đầu thay đổi nhận thức về kinh tế thế giới. Nếu như
trước đó chúng ta nhận thức thế giới có 2 nền kinh tế với 2 thị trường khác biệt nhau.
2 nền kinh tế với 2 thị trường này vận hành theo 2 qui luật khác biệt nhau. Đó là nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa với thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với thị trường xã hội chủ nghĩa. Thời đó ở lĩnh vực ngoại thương, nước ta chia
ra thị trường khu vực I (các nước XHCN) và thị trường khu vực II (các nước TBCN).
Mỗi khu vực chúng ta tuân thủ theo các qui định khác nhau. Năm 1986, lần đầu tiên
Đảng ta đánh giá là trên thế giới đang hình thành một nền kinh tế và một thị trường.
Trong nền kinh tế và thị trường đó có nhiều thế lực khác nhau vừa hợp tác vừa cạnh
tranh lẫn nhau. Rồi đến năm 1991, Đại hội Đảng lần thứ VII chúng ta lần đầu nói
rằng đời sống kinh tế và đời sống xã hội loài người đang trải qua quá trình quốc tế
hóa rất sâu sắc. Đến Đại hội lần thứ VIII, lần đầu tiên Đảng ta nói rằng toàn cầu hóa
kinh tế là xu thế khách quan. Và tiếp đó đến Đại hội IX, Đại hội X, chúng ta đều đề
cập tới khái niệm toàn cầu hóa với cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của nó.
2.1.3. Tham gia hội nhập là điều tất yếu khách quan của Việt Nam
“Toàn cầu hoá” là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, mà trước
hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách đây hơn 150
năm, Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hiện thực. Theo ông,
toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản
ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội mà ở đó, phân công lao động
quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ biến.
Trong lịch sử, trước khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực
lượng sản xuất thấp kém, giao thông chưa phát triển, việc sản xuất và trao đổi hàng
hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp nên chưa có
thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phương thức sản xuất TBCN ra đời, đặc
5
biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống kinh tế các nước có sự
thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả cảng của các địa phương,
các dân tộc trước kia được thay thế bằng sự sản xuất và tiêu dùng mang tính quốc tế.
Tuy nhiên, cho đến trước Thế chiến thứ 2, hình thức quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân

công áp đặt trực tiếp, tức là các nước phát triển áp dụng chiến tranh xâm lược và bạo
lực để thống trị các nước lạc hậu, bóc lột, vơ vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá.
Trong đó, mỗi nước đế quốc có một hệ thống thuộc địa riêng, phân công lao động và
quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ, làm cho các nước lạc hậu không thoát khỏi
tình trạng khó khăn trì trệ.
Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật,
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh chóng.
Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ thống phân
công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay thế bằng hệ thống
phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển
mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia
vươn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lượng mới.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản
xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của
khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu
rộng nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động
quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu
phổ biến của loài người và sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp
bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình tích luỹ về số lượng đã tạo ra một
khối lượng tới hạn để số lượng biến thành chất mới; xu hướng quốc tế hóa, khu vực
hoá đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay. Nó là một trong
những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trưng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế giới tồn
tại và phát triển như một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ
tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia toàn cầu hoá
6
kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội, vẫn là các chủ thế tự
quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá kinh
tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ,
nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở

khắp các châu lục, đã có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động
[ Thẩm Kỳ Như-Trung Quốc không làm bất tiên sinh…Viện TTKH, Học viện CTQG
HCM, H1999, tr358-359 ] Đây là sự phát triển mới chưa từng có. Lịch sử đã chứng tỏ
không một quốc gia nào, dù lớn và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất được tất cả
các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trước Trung
Quốc đóng cửa nền kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có được
như ngày nay là nhờ vào mở cửa kinh tế.Như vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát
triển tất yếu của thời đại không thể khác được. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt
nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức mới đứng vững và phát
triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự
phát triển.
2.2.Cơ hội và thách thức của các quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1. Khái niệm về cơ hội và thách thức
Cơ hội là những gì chúng ta có thể nắm bắt được nhằm làm thay đổi cuộc sống
chúng ta theo chiều hướng tốt hơn.
Thách thức là những khó khăn, trở ngại với chúng ta trước những vấn đề gặp
phải trong cuộc sống.
Cơ hội và thách thức không phải là bất biến mà luôn vận động, chuyển hoá cho
nhau. Nhiều khi thách thức đối với vấn đề này có thể là cơ hội cho vấn đề khác phát
triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức,
tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn
át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
phục.
7
2.2.2. Cơ hội và thách thức của các quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế
Cơ hội của các quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế
Từ sự mở rộng thị trường toàn cầu về hàng hóa, dịch vụ, lao động, tài
chính…
Với lực lượng các công ty đa quốc gia (MNCs : Multi-national companies), các
công ty xuyên quốc gia (TNCs : Trans national companies) hùng mạnh, cácnước

công nghiệp đã chiếm nhiều ưu thếtrong việc mở rộng thị trường.
Nhưng các nước đang phát triển cũng cókhông ít cơ hội mở rộng thị trường nhờ
cácrào cản thương mại đã giảm đi rất nhiều.
Từ sự chuyển dịch đầu tư và công nghệ:
Các nước công nghiệp giữ vai trò chủ độngchuyển giao vốn đầu tư và công
nghệ đểkhai thác lợi thế so sánh trên khắp thế giới.
Các nước đang phát triển cũng có nhiều cơhội thu hút đầu tư và nhận chuyển
giaocông nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa nền kinh tế.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Xu hướng của các nước công nghiệp là chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên căn bản
đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức.
Thực tế, các nước công nghiệp có rất nhiều cơ hội và điều kiện để tăng nhanh tỷ
trọng của các ngành hàng công nghệ cao và các ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao.
Xu hướng của các nước đang phát triển là đẩy mạnh (để rút ngắn) công nghiệp
hóa kết hợp với hiện đại hóa nền kinh tế.
Trước hết, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp. Kết hợp với chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành theo hướng hiện đại hóa
sản xuất.
Tạo thêm việc làm và tăng thu nhập:
Do phân công lao động quốc tế sâu rộng,nên cơ hội tạo thêm việc làm và tăng
thunhập phân bố đều cho tất cả các quốc gia.
8
Riêng các nước đang phát triển còn có cơhội đẩy mạnh xuất khẩu lao động để
sớmtiến đến tình trạng toàn dụng nhân lực…
Thách thức của các quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế
Từ những tác hại trong lĩnh vực kinh tế:
Quan hệ phụ thuộc nhau càng nhiều, nguycơ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vựcvà khủng hoảng kinh tế toàn cầu càng lớn. Bảo hộ mậu dịch tinh vi và trả đũa
thươngmại đã kéo lùi nhiều cơ hội phát triển.
Các tệ nạn hàng gian, hàng giả, gian lậnthương mại có điều kiện phát tác nhiều

