Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Tìm hiểu các chức năng tiền tệ - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.32 KB, 16 trang )

Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-17-
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên. Đây thực sự là một
giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
2. Về mặt định tính
- Lạm phát thuần túy: đây là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả
của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn v
ị thời gian.
- Lạm phát cân bằng: là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với
mức tăng thu nhập.
- Lạm phát được dự đoán trước: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước
nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.
- Lạm phát không được dự đoán trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên
liệu của mọ
i người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động.
- Lạm phát cao và lạm phát thấp: theo quan điểm của Gary Smith thì lạm phát
cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập tăng thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại
lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng tăng cao hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA L
ẠM PHÁT
1. Nguyên nhân của lạm phát
Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát và mỗi loại lạm phát được xuất
phát từ những nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này có thể xuất phát từ phía
tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể là các nguyên nhân xuất phát từ phía cung, và
cũng có thể chúng xuất hiện đồng thời có cả phía cung lẫn phía cầu. Trong khi quan
sát thực tế có thể nhận thấy rằng, trong môi trường đang có lạm phát thì bản thân môi
trường đ
ó nó cũng có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra một
chu trình lạm phát mới, tức là tạo sự lẫn quẩn trong vòng xoáy lạm phát. Dù có sự
khác nhau, nhưng tựu trung lại thì những nguyên nhân của lạm phát có thể được xếp


vào các nhóm chủ yếu sau:
1.1. Lạm phát do cầu kéo (Demand pull inflation)
Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung
trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng c
ầu tăng nhưng
tổng cung không đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng tăng không bằng tổng cầu.
- Khi tổng cầu tăng như vậy tức là có nhiều người muốn mua và sẵn sàng mua
hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hoặc tăng ít hơn, thì đương nhiên trên
thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa, theo quy luật cung cầu thì trong
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-18-
trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất hiện lạm
phát.
- Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của
Chính phủ-G, đầu tư trong nền kinh tế-I, nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng
hàng hóa nhập khẩu-M, (hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong
nước làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễ
n bằng dấu âm (-) trong biểu
thức cộng các yếu tố của tổng cầu).
Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X - M.
Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số các yếu trong vế bên phải của biểu
thức tăng lên:
+ Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc được Chính phủ giảm
thuế, hoặc cảm thấy các chế độ an sinh xã hội hay bảo hiểm t
ốt nên quyết định cắt
giảm tiết kiệm để chi tiêu, hoặc được Chính phủ tăng trợ cấp.
+ Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản
đầu tư của Chính phủ, cũng làm tăng tổng cầu.
+ Các doanh nghiệp tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn.

+ Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch (X-M) ngày càng tăng do đồng nội
tệ mất giá so v
ới ngoại tệ, do chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn nên bán được
nhiều hơn, do công tác quảng cáo giới thiệu tốt hơn.
+ Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, làm lãi suất
giảm, các doanh nghiệp vay tiền đầu tư nhiều hơn, bên cạnh đó dân chúng hạn chế gửi
tiền vào ngân hàng mà rút ra mua hàng hóa hay đầu tư vào chứng khoán, cũng tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp mở
rộng đầu tư.
Đó là một số nhân tố gây lạm phát xuất phát từ phía tổng cầu trong nền kinh tế,
tiếp theo chúng ta sẽ bàn đến lạm phát do chi phí đẩy.
1.2. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost push inflation)
Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng
lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút.
Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
tăng.
Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn, thiên tai làm mất
mùa, lụt bão, động đất làm giảm năng lực sản xuất, khủng hoảng ngành dầu mỏ do các
liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh làm tăng giá. Khi giá dầu tăng làm tăng chi
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-19-
phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các
chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán
để bù đắp chi phí. Giá bán của các hàng hoá tăng - tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá
bán tăng kéo dài, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh
nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất, sa thải công nhân. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc
này là vừa có lạm phát lại vừa b
ị suy thoái.
Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh

tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất dầu mở
dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kỳ mức độ
nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang trong mình sự suy thoái kinh tế. Cùng
một hi
ện tượng là lạm phát, nhưng bản chất và nguyên nhân khác nhau nên tác động
của chúng là khác nhau.
1.3. Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: công nhân,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…gần như được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình
trạng tắ
c nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng
mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ
chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu
tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất
yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng nhưng nếu cơ
cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra một khối lượng hàng hóa
và dịch vụ đầy đủ để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp
này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.
1.4. Một số nguyên nhân khác
- Những nguyên nhân chủ quan có liên quan đến chính sách qu
ản lý kinh tế của
Nhà nước: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tiền tệ và tài chính… của Nhà nước
không phù hợp làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm
ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì
điều tất yếu là Nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc
gia, trong những
điều kiện nhất định, Nhà nước chủ trương dùng lạm phát như là một
công cụ để thực hiện chính sách phát triển kinh tế.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng


-20-
- Những nguyên nhân khách quan đưa đến như thiên tai, chiến tranh, tình hình
biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…
- Những nguyên nhân khác liên quan đến nội tại của đất nước như: chiến tranh,
nội chiến, khủng hoảng chính trị làm cho đồng tiền không còn giữ được chức năng
thước đo giá trị.
2. Hậu quả của lạm phát
Tác động kinh tế - xã hội của lạm phát r
ất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm
phát, khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát. Khi giá cả có xu
hướng tăng lên từ thời gian này qua thời gian khác, mọi người đều nhận thức được
thực tế đó và cố gắng dự đoán tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới. Tỷ lệ mà mọi người
dự đoán rằng lạm phát sẽ đạt tới gọi là tỷ lệ lạm phát dự tính hoặc tỷ lệ lạm phát được
trông đợi. Nếu dự đoán này đúng với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đó
là lạm phát có thể dự tính được. Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát trông đợi không giống
với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đ
ó là lạm phát không dự tính được.
Những ảnh hưởng của lạm phát sẽ khác nhau tuỳ thuộc đó là loại lạm phát có thể dự
tính được hoặc không thể dự tính được.
2.1. Đối với lạm phát dự tính được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự tính trước thì các thực thể tham gia
vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó. Tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã h
ội.
- Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và
lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên
đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày"
để chỉ những tổn thất phát sinh do s

ự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta
phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do
lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn
doanh nghiệp khác lại không tă
ng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì
giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-21-
tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm
phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ
: Trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu
nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần
chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước đo này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quy
ết định của mình.
2.2. Đối với lạm phát không dự tính được
Điều nguy hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ lạm phát mà nó còn ở
sự xuất hiện bất ngờ của nó. Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự
biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá
trị, ả
nh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội:

- Lạm phát tạo nên sự bất ổn trong môi trường kinh tế - xã hội
Sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát từ thời gian này đến thời gian khác
gây khó khăn trong việc xác định mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư. Điều
này tạo nên một tâm lý ngần ngại khi quyết định đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án
đầu tư dài hạn. Hơn nữa sự bất ổn định của thu nhập có thể làm cho người đầu tư thích
đầu tư vào các tài sản tài chính hơn là các dự án đầu tư thật sự. Kết quả là nguồn lực
của xã hội bị phân bổ một cách thiếu hiệu quả và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh
tế.
Trong điều kiện l
ạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo,
các doanh nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị ràng buộc chặt vào các hợp đồng vay
dài hạn với lãi suất cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng.
Lạm phát cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động khi các
công đoàn tìm cách đấu tranh đòi tăng lương danh nghĩa với nguy cơ của các cuộc
đình công hoặ
c sự đe dọa của một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
- Lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội
Khi lạm phát tăng, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, nhưng trong đó chứa
đựng sự phân phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư với nhau: giữa giới chủ và người
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-22-
làm công, giữa người cho vay và người đi vay, giữa Chính phủ với người đóng thuế.
Nói tóm lại, tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác
động không thể đoán trước đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải của nhân dân.
- Lạm phát làm cho lãi suất tăng
Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính tăng.
V
ấn đề nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa
không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế và ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều

này, có nghĩa chính lạm phát gây ra những ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và cuối
cùng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế.
- Lạm phát làm ảnh hưởng đế
n cán cân thanh toán quốc tế
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài thì hàng xuất
khẩu trong nước trở nên kém hấp dẫn vì giá cả tăng lên, trong khi hàng xuất khẩu của
nước ngoài trở lại rẻ hơn, thúc đẩy nhập khẩu, làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng
lai gây áp lực đối với tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với tỷ lệ bội chi tài khoản vãng
lai có thể tạo tâm lý trông đợi vào sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ, từ đó
tạo nên áp lực mạnh hơn đối với tỷ giá và nếu điều này thực sự xảy ra thì có thể đẩy
mức lạm phát trong nước cao hơn bởi giá của hàng nhập khẩu trở nên đắt, đẩy mức giá
cả chung tăng lên.
- Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công ăn
việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tổng cầu giảm khi lãi suất danh nghĩa tăng
lên, giá trị tài sản thực tế giảm xuống và sự giảm sút của khả năng cạnh tranh quốc tế.
IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Ngày nay, trong thời đại lưu thông tiền giấy b
ất khả hoán, lạm phát hầu như là
hiện tượng tất yếu ở các nước song chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử
lạm phát hiện đại hầu như chưa có nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát, mà chỉ
có kiềm chế, kiểm soát lạm phát ở mức độ phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
giải quyết công ăn việc làm.
Các bi
ện pháp kiềm chế lạm phát rất đa dạng, tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc
gia mà có thể áp dụng những biện pháp khác nhau. Có thể chia các biện pháp kiềm chế
lạm phát thành hai loại: những biện pháp cấp bách và những biện pháp chiến lược.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-23-

1. Những biện pháp cấp bách
Những biện pháp cấp bách hay còn gọi là những biện pháp tình thế. Áp dụng
những biện pháp này với mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát, để có cơ sở áp dụng
những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài.
Khi nền kinh tế xảy ra tình trạng lạm phát cao hoặc siêu lạm phát, để kiềm chế
lạm phát các nước thường áp dụng những biệ
n pháp tình thế sau:
* Biện pháp về chính sách tài khoá
Áp dụng biện pháp về chính sách tài khoá có ý nghĩa quan trọng và then chốt vì
trong nhiều trường hợp Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt là nguyên nhận chính của
lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ được ổn định, lạm phát
sẽ được kiềm chế. Khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát, Nhà nước
có thể thực hiện các biện pháp như
:
- Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu Ngân sách Nhà nước, cắt giảm những khoản
chi chưa cấp bách.
- Tăng thuế trực thu để tăng nguồn thu cho ngân sách
- Vay nợ trong nước và nước ngoài không đi kèm điều kiện chính trị
* Biện pháp thắt chặt tiền tệ
Để góp phần giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, Nhà nước có thể thực hiện
chính sách siết chặt lượng cung tiền tệ bằng nhiều biện pháp khác nhau như:
- Ngừng phát hành tiền lưu thông hay còn gọi là “đóng băng tiền tệ”
Ngân hàng Trung ương tạm ngừng thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái
cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng. Ngay cả số bội chi của Ngân sách Nhà nước
cũng không được phát hành tiền để bù đắp. Mục đích của biện pháp này là không cho
tăng thêm tiền trong lưu thông.
- Nâng cao lãi suất tín dụng
Lãi suất tiền gửi tăng, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm có tác dụng thu hút tiền mặt
trong dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Một tác hại có thể xảy ra là nếu lãi suất
tiền gửi cao hơn lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ không đầu tư cho sản xuất

