Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

SỞ HỮU TRÍ TUỆ - LUẬT QUỐC TẾ VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ - 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.43 KB, 13 trang )

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
14
TRIPS, cùng với các điều tương ứng của Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Điều 211(a)(1) Đạo luật này của Hoa Kỳ nhằm cấm các giao dịch “liên quan đến nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh” trùng hoặc hầu như tương tự với một nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh được sử dụng gắn liền với một doanh nghiệp
hoặc tài sản đ
ã bị Chính phủ Cuba tịch thu, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ sở hữu
ban đầu, hoặc người kế thừa nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh đó.” Điều
211(a)(2) quy định rằng toà án bất kỳ của Hoa Kỳ cũng không được phép “công nhận, thi
hành hoặc phê chuẩn theo cách khác yêu cầu đòi quyền bất kỳ” của một “công dân được
chỉ định” trên cơ sở quyền theo lu
ật chung (luật án lệ) hoặc theo Điều 515305 Phần 31,
Bộ Quy chế Hoa Kỳ, theo đó Quy chế về Kiểm soát các tài sản của Cuba đã được ban
hành.
EC đã lập luận rằng điều 211(a) (1) trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với
Điều 6quinquies Công ước Pari và Điều 15.1 Hiệp định TRIPS. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết tranh chấp của WTO bác bỏ. Tuy nhiên, H
ội đồng giải quyết tranh chấp
đã chấp nhận lập luận của EC rằng điều 211(a)(2) không phù hợp với Điều 16.1 và Điều
42 Hiệp định TRIPS, nhưng không trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với các Điều
6bis và Điều 8 Công ước Pari và không trái với Điều 4 Hiệp định TRIPS. Hội đồng cũng
phán quyết rằng các tên thương mại không phải là một lo
ại quyền sở hữu trí tuệ được bao
hàm trong Hiệp định TRIPS. Cả hai bên đều đã khiếu nại các phán quyết này.
Hoa Kỳ lập luận rằng giải thích về Điều 211 của Hội đồng giải quyết tranh chấp là
một vấn đề của thực tiễn và do đó không thuộc thẩm quyền phán quyết của Hội đồng giải
quyết tranh chấp vốn được giới hạ
n ở các vấn đề về luật pháp. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết khiếu nại bác bỏ, tiếp theo phán quyết của Hội đồng này về vụ tranh chấp
giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ về việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho dược phẩm, theo đó


“luật pháp cấp tỉnh cũng có thể tạo thành chứng cứ về việc tuân thủ hay không tuân th

các nghĩa vụ quốc tế”
30
và do đó Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng có quyền xem xét
giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về ý nghĩa của Điều 211 đạo luật này của
Hoa Kỳ.
31

Vấn đề trong vụ tranh chấp này, theo đó nêu ra các câu hỏi về việc giải thích các
điều ước quốc tế, là các tên thương mại có được bao hàm bởi Hiệp định TRIPS hay
không. Điều 8 Công ước Pari quy định rằng tên thương mại “phải được bảo hộ ở tất cả
các nước thuộc Liên hiệp mà không phải thực hiện nghĩa vụ nộp đơn đăng ký, bất kể tên
thương m
ại đó có tạo thành một phần của nhãn hiệu hay không”. Hội đồng giải quyết
tranh chấp đã phán quyết rằng tên thương mại không thuộc các loại đối tượng sở hữu trí
tuệ mà Hiệp định TRIPS áp dụng. Hội đồng đã dựa vào Điều 1.2 Hiệp định TRIPS để đưa
ra kết luận, theo đó “Nhằm mục đích của Hiệp định này, thuật ngữ “sở h
ữu trí tuệ” đề cập
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
15
đến tất cả các phạm trù sở hữu trí tuệ là đối tượng của các Mục từ 1 đến 7 Phần II”. Áp
dụng các nguyên tắc giải thích quy định tại Điều 31 Công ước Viên, Hội đồng đã tuyên
bố rằng “cách giải thích theo đúng nguyên văn của Điều 1.2 là điều này đưa ra một định
nghĩa mang tính loại trừ và điều đó được khẳng định bởi cụm t
ừ “tất cả các phạm trù”,
trong đó từ “tất cả” chỉ ra rằng đây là một danh mục không đầy đủ”.
32
Về việc không
xuất hiện đối tượng tên thương mại trong các mục từ 1 đến 7 Phần II Hiệp định TRIPS,