hơn. Đối với các nước công nghiệp: nhiều ngành hàng bị giảm sức cạnh tranh, nhập
khẩu ngược sản phẩm chế tạo từ cácnước NICs và các nước đang phát triển,tăng tỷ lệ
thất nghiệp trong nước…
Đối với các nước đang phát triển:cạnh tranh quốc tế thua kém trên sân nhà,
chảy máu chất xám, tiếp nhận công nghệ lạc hậu, cơ sở hạ tầng thiếu và kém chất
lượng, nguy cơ mắc “bẫy mậu dịch tự do”, nguy cơ mắc “bẫy thu nhập trung bình”…
Từ những tác động ngoại lai tiêu cực:
Khai thác tài nguyên bừa bãi. Các nướcnghèo hứng chịu tệ trạng này nặng nề
hơncác nước công nghiệp.Ô nhiễm môi trường gây mất cân bằng sinhthái trầm trọng
trong từng quốc gia, nay đãtrở thành vấn nạn toàn cầu. Tin tặc ngày càng nhiều và
nguy hiểm hơn.
Từ những tác hại phi kinh tế khác:
Phân hóa giàu nghèo tăng nhanh trong mỗinước và giữa các quốc gia với nhau.
Lây nhiễm văn hóa độc hại và lối sốngkhông lành mạnh. Tệ nạn tham nhũng xuyên
quốc gia. Chủ nghĩa khủng bố tràn lan khắp nơi.
2.2.3. Đối sách trước cơ hội và thách thức khi hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia ngày càng chặt chẽ và sâuhơn vào các tổ chức kinh tế đa phương.
9
Cải cách kinh tế, minh bạch hóa chínhsách, sửa đổi bổ sung luật lệ, thuận lợihóa
môi trường kinh doanh và đầu tư.
Cải cách hành chính để nâng cao nănglực quản lý của bộ máy nhà nước.
Riêng đối với các nước đang phát triểncòn phải chú trọng xây dựng lực
lượngđáp ứng yêu cầu hội nhập:
• Phát triển cơ sở hạ tầng.
• Phát triển công nghệ.
• Phát triển giáo dục, đào tạo
2.3.Doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập
Trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng mức độ và qui
mô còn hạn chế. Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và trong tương lai cũng
như xu thế phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần đánh giá lại một số

thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới.
Trong phạm vi tiểu luận này, nhóm chúng tôi xin trình bày cụ thể về “Cơ hội và
thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc gia nhập WTO”, đồng thời chỉ
ra “Thành công và hạn chế của Việt Nam khi tham gia hội nhập”.
2.3.1. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc gia nhập
WTO
• Tìm hiểu về WTO
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World Trade
Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại
thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15-4-1994. WTO chính thức đi vào hoạt
động từ ngày 1-1-1995.
10
WTO ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại ( The General Agreement on Tariffs and Trade - GATT). Đây là
tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên
thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm
phán và ký kết.
WTO là nơi đề ra những quy định: Ðể điều tiết hoạt động thương mại giữa các
quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới.
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán: Người ta thường
nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời,
WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả những gì tổ chức này
làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói, WTO chính là một diễn
đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng
nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ , để giải quyết tranh
chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế:Ra đời với
kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ
thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách

nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống
nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp đồng",
theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc gia nhập
và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong
khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực
chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các
nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hoạt động
kinh doanh, buôn bán của mình.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp:Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là
nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng
chế, kiểu dáng, phát minh (gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt
động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh
11
giữa các thành viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là ?mục tiêu chính trị? của WTO.
Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục
tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
• Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở
cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử.
Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai -
với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch
vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế
nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan
trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải

thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận
vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát
triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước
ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi
trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56%
12
kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm
việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ
thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều
hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế
kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc
gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách
trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi
mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện
cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển
• Thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các

nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị
trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ
mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5
năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp
với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc
hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu
13
hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay
không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi
nhanh chóng hay không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất
kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông
thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên
sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc
gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng
lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một
bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ
mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn;
phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô
đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để
nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước
những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn,

hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường
chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên
mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ
môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
14
2.3.2. Thành công và hạn chế của Việt Nam khi tham gia hội nhập
• Thành công của Việt Nam khi tham gia hội nhập
Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế thế giới hiện
đại. Việt Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu này và cũng
không muốn bị tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc Việt Nam phải bắt
nhịp với sự phát triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa nhưng hoạt động kinh tế thị trường với chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa
để hội nhập, các hoạt động đối ngoại mở rộng, đa phương, song phương từng bước
tham gia vào các diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các
mối quan hệ hàng hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết là
chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch,
tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế rõ rệt,
một nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần được hình
thành và tiến từng bước tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và toàn diện,
năm sau cao hơn năm trước.