nữa mà tìm cách đưa vốn của mình vào ngân hàng vì nó đưa đến lợi tức cao mà không
chịu sức ép rủi ro lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng cũng làm giảm khả nă
ng mở
rộng tín dụng của các ngân hàng.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-24-
- Quản lý và hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại bằng cách
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
* Biện pháp kiềm chế giá cả
Để chống lại sự tăng giá của hàng hóa, Nhà nước có thể thực hiện chính sách
kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như:
- Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hóa trong
nước tạ
o ra một sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Đây là biện pháp “chữa cháy”
tuy rất hữu hiệu trong việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hóa nhưng có nhiều mặt hạn
chế.
- Nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn định
giá vàng, ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng khác.
- Quản lý thị trường, chống đầu cơ
tích trữ…
* Biện pháp đóng băng lương và đóng băng giá
Ở đây trước hết cần có sự cam kết của các nhà lãnh đạo công đoàn chấp nhận
đóng băng lương vì việc tăng lương không giúp ích gì cán bộ công nhân viên, bời vì
thông thường sau khi tăng lương thì giá cả cũng tăng. Mặt khác, hiệp hội các chủ
doanh nghiệp cũng phải cam kết đóng băng giá. Thoả hiệp đó phải được Nhà nướ
c
công nhận và về phần mình Nhà nước cam kết cố gắng hết sức giữ các yếu tố khác
không diễn biến xấu hơn như không làm tăng thêm số thiếu hụt Ngân sách Nhà nước,
cố gắng giảm thiểu số thiếu hụt đó. Đạt được một thoả hiệp như vậy là một yếu tố rất

quan trọng trong tiến trình kiềm chế lạm phát.
* Biện pháp cả
i cách tiền tệ
Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng
các biện pháp trên không đưa lại kết quả như mong muốn. Ở đây, Nhà nước huỷ hoặc
thu hồi tiền cũ, phát hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ.
2. Những biện pháp chiến lược
Đây là biện pháp nhằm tác động đồ
ng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh
tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh về tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo cơ sở để ổn
định tiền tệ vững chắc. Trong thực tiễn, những biện pháp thường được áp dụng là:
* Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn
Do lư
u thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ nên nếu quỹ hàng hóa
được tạo ra có số lượng lớn, chất lượng cao, chủng loại phong phú thì đây là tiền đề
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-25-
vững chắc nhất để ổn định lưu thông tiền tệ, nhằm huy động tốt các nguồn lực để phát
triển kinh tế. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đúng đắn, trong đó cần chú trọng điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển ngành
mũi nhọn xuất khẩu.
* Kiểm soát thường xuyên thu chi Ngân sách Nhà nước
Chính sách thu phải khai thác và qu
ản lý chặt chẽ các nguồn thu, tăng thu từ
thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu
quả. Ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối
ngân sách tích cực làm cơ sở cho các cân đối khác trong nền kinh tế.
* Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Ở đây các nhà kinh tế chủ

trương cần phải xoá bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt
động của thị trường. Nếu quá trình cạnh tranh được nâng cao lên ở mức độ hoàn hảo
thì giá cả sẽ có xu hướng giảm xuống. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh
doanh cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đó giảm được chi phí sản xuất kinh
doanh, giảm được giá bán hàng hóa.
* Dùng lạm phát để chống lạm phát
Đối v
ới các quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai, tài
nguyên…Nhà nước có thể tăng chỉ số phát hành tiền để có nguồn lực tăng chi phí cho
việc mở rộng đầu tư và hy vọng các công trình đầu tư này mang lại hiệu quả và góp
phần kiềm chế lạm phát. Áp dụng biện pháp này đòi hỏi phải có một tiềm lực mạnh về
các yếu tố sản xuất, có trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý kinh tế
cao thì mới có thể thành công được.
V. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁT KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT NHẰM ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY
Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát cao kéo dài với những ảnh hưởng nặng
nề trong suốt thập kỷ 80, được coi như là hậu quả t
ất yếu của cơ chế quản lý kinh tế
thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan. Mặc dù lạm phát đã được kiềm chế ở
mức một con số trong những năm 90, nhưng sự bất ổn của nó cùng với những biểu
hiện lạm phát cao gần đây đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà làm chính sách. Căn cứ vào
mức độ, tính chất và nguyên nhân chủ yếu của lạ
m phát ở Việt Nam có thể được chia
thành các giai đoạn như sau:
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-26-
1. Giai đoạn 1976 - 1980
Lạm phát ở Việt Nam là lạm phát “ngầm” nghĩa là tuy chỉ số giá cả ở thị trường