Hội đồng đã xác nhận vấn đề này.
Hội đồng giải quyết khiếu nại không nhất trí với Hội đồng giải quyết tranh chấp về
vấn đề này. Hội đồng lưu ý rằng Điều 8 Công ước Pari chỉ liên quan đến tên thương mại
đã
được nhập vào Hiệp định TRIPS theo quy định tại Điều 2.1. Hội đồng giải quyết khiếu
nại đã dẫn chiếu đến tuyên bố trước đó của mình trong vụ US-Gasoline, rằng
Một trong số những hệ quả của “quy tắc giải thích chung” trong Công ước Viên là
việc giải thích phải đưa ra nghĩa và hiệu lực cho tất cả các điều khoản của một
đi
ều ước. Người giải thích không được tự do đưa ra một cách giải thích có thể dẫn
đến kết cục là làm cho cả các điều khoản hoặc các đoạn văn của một điều ước trở
nên thừa hoặc vô nghĩa.
33

Hội đồng giải quyết khiếu nại cho rằng giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp có
thể có nghĩa rằng việc đưa Điều 8 Công ước Pari vào Hiệp định TRIPS là vô nghĩa. Hội
đồng giải quyết khiếu nại cũng đã bác bỏ giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về
lịch sử đàm phán Hiệp định TRIPS. Cụ thể
, Hội đồng đã phản bác những tài liệu mà Hội
đồng giải quyết tranh chấp đã dựa vào để giải thích là không có sự đề cập đến tên thương
mại.
34

Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đưa ra một trong số những kết luận là điều 211
đạo luật của Hoa Kỳ không phù hợp với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS, cũng như Điều 8 của
Công ước Paris.



1

Nguyên tắc về việc các điều ước quốc tế phải được thi hành một cách thiện chí.
2
T. Cottier, ‘Dispute Settlement in the World Trade Organization: Characteristics
and Structural Implications for the European Union’ (1998) 35 Common Market Law Rev.
325.
3
UNDP, Human Rights and Human Development, New York, UNDP, 2000, 83-88.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
16

4
Xem UN Commission on Human Rights, Sub-Commission on Prevention of
Discrimination and Protection of Minorities, ‘Draft UN Declaration on the Rights
of Indigenous Peoples’ (1995) 34 ILM 541.
5
WTO, Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS50/R, 5 tháng 9 năm
1997, đoạn 7.18.
6
Trong cùng tài liệu nêu trên .
7
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.24.
8
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.27.
9
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.29.
10
Ví dụ, Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về vụ “Thuế của Hoa
Kỳ áp dụng cho dầu lửa và một số chất được nhập khẩu” ngày 17 tháng 6 năm
1987, BISD/34S/1, đoạn 5.2.2.
11

Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp của WTOWT/DS50/R, 5/9/1997, đoạn
7.30.
12
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 742.
13
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về ‘Việc bảo hộ patent của
Ấn Độ đối với dược phẩm và sản phẩm hoá nông”, 1997, đoạn 34-42.
14
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 45.
15
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 46.
16
Trong cùng tài liệu nêu trên
17
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 55.
18
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 57.
19
Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS170/R, 5/5/2000, đoạn 7.1.
20
Báo cáo của Cơ quan giải quyết khiếu nại, WT/DS170/170/AB/R, 17/9/2000, đoạn
53.
21
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 59-60.
22
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 72.
23
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 73.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
17


24
Báo cáo của Uỷ ban Tư pháp Hạ viện, Tiểu ban Toà án, và
Báo cáo của Hạ viện về vấn đề sở hữu trí tuệ số 94-1733, 94
th
Cong 2
nd
Sess. 75
(1976) được trích dẫn cùng tài liệu nêu trên, đoạn 2.5.
25
Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS160/R, 15/06/2000, đoạn 6.43.
26
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.53
27
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.55.
28
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.60-6.66.
29
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.265.
30
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS50/AB/R, được thông qua ngày
16/01/1998, đoạn 65.
31
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS176/AB/R, được thông qua
ngày 2/01/2002, đoạn 105.
32
Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS/176/R, 6/8/2001, đoạn 8.26.
33
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại, United States-Standards for
Reformulated and Conventional Gasoline, WT/DS2/AB/R, thông qua ngày

01/11/1996, đoạn 106.
34
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại trong tài liệu nêu trên, đoạn 339.

2. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883
Lịch sử
Trong suốt cuối thế kỷ 19, trước khi có sự ra đời của các công ước quốc tế trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp, việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp tại các quốc gia
khác nhau trên thế giới là khó kh
ăn vì luật pháp tại các nước này rất đa dạng. Hơn nữa,
đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế phải được nộp đồng thời tại tất cả các quốc gia
nhằm tránh hệ quả là việc công bố tại một quốc gia sẽ làm mất tính mới của sáng chế đó
tại các quốc gia khác. Những vấn đề thực tiễn này đã thúc đẩy mong muốn khắ
c phục
được các trở ngại đó.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
18

Trong nửa cuối thế kỷ 19, sự phát triển của công nghệ theo xu hướng quốc tế hoá
và sự tăng trưởng của thương mại quốc tế khiến cho việc hài hoà hoá pháp luật về sở hữu
công nghiệp về cả lĩnh vực nhãn hiệu và sáng chế trở nên cấp thiết.
Khi Chính phủ hai nước Áo-Hungary mời các quốc gia khác tham dự một triển lãm
quốc tế về sáng chế được tổ ch
ức tại Viên năm 1873 thì một thực tế đã cản trở sự tham dự
này là nhiều khách mời nước ngoài không sẵn sàng trưng bày các sáng chế của họ tại triển
lãm đó do chưa có sự bảo hộ pháp lý thoả đáng đối với các sáng chế được mang đến triển
lãm đó.
Điều này dẫn đến hai xu hướng: thứ nhất, một luật đặc biệt của Áo bảo đảm s
ự bảo
hộ tạm thời cho sáng chế, nhãn hiệu, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của tất cả những

người nước ngoài tham gia triển lãm đó. Thứ hai, Hội nghị Viên về cải cách chế độ bảo
hộ sáng chế đã được nhóm họp trong cùng năm đó, năm 1973. Hội nghị đã soạn thảo một
số nguyên tắc là cơ sở cần có của một hệ thố
ng sáng chế hữu ích và có hiệu quả và cũng
đã thúc giục các chính phủ “phải tạo ra một thoả thuận sơ bộ quốc tế về bảo hộ sáng chế
càng sớm càng tốt.”
Tiếp theo Hội nghị Viên, một Hội nghị quốc tế về sở hữu công nghiệp đã được
nhóm họp tại Pari năm 1878. Kết quả chính của hội nghị này là một quyết định rằ
ng một
trong số các chính phủ được yêu cầu phải triệu tập một hội nghị ngoại giao quốc tế “với
nhiệm vụ là xác định cơ sở của một hệ thống pháp luật thống nhất” trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp.
Sau hội nghị đó, bản dự thảo cuối cùng đề xuất thành lập một “hiệp hội” quốc tế về
bảo hộ sở hữu công nghiệp đã được chuẩn bị tại Pháp và đã được Chính phủ Pháp gửi tới
nhiều quốc gia khác cùng với lời mời tham dự Hội nghị quốc tế vào năm 1880 tại Pari.
Hội nghị quốc tế đó đã thông qua một bản dự thảo công ước mà về cơ bản bao gồm
những quy định chủ yếu của Công ước Pari ngày nay.
N
ăm 1883, một Hội nghị ngoại giao mới được nhóm họp tại Pari, kết thúc bằng
việc ký kết và thông qua lần cuối cùng Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Công ước Pari đã được 11 quốc gia tham gia ký kết: Bỉ, Bra-xin, El Sanvado, Pháp,
Guatemala, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Secbia, Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ. Khi Công ước
có hiệu lực vào ngày 7 tháng 7 năm 1884 thì Vương quốc Anh, Tuynidi và Ecuado cũng
đã tham gia Công ước, khiến số lượng thành viên ban đầu tăng lên thành 14. Chỉ trong
vòng một ph
ần tư đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ II, số lượng
thành viên của Công ước Pari đã tăng lên đáng kể.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
19


Công ước Pari đã được sửa đổi nhiều lần từ sau khi được ký kết vào năm 1883.
Mỗi một hội nghị sửa đổi, bắt đầu từ Hội nghị Brussel năm 1990, đều kết thúc bằng việc
thông qua một Văn kiện sửa đổi của Công ước Pari.Trừ những văn kiện tại hội nghị sửa
đổi Brussel (năm 1897 và 1900) và Washington D.C. (năm 1911) không còn hiệu lực, tất
c
ả những văn kiện trước đó vẫn có ý nghĩa, mặc dù phần lớn các quốc gia hiện nay đều là
thành viên của văn kiện mới nhất, Văn kiện Stockholm năm 1967.
Các quy định cơ bản
Các quy định của Công ước Pari có thể được chia thành bốn phạm trù chính:
- phạm trù thứ nhất bao gồm những nguyên tắc của luật nội dung về bảo đảm
quyền cơ bản – chế
độ đối xử quốc gia – tại mỗi quốc gia thành viên;
- phạm trù thứ hai thiết lập một quyền cơ bản khác, đó là quyền hưởng ưu tiên;
- phạm trù thứ ba xác định một số nguyên tắc chung trong lĩnh vực luật nội dung,
bao gồm các nguyên tắc xác lập quyền và nghĩa vụ của các thể nhân và pháp nhân, hoặc
những nguyên tắc yêu cầu hoặc cho phép các quốc gia thành viên được xây dựng luật
pháp theo những nguyên tắc
đó;
- phạm trù thứ tư giải quyết về khuôn khổ hành chính được tạo lập để thực thi
Công ước và những điều khoản cuối cùng của Công ước.
Đối xử quốc gia
Đối xử quốc gia có nghĩa là, liên quan đến việc bảo hộ sở hữu công nghiệp, mỗi
quốc gia thành viên Công ước Pari phải dành sự bảo hộ cho công dân của các quốc gia
thành viên khác như sự bảo hộ đượ
c dành cho công dân của nước mình. Các điều khoản
có liên quan được quy định tại Điều 2 và 3 của Công ước.
Chế độ đối xử quốc gia còn được trao cho công dân của những nước không phải là
thành viên của Công ước Pari nhưng họ cư trú tại một quốc gia thành viên hoặc nếu họ có
cơ sở công nghiệp hoặc thương mại “có hiệu quả và có thực” tại quốc gia đó. Tuy nhiên,
không đặt ra yêu cầu về