Năm 1999 2000 2001 2002 2003
2
0
0
4
Tăn 4,8% 6,8 6,8% 7,0 7,2% 7
15
g
GDP
% %
,
7
%
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm 2004,
Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời gian trước
đó và cũng là mức cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với năm 1990 về giá
trị GDP lớn gấp trên 2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần, về xuất khẩu gấp gần
10,8 lần. Thu nhập bình quân đầu người cũng nhờ thế mà tăng lên đáng kể. Kết quả
nói trên có được là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do
việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại. Trong những năm qua cơ cấu ngành
kinh tế đã chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp - thuỷ sản
đã giảm từ 38,74% năm xuống còn 21,76% năm 2004, tức là giảm trên 1,1% /năm.
Trong khi đó tỉ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng đã tăng nhanh từ 22,67%
năm 1990 lên 40,09% năm 2004, tức là tăng gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng dịch vụ đạt
đỉnh cao nhất vào năm 1999(44,06%) nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn
38%, năm 2004 đã tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu chặn được sút giảm tỉ trọng dịch
vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới
quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và
phát triển, và thực tế sức cạnh tranh của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một tư duy
mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội
ngũ các doanh nghiệp năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng
quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập
kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách
16
mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ
hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Cùng với đó thông qua các dự án liên doanh hợp tác với
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý
sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của
đông đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục
thể thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội cho các vùng sâu, vùng xa, dân tộc
thiểu số đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế. Cụ
thể: mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từ trên 30%
giảm xuống còn 10%. Người có công với cách mạng, với đất nước được quan tâm,
chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ
bình quân từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
chúng ta đã đạt được thành tựu to lớn. Nếu thời Pháp thuộc tỉ lệ dân số đi học mới chỉ
đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số người học đại học không quá 1000 người, 95% dân số
mù chữ. Thì gần 50 năm sau, năm 1999, chúng ta có 16.508.452 học sinh, số sinh viên
là 401.666 người. Đặc biệt là năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành giáo dục phổ cập bậc
tiểu học. Có được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân. Trong đó một trong những
nguyên nhân có vai trò quyết định đó là việc tăng ngân sách trong lĩnh vực giáo dục
trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ lệ ngân sách chi cho giáo dục chiếm
11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%, năm 1999 là 12,4%. Nhờ thế năng

lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các
hoạt động văn hoá thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng, góp phần tích
cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và
chất lượng cuộc sống. Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện sức khỏe phát triển,
thành tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) tiếp
tục được chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương đã đề
17
ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế đảm bảo quyền
dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện, lòng tin của nhân
dân được củng cố.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế được
tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Nước ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt với các nước XHCN, các nước láng giềng, và các nước khỏc. Nhà
nước đã thi hành một loạt các biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Tháng 12/ 1987, nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam. Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ ngoại giao
với Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, và đến tháng 10/ 1993 đã bình thường
hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này. Tháng 7/
1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện
cam kết trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức là AFTA. Cũng tháng
7/ 1995, Việt Nam đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật và
một số lĩnh vực khác với Cộng đồng Châu Âu, đồng thời bình thường hoá quan hệ với
Mĩ. Tháng 3 /1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập ASEM. Tháng
11/ 1998, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của APEC. Tháng 7/ 2000,

Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết. Trước đó, từ cuối năm
1994, Nhà nước đã gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hiện
đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức này. Ngoài ra, Việt Nam
còn sẵn sàng mở rộng các cảng, cảnh quốc tế. Chính vì vậy, hiện nay nước ta đã có
quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh
thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, uy tín, vị thế của nước ta
trên trường quốc tế được mở rộng.
18
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được tăng
cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng
toàn dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo được phát huy. Tổ
chức quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng
và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ. Vì vậy đã tạo môi
trường thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Như vậy, chúng ta đã kết hợp khá tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh
tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn và nhờ đó giúp chúng ta
tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc
gia, bản sắc văn hoá dân tộc. Thực hiện hội nhập thời gian qua cho thấy : Đảng ta và
Nhà nước ta có đủ bản lĩnh khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, khai thác các
lợi thế trên thị trường thế giới, bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
• Hạn chế của Việt Nam khi tham gia hội nhập
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình
trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ
phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém
nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế – xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất
cập, chủ yếu là:
Kinh tế tuy tăng khá nhưng vẫn chưa đạt nhịp độ tăng trưởng Đại hội 9 đề ra và
vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao như những năm giữa thập niên 90.

Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 2002 2003 2004
Tăng
GDP
8,7% 8,1% 8,8% 9,5% 9,3% 8,8% 7,0% 7,2% 7,7%
19
Chỉ tiêu do Đại hội Đảng IX đề ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm
1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm thời kì 5 năm 2001 – 2005 là
7,5%. Trong khi đó, năm 1995 có mức tăng trưởng GDP là 9,5% như vậy để đạt được
chỉ tiêu của Đại hội IX thì năm 2005 phải đạt 19%, là một điều rất khó thực hiện đối
với nước ta lúc này. Nền kinh tế kém hiệu qủa và sức cạnh tranh yếu. Tích luỹ nội bộ
và sức mua trong nước còn thấp. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát
triển kinh tế chưa được phát huy và sử dụng tốt. Thất thoát trong quản lý kinh tế còn
rất nghiêm trọng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lí. Vì vậy chưa
tận dụng được lợi thế về ổn định chính trị - xã hội để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu
tư nước ngoài.
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao (6,4%) và đang là một trong những vấn
đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu.
Trong giáo dục có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại. Đào tạo chưa gắn với sử
dụng, gây lãng phí. Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường đô thị, nơi
công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Mức
sống nhân dân, nhất là nông dân ở một số quá thấp. Các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma
tuý và mại dâm lan rộng. Cùng với đó là tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật.
Rừng và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm trọng. Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian
lận thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tế - xã hội. Hệ thống tài chính - ngân
hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm

trọng. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến.
Nhận thức của Đảng về một số các vấn đề quan trọng trong đường lối đổi mới
chưa thống nhất cao nên đổi mới chưa đủ mạnh mẽ, cương quyết. Trong cán bộ đảng
viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: xây
20
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước, chính sách về đất đai…Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng chưa tốt; kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Cải cách hành chính
tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Công tác tư tưởng, công tác lí luận,
công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
Chưa làm rõ nội dung xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
chậm phát triển đồng bộ các loại thị trường. Có phần thiếu chủ động trong hội nhập
kinh tế quốc tế, chậm cải tiến tôt môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Lại thêm tư tưởng bảo hộ còn nặng nề. Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất,
quản lí và khả năng cạnh tranh. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động
lực mạnh để phát triển. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Cơ chế, chính
sách về thị trường tài chính, tiền tệ chưa đồng bộ.
Chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế chuyển qua một
bước mới. Tuy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều
Nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức
hội nhập chưa đạt được sự nhất trí cao, ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và
triển khai thực hiện. Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá
đang phát triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn, trong khi đó, nền kinh tế nước
ta còn yếu, tư tưởng bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
quản lý và cải tiến công nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục sẽ bị
thua thiệt, thậm chí còn bị tụt hậu xa hơn. Thiếu sót đáng kể là công tác nghiên cứu
triển khai chậm, chất lượng thấp. Cho đến nay, ở nước ta còn chưa hiểu thật sâu, chưa
nắm thật vững toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nhiều văn kiện pháp lý khác mà nước ta cần