có tổ chức tăng không nhiều bởi chính sách kiềm chế giá cả, nhưng chỉ số này ở thị
trường tự do lại tăng khá cao. Mặc dù vậy, mức giá cả chung tăng với tốc độ chậm bởi
vào thời gian này ở khu vực thị trường có tổ chức chi
ếm tỷ trọng quyết định trong
cung cấp hàng hóa tiêu dùng cho xã hội và thói quen hạn chế tiêu dùng trong chiến
tranh, điều này làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ cung cầu hàng hóa. Tuy nhiên,
tình trạng phát hành bù đắp sự thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước liên tục với số lượng
lớn nhằm bù lỗ, bù giá và thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội đã làm cho
mức giá chung thời kỳ 1976-1980 tăng 2,62 lần trong khi tổng sản lượng thực t
ế tăng
5,8%, thu nhập quốc dân tăng 1,5%.
2. Giai đoạn 1980-1989
Đây là thời kỳ lạm phát phi mã với chỉ số giá cả thưởng xuyên ở mức 3 con số.
Giá cả ở thị trường có tổ chức và thị trường tự do đều tăng mạnh. Trong đó giá cả thị
trường tự do tăng nhanh hơn kéo theo sự điều chỉnh giá trên thị trường có tổ chức.
Những ả
nh hưởng lạm phát bao trùm lên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, tiêu dùng, tài
chính tín dụng, đời sống nhân dân và sự ổn định của chế độ chính trị.
Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát thời kỳ này là do nhu cầu có khả năng thanh
toán tăng lên vượt xa so với khả năng cung ứng hàng hoá của xã hội. Lạm phát còn
xuất phát từ sự thiếu hiệu quả trong kinh doanh do sử dụng lao động và phân bổ các
nguồn lự
c xã hội không hợp lý, không tôn trọng yêu cầu hạch toán kinh tế dẫn đến làm
tăng giá thành sản phẩm và làm suy giảm mức sản lượng thực tế.
Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa của tất cả các vấn đề trên là do cơ chế quản lý
kinh tế quan liêu, mệnh lệnh dựa trên chế độ công hữu và Nhà nước nắm độc quyền
trên tất cả các lĩnh vực.
3. Giai đoạn 1990-2006
Trong giai đoạn này Chính phù đã thực hiện
đồng thời các giải pháp, trước hết

là các biện pháp hạn chế sự tăng cầu quá mức đã được áp dụng đem lại kết quả tức
thời: hạn chế chi tiêu ngân sách, khơi tăng nguồn thu, giảm bội chi, hạn chế và tiến tới
ngừng phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách (từ năm 1992). Chính sách tiền tệ
khan hiếm bắt đầu được sử dụng để kiể
m soát lượng cung tiền, cùng với sự thay đổi
trong khái niệm về tiền tệ cũng như quản lý tiền tệ, hệ thống ngân hàng đã được cải
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-27-
tiến theo hướng hiệu quả và chất lượng nhằm tăng cường hiệu lực của chính sách tiền
tệ. Chính sách lãi suất cao được áp dụng, lần đầu tiên sau nhiều thập kỳ người gửi tiền
tiết kiệm nhận được mức lãi suất dương.
Các giải pháp chiến lược nhằm tạo sự ổn định tiền tệ vững chắc vẫn tiếp tục
được hoàn thiệ
n trong suốt những năm của thập kỷ 90 và những năm đầu của thế kỳ
21: tăng cường hiệu lực chính sách tiền tệ, kết hợp với việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá
ngoại tệ, cải cách chính sách tài khoá, chính sách thuế, thực hiện cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để là cơ sở để duy trì mức lạm phát vừa phải
trong suốt những năm 1990-2006.
4. Lạm phát 2007 đến nay
Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm
soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007.
Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng
hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. Nếu chúng ta dùng các biện
pháp tác động tích cực thì tỷ lệ lạm phát nă
m 2008 có thể xoay quanh mức17% với chỉ
số giá tiêu dùng trong các tháng của năm 2008 được biểu diễn qua sơ đồ sau:


a. Nhận diện lạm phát ở Việt Nam hiện nay

Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-28-
Nhận diện lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm
phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát
càng trở nên phức tạp.
* Lạm phát tiền tệ
Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù
hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý
yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông
đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị
trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.
Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau:
- Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn: chi tiêu ngân sách năm sau cao
hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường
xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc ph
ục hậu quả của thiên tai Trong đó có
nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài,
tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền
mặt lớn ra thị trường.
- Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả: hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị
như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín d
ụng
phi ngân hàng, công ty bảo hiểm liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền
cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang
có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T)
mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công
thức:
D = T . V.
Lượng tiền D cân đối với hàng c