cư trú hoặc cơ sở kinh doanh tại nước được yêu cầu bảo hộ như
là một điều kiện để được hưởng sự bảo hộ đối với công dân của các quốc gia thành viên.
Nguyên tắc đối xử quốc gia không chỉ bảo đảm rằng những người nước ngoài sẽ
được bảo hộ mà họ còn không bị phân biệt đối xử theo cách thức bất kỳ. Thường thì sẽ rất
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
20

khó khăn và đôi khi không thể có được sự bảo hộ thoả đáng cho sáng chế, nhãn hiệu và
các đối tượng sở hữu công nghiệp khác ở nước ngoài nếu không có nguyên tắc này.
Nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng trước hết cho tất cả các “công dân” của
các quốc gia thành viên. Thuật ngữ “công dân” bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Đối
với pháp nhân, có thể sẽ gặp khó khăn khi xác định pháp nhân đó mang quốc tịch củ
a
quốc gia nào. Nói chung, thường thì các pháp nhân không thể có nhiều quốc tịch theo
nhiều luật quốc gia khác nhau theo nghĩa hẹp của từ này (từ quốc tịch). Tất nhiên, các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước của một quốc gia thành viên hoặc các pháp nhân
khác được thành lập theo luật công của quốc gia đó phải được coi là công dân của quốc
gia thành viên này. Các pháp nhân được thành lập theo luật tư của một quốc gia thành
viên thường sẽ là công dân của quốc gia
đó. Nếu họ có trụ sở chính đặt tại một quốc gia
thành viên khác thì họ cũng có thể được coi là công dân của nước mà họ đặt trụ sở. Theo
Điều 2(1), nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng với tất cả các điều kiện thuận lợi mà
luật pháp của các quốc gia khác nhau dành cho công dân.
Quyền ưu tiên
Quyền ưu tiên có nghĩa là trên cơ sở một đơn hợp lệ
yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp do một người nộp tại một trong số các quốc gia thành viên, chính người này
(hoặc người được kế thừa quyền này), trong một thời hạn nhất định (6 hoặc 12 tháng) có
thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên khác. Những đơn nộp sau sẽ
được coi như được nộp cùng ngày với đơn nộp sớ

m nhất. Vì vậy, những đơn nộp sau
được hưởng quyền ưu tiên đối với tất cả các đơn liên quan tới cùng một sáng chế được
nộp sau ngày đơn đầu tiên được nộp. Các đơn này cũng sẽ được hưởng chế độ ưu tiên đối
với tất cả những hành động được tiến hành sau ngày đó mà thường có khả năng làm mất
quyền của người nộp đơ
n hoặc làm mất khả năng được cấp bằng độc quyền sáng chế cho
sáng chế của người nộp đơn. Những quy định liên quan tới quyền ưu tiên được đề cập tại
Điều 4 của Công ước.
Quyền ưu tiên tạo ra nhiều thuận lợi về mặt thực tế đối với người nộp đơn muốn có
được sự bảo hộ tại nhi
ều quốc gia. Người nộp đơn không buộc phải nộp tất cả các đơn tại
nước mình và nước ngoài vào cùng một thời điểm bởi người nộp đơn có 6 hoặc 12 tháng
tuỳ theo sự lựa chọn của mình để quyết định yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào. Người nộp
đơn có thể sử dụng thời hạn này để tổ chức thực hiện các bướ
c nhằm tìm kiếm sự bảo hộ
ở các nước khác nhau trong từng trường hợp cụ thể.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
21