vận dụng khi gia nhập tổ chức này. Công tác hội nhập quốc tế mới cần tập trung triển
khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương; sự tham gia của các ngành, các cấp tuy có
được đặt ra nhưng còn yếu và chưa đồng bộ, do đó chưa tạo được sức mạnh cần thiết
trong quá trình hội nhập quốc tế.
21
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc
tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Thời gian qua chúng
ta vừa tiến hành hội nhập, vừa triển khai nghiên cứu những nội dung cam kết để xác
định chủ trương, phương hướng hành động nhưng thường bị động đối phó với nhiều
khuyến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra; không có đủ cơ sở để hướng dẫn các
doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý, nâng cao khả năng cạnh tranh,
chủ động vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Luật pháp,
chính sách là công cụ để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt
động hợp tác kinh tế thương mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường,
theo xu thế thuận lợi hoá, tự do hoá, theo “luật chơi” của các thể chế kinh tế quốc tế và
khu vực. Nhưng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của ta chưa hoàn chỉnh,
không đồng bộ, gây nhiều khó khăn cho ta khi đáp ứng các cam kết của các tổ chức
kinh tế quốc tế. Việc hoàn chỉnh luật pháp và chính sách của ta phải phù hợp với
thông lệ quốc tế và những quy tắc của các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù
hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt là bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ta cũng chưa nghiên cứu sâu để đề xuất những biện pháp chính sách cần thiết, những
cách làm khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng những ưu đãi mà quốc tế dành cho nước
đang phát triển và kém phát triển như quy chế tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, chế độ
hạn ngạch thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá giá… bảo vệ lợi ích của ta.
Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về hai mặt quản lý và công
nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta chưa tạo đủ
cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát
triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh với khả năng cạnh tranh trên

thương trường quốc tế.
Một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, bất cập
về trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương
vị và trách nhiệm được giao, một số không ít cán bộ thoái hoá về phẩm chất; chạy
22
theo sự cám dỗ vật chất, sống thực dụng, cửa quyền, hối lộ, sách nhiễu, tham nhũng,
…ảnh hưởng rất xấu tới uy tín của Đảng và Nhà nước, nhân dân chê trách, gây cản trở
lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đồng thời đội ngũ công nhân lành nghề và có
thể lực tốt còn ít. Tình trạng thừa thầy, thiếu thợ diễn ra rất phổ biến trong nhiều
nganh nghề. Do cách tổ chức và quản lí lao động đã dẫn đến thói “hư danh”; sưu tầm
bằng cấp, xin học hàm, chạy học vị,…Không những vậy trong cơ cấu độ tuổi của lao
động, số lao động trẻ (từ 15 đến 29 tuổi), lứa tuổi chủ lực của nguồn lao động và rất
dễ dàng tiếp cận với tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới cũng đang diễn ra tình
trạng: thiếu đầu óc kinh doanh hiện đại, cung cách làm ăn lớn; tính toán nhìn xa trông
rộng, táo bạo nhạy cảm và năng động với cái mới, thích ứng mau lẹ để xoay chuyển
tình thế khi gặp khó khăn; miệt mài học tập, ngẫm nghĩ sâu sắc mọi vấn đề. Tất cả
những nhược điểm trên đây đã trở thành lực cản không cho phép chúng ta tiến nhanh.
2.4.Minh chứng những cơ hội và thách thức của VNPT trong quá trình hội nhập
Thực hiện chủ chương mở cửa để phát triển mạnh hơn nền kinh tế quốc dân của
Đảng, từ năm 1995 đến nay chúng ta đã tiến hành hàng loạt các hoạt động gia nhập
các tổ chức khu vực và quốc tế, mở rộng các quan hệ song phương với nhiều nước.
Song mở cửa, ngoài cơ hội chúng ta cũng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Đối với một nước đang phát triển ở vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá như Việt Nam, hội nhập kinh tế có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Sự
giao lưu kinh tế quốc tế chẳng những đem lại những nguồn hàng hoá và dịch vụ
phong phú của thế giới cho tiêu dùng trong nước với chất lượng cao, giá hạ, những
nguồn bổ sung lớn về khoa học công nghệ, thiết bị máy móc, kinh nghiệm quản lý
hiện đại, mà còn tạo nên động lực kích thích, khơi dậy các nguồn tiềm năng sẵn có
của đất nước, tạo nên bầu không khí sôi động của nền kinh tế. Mở rộng thương mại
và đầu tư đã và sẽ là cơ hội, là nguyên nhân quan trọng, là đòn bẩy thúc đẩy tiến