ần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định
trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D,
các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này
rất quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
- Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh: năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng
cao, kiều h
ối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với
lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng
tiền mặt trên thị trường tăng lên.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-29-
- Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán: thị trường chứng khoán phát triển
mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi
trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân
hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư
nước ngoài
Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người
dân trước giá cả thị trường t
ăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn
của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại
quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một
lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn.
Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T)
tăng lên quá nhiều, vượt xa l
ượng tiền mặt thực tế cần có.
* Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại
lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do
tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt

quá khả năng đáp
ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển
nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này
làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình
trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung
luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên
lạc, hạ tầng quá tải, công trình, dự án chậm tiến độ ). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ
lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất
cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn.
* Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong nă
m qua, nhiều loại
nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi
phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao
đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng
giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường
tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế t
ới lạm phát.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-30-
Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản
xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất
nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than,
khai thác đá, luyện cán thép sắp tới là ngành điện.
Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có
khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thờ
i kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá
dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng
nóng như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao.

Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng
cũng bao hàm việc nhập c
ả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó.
b.Những giải pháp kiềm chế lạm phát trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện
nay
Từ những vấn đề đã được nêu ở trên, trong ba loại lạm phát tích hợp xuất hiện trong
nền kinh tế thì lạm phát tiền tệ là nguy hiểm và khó kiềm chế, cần được quan tâm chú
ý đặc biệt. Những giải pháp được
đề xuất sẽ bao gồm cả trước mắt và lâu dài.
* Một là, cần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả.
Ngoài những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua có
thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù hợp, điều
chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi ngân sách:
- Việc cần làm trước m
ắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu
thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng
tỷ giá hối đoái là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản lý
lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của đồng tiền.
Trước mắt nên giảm hạn mứ
c tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm hạn
chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thông. Ngân hàng Nhà nước
cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng
thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng
tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền
tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quả
n lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ
tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác
phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng
quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng


-31-
Nhà nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng
thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ
được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế.
- Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương
trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập trung
ngân sách vào những công trình c
ấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên
chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành
các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng. Giảm chi phí
trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực và lãng phí.
- Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất ngân hàng
năng động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả n
ăm 12%, song mức hiện
tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi lưu thông. Tăng lãi
suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán, tới
tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác động tích cực tới kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên
thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm
ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một
số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập
khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng
tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam
gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán.
- Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho
bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh
lượ
ng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường

hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian.
Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán
trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao
hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân
phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ
thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự
tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã
hội tham gia.
Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

-32-
* Hai là, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế
Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng
trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ
hoạt động đầu tư cả Trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ
động điều chỉnh kế hoạch triể
n khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa
cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn
thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành
dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng.
- Đẩ
y mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất
là sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền
kinh tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
- Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả
vốn đầu tư huy động từ thị trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này
chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh
doanh tiền tệ.
Ba là, hạn chế tăng chi phí

- Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất. Để làm được
điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức,
kiểm tra chặt ch
ẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên
cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu.
Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi
mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động.
Tóm lại, lạm phát là hiện t
ượng của kinh tế thị trường mang tính khách quan, dù
muốn hay không chúng ta cũng vẫn phải đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh
nhìn nhận tìm hiểu bản chất sự việc để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy nhiên, để
thực hiện kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ bỏ
một số mục tiêu khác. Do đó, Nhà nước Việ
t Nam cần có sự tham khảo ý kiến của các
nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác
trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời.

×