Người được hưởng quyền ưu tiên là người bất kỳ có quyền được hưởng lợi từ
nguyên tắc đối xử quốc gia, nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc một
quyền sở hữu công nghiệp khác một cách hợp lệ tại một trong số các quốc gia thành viên.
Quyền ưu tiên chỉ có thể dựa trên đơn đầu tiên đối với cùng một quyền sở hữu
công nghiệp mà đã được nộp tại một quốc gia thành viên. Vì vậy, không thể căn cứ vào
đơn thứ hai, có thể là một đơn sửa đổi và sau đó sử dụng đơn thứ hai này như cơ sở hưởng
quyền ưu tiên. Lý do của nguyên tắc này là rõ ràng: một đơn yêu cầu bảo hộ không thể
cho phép một chuỗi bất tận các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên cho cùng một đố
i tượng, bởi
trên thực tế điều này có thể kéo dài đáng kể thời hạn bảo hộ cho đối tượng đó.
Điều 4A91) của Công ước Pari thừa nhận một cách rõ ràng rằng quyền ưu tiên

cũng có thể được áp dụng cho người kế thừa của người nộp đơn đầu tiên. Quyền ưu tiên
cũng có thể được chuyển giao cho người kế thừa mà không gắn vớ
i việc chuyển giao
đồng thời đơn đầu tiên. Đặc biệt, điều này cũng cho phép chuyển giao quyền ưu tiên cho
những người khác nhau ở những nước khác nhau, một thông lệ đã trở nên phổ biến.
Đơn sau phải đề cập tới cùng một đối tượng như đơn đầu tiên, là cơ sở yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên. Nói cách khác, đối tượng của cả hai đơn đều phải cùng là m
ột sáng
chế, một mẫu hữu ích, một nhãn hiệu hoặc một kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, có thể
sử dụng đơn đầu tiên yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế làm cơ sở hưởng
quyền ưu tiên cho đăng ký mẫu hữu ích và ngược lại. Sự thay đổi hình thức bảo hộ tương
tự theo cả hai hướng như vậy cũng có thể được thực hiệ
n giữa mẫu hữu ích và kiểu dáng
công nghiệp, phù hợp với luật pháp quốc gia.
Đơn đầu tiên phải được “nộp một cách hợp lệ” nhằm tạo cơ sở cho việc yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên. Mọi việc nộp đơn tương đương với việc nộp đơn quốc gia hợp lệ
đều là cơ sở hợp lệ cho việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Vi
ệc nộp đơn quốc gia hợp lệ
có nghĩa là việc nộp đơn bất kỳ đủ để xác lập ngày nộp đơn ở nước có liên quan. Khái
niệm đơn “quốc gia” bao gồm cả những đơn được nộp theo các điều ước song phương
hoặc đa phương được ký kết giữa các quốc gia thành viên.
Việc huỷ bỏ, rút, từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả nă
ng là cơ sở yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên của đơn này. Quyền ưu tiên vẫn tồn tại ngay cả khi đơn đầu tiên là
cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đó không còn tồn tại.
Hiệu lực của quyền ưu tiên được quy định tại Điều 4B. Có thể tóm tắt quy định này
như sau, như một hệ quả của yêu cầu hưởng quy
ền ưu tiên, đơn nộp sau phải được coi
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
22


như đã được nộp vào thời điểm nộp đơn của đơn đầu tiên ở một nước thành viên khác, là
cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn đó. Bởi hệ quả của quyền ưu tiên, tất
cả những hoạt động diễn ra trong suốt thời gian từ ngày nộp đơn của đơn đầu tiên và đến
những đơ
n nộp sau, được gọi là giai đoạn ưu tiên, không thể làm mất quyền mà là đối
tượng của đơn nộp sau.
Về ví dụ cụ thể, điều này có nghĩa là đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế
cho cùng một sáng chế được một bên thứ ba nộp trong giai đoạn ưu tiên sẽ không tạo ra
quyền ưu tiên, mặc dù đơn đó được nộp trước cả
đơn nộp sau. Tương tự, một sự công bố
hoặc việc sử dụng công khai sáng chế mà là đối tượng của đơn nộp sau trong giai đoạn ưu
tiên sẽ không làm mất tính mới hay trình độ sáng tạo của sáng chế đó. Vì mục đích đó,
không cần quan tâm đến việc công bố do người nộp đơn hay do chính tác giả sáng chế
hay một bên thứ ba thực hiện.
Độ dài của giai đoạn ư
u tiên đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là khác
nhau. Đối với bằng độc quyền sáng chế và mẫu hữu ích, giai đoạn ưu tiên là 12 tháng, đối
với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu thì thời hạn này là 6 tháng. Khi xác định độ dài
của giai đoạn ưu tiên, Công ước Pari đã phải tính đến những lợi ích xung đột giữa người
nộp đơn và các bên thứ ba. Giai đoạn ưu tiên hiện được quy
định trong Công ước Pari
dường như đã tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa hai chủ thể này.
Quyền ưu tiên được Công ước thừa nhận cho phép yêu cầu hưởng quyền “ưu tiên
kép” và “ưu tiên từng phần”. Vì vậy, đơn nộp sau không chỉ có thể yêu cầu quyền ưu tiên
trên cơ sở một đơn nộp sớm hơn mà còn có thể kết hợp quyền ưu tiên trên cơ sở nhiều
đơ
n nộp trước mà mỗi đơn trước đó có liên quan đến những điểm khác nhau của đối
tượng nêu trong đơn nộp sau. Hơn nữa, trong đơn nộp sau, các yếu tố có yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên có thể được kết hợp với những yếu tố không hưởng quyền ưu tiên. Trong

