Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TOÀN CẦU HOÁ VÀ VẤN ĐỀ “PHẢN ỨNG BẢN SẮC” TRONG VĂN HOÁ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.28 KB, 17 trang )

TOÀN CẦU HOÁ VÀ VẤN ĐỀ
“PHẢN ỨNG BẢN SẮC” TRONG VĂN HOÁ
(trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long)

PGS. TS. Đinh Ngọc Thạch
Trường ĐH KHXH & NV, TP.
HCM

“Phản ứng bản sắc” là cách thức đáp trả lại những tác động từ bên
ngoài đến bản sắc của một dân tộc, những tác động làm biến dạng nó, hay
nói khác đi, làm mất “nguyên bản” của nó. Phản ứng có thể diễn ra khác
nhau, phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của chủ thể tiếp nhận và xử lí
các giá trị du nhập từ bên ngoài.

1. Toàn cầu hoá đã và đang trở thành xu thế tất yếu, chi phối các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ kinh tế đến văn hoá, từ kĩ thuật, công nghệ đến chính trị, tư
tưởng. Ngay cả những quốc gia bị đánh giá là bảo thủ trong quan hệ với thế giới
bên ngoài, cũng không tránh khỏi những tác động của toàn cầu hoá. Sức mạnh chi
phối của toàn cầu hoá thể hiện không chỉ trong kinh tế, mà còn lan rộng sang hệ
thống chính trị, và từ đó tác động đến hoạt động kinh tế, văn hoá, trước hết là ở
định hướng phát triển của chúng. Nên hiểu điều này như thế nào?
Do chức năng của mình mà hệ thống chính trị của mỗi quốc gia cần đón nhận
và xử lí các vấn đề toàn cầu ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp nhân dân,
quyền lợi của quốc gia. Nếu hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả, với những
con người vận hành hệ thống ấy thật sự linh hoạt, khôn ngoan, thì quốc gia được
hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hoá, liên kết quốc tế và hội nhập. Ngược lại, hệ
thống chính trị kém cỏi, xơ cứng, với những con người bảo thủ, định kiến, thiếu
năng động, thiếu bản lĩnh và sự nhạy bén nắm bắt cái mới, chỉ có thể chú trọng
đến viêc đối phó với toàn cầu hoá hơn là đề ra và thực hiện đường lối phát triển
phù hợp với xu thế chung. Bài học của mô hình chủ nghĩa xã hội cửa quyền, quan
liêu, bao cấp vẫn còn đó, để lại không ít di chứng trong hệ thống chính trị hiện nay,


mặc dù sự nghiệp đổi mới đã diễn ra đã hai mươi năm. Tồn tại từ những năm 50
của thế kỉ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa, do Liên Xô đứng đầu, với hạt nhân là
các nước trong khối “Hội đồng tương trợ kinh tế” (SEV), biến nhà nước thành
“pháo đài tự phong toả”, cắt đứt mối liên hệ kinh tế và văn hoá với phần còn lại
của thế giới. Thứ tư duy thời “chiến tranh lạnh” ấy được biện minh bằng những
luận điểm không thể chối cãi về nguy cơ hoà tan hai hệ thống vào một và đánh
mất diện mạo chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ là có thật; vấn đề
là ở chỗ nên hiểu nó như thế nào và xử lí ra sao để “hội nhập” nhưng không “hoà
tan”, đẩy mạnh liên kết với bên ngoài nhưng vẫn đảm bảo ổn định bên trong.
Toàn cầu hoá như một xu thế tất yếu chỉ mới được chúng ta thừa nhận và đặt
mình trong xu thế ấy từ đầu những năm 90. Hệ thống chính trị cũng trải qua những
điều chỉnh, đổi mới cần thiết, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của hội nhập, trước hết
là hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó nó vẫn tiếp tục hoàn thiện mình dưới tác động
của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên hệ thống chính trị chỉ tỏ ra có hiệu quả nếu vận
hành trong mối quan hệ hài hoà với các thành tố xã hội, nhất là lĩnh vực văn hoá,
là lĩnh vực chịu tác động của toàn cầu hoá hết sức nhanh chóng và có tính lan tỏa.
Điều này không khó giải thích, bởi lẽ bản thân quá trình toàn cầu hoá, dù muốn
hay không, cũng mang trên mình nó nhân tố văn hoá, trước hết là văn hoá tinh
thần.
Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và toàn cầu hoá ngay từ đầu đã đã vận
động trong môi trường văn hoá châu Âu, nên khi thâm nhập vào các quốc gia khác,
chẳng hạn quá trình thực dân hoá diễn ra vào thế kỉ XIX, cũng kéo theo những
biến chứng văn hoá đối với người bản địa. Môi trường văn hoá của chủ nghĩa tư
bản đã được chuẩn bị từ thời Phục hưng, là thời đại sản sinh ra những con người
khổng lồ, tạo nên diện mạo văn hoá nhân văn như sự thách thức đối với nền
chuyên chính tinh thần của nhà thờ, giải phóng cá nhân ra khỏi tín điều và uy
quyền tư tưởng[i][1]. Ngay cả sinh hoạt tôn giáo cũng chịu ảnh hưởng của văn hoá
đó, mà điển hình là phong trào Cải cách tôn giáo vào đầu thế kỉ XVI do Luther và
Calvin đứng đầu, với những tuyên bố phù hợp với thời đại tư bản chủ nghĩa đang
đến gần, như “cần biết quý sức lao động của mình”, “làm giàu không phải là tội