trình cải cách và đổi mới nền kinh tế, làm sống động nền kinh tế đất nước, làm cho
con người Việt Nam trở nên năng động, khẩn trương, sáng tạo trong sản xuất kinh
doanh và trong sinh hoạt, từ đó vị thế quốc tế, thế và lực của Việt Nam trong thương
mại quốc tế sẽ nâng lên.
Tuy nhiên, sự hội nhập để phát triển là vấn đề không đơn giản, đã và đang đặt ra
hàng loạt thách thức đối với Việt Nam. Vận hội và gánh nặng hội nhập kinh tế không
23
chỉ đè nặng lên vai các nhà lãnh đạo cao cấp nhất, mà đặt trên vai từng ngành, từng
doanh nghiệp. Với vai trò đặc biệt của một ngành phục vụ thông tin liên lạc, với
những điểm hết sức đặc thù trong cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông, Tổng
Công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam cũng đang hoà vào dòng chảy của nền
kinh tế đất nước trong xu thế hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
2.4.1. Cơ hội của VNPT trong quá trình hội nhập
Cũng như các doanh nghiệp khác, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ mang lại
cho VNPT những lợi ích chủ yếu từ những lợi ích chung sau :
• Ngăn ngừa được tình trạng bị phân biệt đối xử, chèn ép trong thương mại
quốc tế.
• Có cơ sở đấu tranh để được hưởng những đối xử ưu đãi dành cho các nước
chậm phát triển hoặc có nền kinh tế đang chuyển đổi.
• Có điều kiện mở rộng thị phần trên thị trường quốc tế, thu hút đầu tư
chuyển giao công nghệ, qua đó có được tăng trưởng cao và lâu bền.
• Phát huy các lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, vị thế địa lý, tài nguyên
thiên nhiên.
• Nâng cao vị thế quốc tế, nhất là với các nước lớn, định hướng điều chỉnh
có lợi cho đất nước.
• Thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại tổ chức quản lý với cơ chế còn nhiều khía
cạnh mang tính bao cấp, xin-cho sang một cơ chế dựa trên tiêu thức hiệu
quả, năng động và linh hoạt.
2.4.2. Thách thức của VNPT trong quá trình hội nhập
Trong bối cảnh phát triển hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước

những khó khăn thử thách trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực :
24
• Trình độ phát triển kinh tế thấp và năng lực cạnh tranh của nhiều ngành
sản xuất và dịch vụ còn yếu. Vì vậy, phải giải quyết thỏa đáng giữa hội
nhập và bảo hộ về mặt thời gian và mức độ tăng trưởng của ngành hay
doanh nghiệp một cách chủ động.
• Việt Nam đi sau nhiều nước trong khu vực, công tác chuẩn bị hội nhập còn
tất hạn chế.
• Cơ chế thị trường đang hình thành, khung pháp lý chưa hoàn chỉnh, chưa
phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
• Cơ cấu và phương thức phân bổ các nguồn lực chưa hiệu quả và có xu
hướng tạo sức ỳ từ phía các nhóm đặc quyền và khu vực được lợi nhờ bảo
hộ.
• VNPT phải đối mặt đó là nguy cơ chảy máu chất xám. Với tiềm lực tài
chính mạnh, cơ chế trả lương tự chủ, các tập đoàn Bưu chính viễn thông
nước ngoài sẽ có ưu thế hơn hẳn VNPT trong việc trả lương cao cho nhân
viên. Trong khi đó, do những ràng buộc về mặt cơ chế, chính sách, nên
mặt bằng thu nhập của cán bộ nhân viên các doanh nghiệp Nhà nước nói
chung, VNPT nói riêng thấp hơn điều này tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng
chảy máu nguồn nhân lực có kinh nghiệm và trình độ cao.
• VNPT vẫn vừa kinh doanh, vừa phải đảm bảo các nhiệm vụ công ích, hai
hoạt động này đang trong quá trình bóc tách nên phải chịu nhiều sức ép
khách quan và chủ quan ngay từ trong nội bộ doanh nghiệp, vì vậy việc
tìm tòi giải pháp, mô hình để bóc tách có hiệu quả, duy trì mọi hoạt động
để tiếp tục phát huy vai trò của mình để cả bưu chính và viễn thông đều
phát triển đòi hỏi một sự nỗ lực lớn.
25

×