tất cả những trường hợp này, tất nhiên là đơn nộp sau phải phù hợp với yêu cầu về
tính
thống nhất của sáng chế.
Những khả năng này phù hợp với một nhu cầu thực tế. Thường thì sau khi nộp đơn
lần đầu tiên, những cải tiến hay bổ sung đối với sáng chế mà là đối tượng của những đơn
nộp sau tại nước xuất xứ. Trong những trường hợp như vậy, rất thiết thực khi kết hợp
những đơn nộ
p trước thành một đơn nộp sau và tiến hành nộp đơn này ở một nước thành
viên khác trước khi kết thúc năm ưu tiên. Sự kết hợp này có tính khả thi ngay cả trong
trường hợp các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên kép bắt nguồn từ các quốc gia thành viên
khác nhau.
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
23

Các quy định liên quan đến patent
Sự độc lập của các bằng độc quyền sáng chế
Bằng độc quyền sáng chế được cấp ở các quốc gia thành viên cho công dân hay
người cư trú tại các quốc gia thành viên phải được coi là độc lập với các bằng độc quyền
sáng chế cấp cho cùng một sáng chế ở các nước khác, kể cả các quốc gia không phải là
thành viên. Nguyên tắc về “tính độc lập” của các bằng độc quyề
n sáng chế này được quy
định tại Điều 4bis.
Lý do cơ bản và luận điểm chính của nguyên tắc này là luật pháp và các thông lệ
hành chính quốc gia thường khác nhau. Một quyết định không cấp hoặc huỷ bỏ hiệu lực
một bằng độc quyền sáng chế ở một nước nhất định trên cơ sở luật pháp của nước này
thường sẽ không liên quan đến hoàn cảnh pháp lý khác nhau ở các nước khác. Sẽ là
không hợp lý khi độc quyền của chủ sở hữu sáng chế ở các nước khác bị mất với lý do
người đó bị mất độc quyền đối với sáng chế ở một nước cụ thể vì không nộp lệ phí duy trì
hiệu lực ở nước đó, hoặc với lý do bằng độc quyền sáng chế bị huỷ bỏ hiệu lực ở nước đó
vì mộ

t lý do mà luật pháp của các nước khác đó không quy định.
Một điểm đặc biệt của nguyên tắc độc lập của bằng độc quyền sáng chế được quy
định tại Điều 4bis(5). Điều khoản này quy định bằng độc quyền sáng chế được cấp trên cơ
sở một đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của một hoặc nhiều đơn được nộp ở nước
ngoài phải có thời hạn hiệu lực bằng thời hạn hiệu lực như thể các bằng độc quyền sáng
chế đó được cấp mà không có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.
Nhập khẩu, không khai thác và li-xăng cưỡng bức
Các vấn đề về việc nhập khẩu các vật phẩm chứa sáng chế, việc không thực hiện
sáng chế đã được cấp bằng
độc quyền và li-xăng cưỡng bức được quy định tại Điều 5.A
của Công ước. Đối với vấn đề nhập khẩu, điều này quy định rằng việc nhập khẩu bởi chủ
bằng độc quyền vào một quốc gia nơi bằng độc quyền sáng chế được cấp, các vật phẩm
chứa sáng chế và được sản xuất tại quốc gia bất k
ỳ của Liên hiệp sẽ không dẫn đến việc
tước quyền theo bằng độc quyền sáng chế đó.
Đối với việc khai thác bằng độc quyền sáng chế và li-xăng cưỡng bức, bản chất
của các quy định tại Điều 5A là mỗi quốc gia có thể tiến hành các biện pháp pháp lý quy
định việc cấp li-xăng cưỡng bức. Những li-xăng cưỡng bức này nhằm ngăn chặn sự
lạm
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
24

dụng có thể nảy sinh từ độc quyền được cấp theo bằng độc quyền sáng chế, ví dụ việc
không khai thác sáng chế hoặc khai thác sáng chế không đầy đủ.
Việc cấp li-xăng cưỡng bức căn cứ vào việc không khai thác hoặc khai thác không
đầy đủ là biện pháp cưỡng bức thông dụng nhất chống lại chủ sở hữu để ngăn chặn sự lạm
dụng quyền được cấ
p theo bằng độc quyền sáng chế. Việc này được quy định rõ ràng tại
Điều 5A.
Lý lẽ chính cho việc bắt buộc khai thác một sáng chế tại một quốc gia cụ thể là sự

cân nhắc rằng, để thúc đẩy việc công nghiệp hoá của một quốc gia, các bằng độc quyền
sáng chế không nên được sử dụng chỉ để ngăn cản việc khai thác sáng chế đó tại nước đó
ho
ặc để dành độc quyền nhập khẩu vật phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế cho
chủ sở hữu. Đúng hơn là chế độ độc quyền sáng chế nên được sử dụng để du nhập công
nghệ mới vào nước đó. Nhưng việc chủ bằng độc quyền có thực sự muốn làm vậy hay
không thì trước hết họ cần cân nhắc v
ề mặt kinh tế và sau đó là về thời gian. Việc khai
thác sáng chế ở tất cả các nước thường không có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, có một sự
thừa nhận chung rằng việc khai thác ngay tức khắc tại tất cả các nước là điều không khả
thi. Do đó, Điều 5A đã cố gắng tạo ra sự cân bằng giữa các lợi ích xung đột này.
Không được phép cấp li-xăng cưỡ
ng bức do không khai thác sáng chế hoặc khai
thác sáng chế không đầy đủ trước khi kết thúc một thời hạn nhất định. Thời hạn này sẽ hết
hạn hoặc là 4 năm kể từ ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc 3 năm
kể từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế. Thời hạn được áp dụng cho từng trường hợp là
thời hạn k
ết thúc sau.
Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên là thời hạn tối thiểu. Chủ sở hữu bằng độc
quyền phải được dành thời hạn dài hơn nếu người đó có thể đưa ra được những lý do hợp
pháp cho sự không hành động của mình – ví dụ các trở ngại về mặt pháp lý, kinh tế hoặc
kỹ thuật cản trở việc khai thác hoặc khai thác mở rộng sáng chế ở
trong nước. Nếu điều
đó được chứng minh thì yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức phải bị từ chối, ít nhất là trong
một thời hạn nhất định. Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên cũng là thời hạn tối thiểu
theo nghĩa luật quốc gia có thể quy định thời hạn dài hơn.
Li-xăng cưỡng bức do không khai thác hoặc khai thác không đầy đủ phải là một li-
x
ăng không độc quyền và chỉ có thể được chuyển giao cùng với doanh nghiệp được
hưởng lợi từ li-xăng cưỡng bức đó. Chủ sở hữu bằng độc quyền phải được giữ lại quyền

cấp các li-xăng không độc quyền khác và quyền tự mình khai thác sáng chế. Ngoài ra, vì
li-xăng cưỡng bức được cấp cho một doanh nghiệp cụ thể trên cơ sở năng lực đã bi
ết của
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
25

doanh nghiệp đó, nó sẽ ràng buộc với doanh nghiệp đó và không thể được chuyển giao
riêng rẽ với doanh nghiệp. Những hạn chế này nhằm ngăn chặn một người được cấp li-
xăng cưỡng bức dành được lợi thế hơn trên thị trường hơn là được bảo đảm bởi mục đích
của li-xăng cưỡng bức, đó là bảo đảm khai thác đầy đủ sáng chế
đó ở trong nước.
Tất cả những quy định đặc biệt về cấp li-xăng cưỡng bức này nêu tại Điều 5A(4)
chỉ được áp dụng cho các li-xăng cưỡng bức vì lý do không khai thác hoặc khai thác một
cách không đầy đủ. Các quy định này không được áp dụng cho các loại li-xăng cưỡng bức
khác mà luật quốc gia được tự do quy định. Các loại li-xăng cưỡng bức khác đó có thể
được cấp để
ngăn ngừa những sự lạm dụng khác, ví dụ giá quá cao hoặc các điều kiện
không hợp lý đối với một li-xăng theo hợp đồng hoặc các biện pháp hạn chế khác làm tổn
hại đến sự phát triển công nghiệp.
Li-xăng cưỡng bức cũng có thể được cấp với lý do bảo đảm lợi ích công cộng
trong trường hợp không có sự lạm dụng quyền của chủ s
ở hữu bằng độc quyền sáng chế,
ví dụ trong lĩnh vực an ninh quốc phòng hoặc sức khoẻ cộng đồng.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Điều 31 Hiệp định TRIPS còn quy định một số điều
kiện đối với việc sử dụng đối tượng của một bằng độc quyền sáng chế mà không được sự
cho phép của người nắm quyền.
Giai đo
ạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực
Điều 5bis quy định về giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực
quyền sở hữu công nghiệp và việc khôi phục hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trong

trường hợp không nộp lệ phí duy trì hiệu lực.
Các quy định liên quan đến nhãn hiệu
Sử dụng nhãn hiệu
Đi
ều 5C(1) liên quan đến việc sử dụng bắt buộc nhãn hiệu đã được đăng ký. Một
số nước quy định việc đăng ký nhãn hiệu cũng yêu cầu rằng một khi nhãn hiệu đã được
đăng ký thì nhãn hiệu đó phải được sử dụng trong một thời hạn nhất định. Nếu việc sử
dụng không được đáp ứng, nhãn hiệu có thể bị xoá khỏi đăng bạ
. Nhằm mục đích này,
thuật ngữ “sử dụng” thường được hiểu là việc bán hàng hoá mang nhãn hiệu, mặc dù luật
pháp quốc gia có thể quy định rộng hơn về cách thức sử dụng nhãn hiệu để đáp ứng yêu
cầu này. Điều khoản trên quy định rằng khi có yêu cầu về việc bắt buộc sử dụng, đăng ký
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
26

nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ do việc không sử dụng nhãn hiệu chỉ sau một thời hạn hợp lý
và nếu chủ sở hữu không thể biện minh được cho việc không sử dụng đó.
Định nghĩa về “thời hạn hợp lý” được dành cho pháp luật quốc gia của các nước có
liên quan quy định, hoặc nếu không thì dành cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
những trường hợp như vậ
y. Thời hạn hợp lý này được đặt ra nhằm tạo cho chủ sở hữu
nhãn hiệu thời gian và cơ hội đủ để chuẩn bị cho việc sử dụng thích hợp, có tính đến thực
tế là trong nhiều trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng nhãn hiệu của mình ở
nhiều nước.
Biện minh của chủ sở hữu nhãn hiệu về việc không s
ử dụng có thể được chấp nhận
nếu điều đó là do các hoàn cảnh kinh tế hoặc pháp lý vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chủ
sở hữu nhãn hiệu, ví dụ nếu chính phủ có các quy định cấm hoặc trì hoãn nhập khẩu các
hàng hoá gắn nhãn hiệu.
Giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí gia hạn

Điều 5bis quy định một giai đoạn ân hạn đố
i với việc nộp lệ phí duy trì các quyền
sở hữu công nghiệp. Đối với nhãn hiệu, quy định này chủ yếu liên quan đến việc nộp phí
gia hạn, vì nhờ việc gia hạn mà đăng ký nhãn hiệu (và do đó quyền phụ thuộc vào đăng
ký đó) được duy trì. Việc không gia hạn đăng ký nhãn hiệu thường sẽ kéo theo việc mất
hiệu lực của đăng ký đó và trong một số trường hợp sẽ làm ch
ấm dứt quyền đối với nhãn
hiệu. Giai đoạn ân hạn được quy định theo Công ước nhằm giảm bớt nguy cơ mất nhãn
hiệu do sự chậm trễ ngoài ý muốn trong việc nộp phí gia hạn.
Tính độc lập của các nhãn hiệu
Điều 6 Công ước thiết lập một nguyên tắc quan trọng về tính độc lập của các nhãn
hiệu ở các quốc gia thành viên khác nhau của Liên hiệp, và đặc biệt là s
ự độc lập của các
nhãn hiệu được nộp đơn hoặc được đăng ký ở nước xuất xứ với những nhãn hiệu được
nộp đơn hoặc được đăng ký ở các quốc gia khác trong Liên hiệp.
Nhãn hiệu nổi tiếng
Điều 6bis buộc một quốc gia thành viên phải từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký hoặc
cấm sử dụng một nhãn hiệu có khả
năng gây nhẫm lẫn với một nhãn hiệu khác đã nổi
tiếng tại quốc gia thành viên đó. Quy định tại Điều này nhằm mở rộng sự bảo hộ đối với
một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng ở một quốc gia thành viên ngay cả khi nhãn hiệu đó
chưa được đăng ký hoặc sử dụng ở quốc gia đó. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổ
i tiếng không

×