lỗi”, “hãy biết sống dung dị và tiết kiệm” v.v. Phong trào đó cũng góp phần hình
thành các quốc gia dân tộc tư sản và sự phân cực Bắc - Nam trên bản đồ chính trị
châu Âu.
Khoa học thực nghiệm đặt ra cho mình mục tiêu đưa tri thức đến với thực
tiễn, nhấn mạnh “tri thức là quyền lực”, báo trước kỉ nguyên bùng nổ sáng tạo
khoa học và ứng dụng công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những
nhân tố tạo nên môi trường văn hoá của chủ nghĩa tư bản tiếp tục thống trị trong
thời đại ngày nay, khi mà toàn cầu hoá vẫn còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của các
cường quốc tư bản chủ nghĩa. Nền văn hóa mới được xác lập trong quá trình đấu
tranh giải phóng cá nhân khỏi chủ nghĩa phổ quát Kytô giáo Trung cổ, do đó nó
sẵn sàng chấp nhận tính độc đáo, không lặp của mỗi cá nhân như chủ thể sáng tạo,
nghĩa là chấp nhận sự “lệch chuẩn” trong hoạt động để phát hiện cái mới, với triết
lý hết sức biện chứng rằng, có những quan niệm hôm qua là chân lý, là chuẩn mực
phổ biến, nhưng hôm nay, do sự vận động của thực tiễn xã hội, có thể trở thành cái
không phù hợp, cá biệt, và ngược lại.
Bên cạnh đó, trong môi trường nhà nước pháp quyền – thành quả của các
cuộc cách mạng tư sản, không gian văn hóa dường như dành cho mọi công dân,
thay cho chế độ đẳng cấp và sự thống trị của uy quyền tư tưởng, vốn là đặc trưng
của xã hội trước. Song văn hóa thực dụng cũng mang tính hai mặt, thể hiện bản
chất của xã hội tư sản. Một mặt, văn hóa thực dụng nhấn mạnh tính hiệu quả,
hướng đến đông đảo công chúng thông qua sự đa dạng của các môtíp và thứ bậc
sáng tạo. Mặt khác, tư duy thực dung trong văn hóa ngày nay rất có thể đụng chạm
đến những chuẩn mực, những giá trị truyền thống của nhiều dân tộc, nhất là những
dân tộc non trẻ, vừa thoát khỏi bóng mây của chủ nghĩa thực dân, đang thực hiện
những bước đi đầu tiên khẳng định bản ngã của mình.
Thứ nhất, thực dụng hoá trong hoạt động gây nên hiệu ứng tiêu cực trong các
quan hệ xã hội, trong lối sống và văn hoá ứng xử. Thứ hai, chủ nghĩa cá nhân, vốn
mang ý nghĩa cách mạng vào thời Phục hưng, giờ đây biến dạng thành thứ chủ
nghĩa cá nhân vị kỉ, cùng với sự sùng bái đồng tiền và quyền lực đến mức xuyên
tạc cả những chuẩn mực của xã hội công dân. Ở bình diện quốc tế các nước giàu

có tự nhận mình là đại diện cho “trật tự thế giới mới”, thao túng sinh hoạt quốc tế,
áp đặt luật chơi cho cả các thành viên của Liên hợp quốc[ii][2]. Thứ ba, sự thao
túng của các tập đoàn tư bản lớn trong nhà nước pháp quyền khiến cho các giá trị
chính trị, hay các chuẩn mực của văn hoá chính trị, bị đẩy đến tình trạng một chiều,
thành đặc quyền chính trị, và kết quả là những lí tưởng cao đẹp như tự do, dân chủ,
bình đẳng, các quyền cơ bản của công dân… biến thành thứ trò chơi chính trị hay
món hàng trao đổi vì những mục đích thiển cận. Thứ tư, tính chất hai mặt của toàn
cầu hoá ở bình diện văn hoá - tư tưởng.
Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng liên kết quốc tế, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, mở rộng đối thoại và giao lưu văn hoá, khoa
học, kĩ thuật, tăng cường học hỏi lẫn nhau giữa các quốc gia trong chiến lược và
đường lối giáo dục, góp phần đẩy mạnh hiện đại hoá, làm phong phú nền văn hoá
dân tộc. Nhưng mặt trái của toàn cầu hoá cũng phơi bày ra ngày càng gay gắt. Có
thể nhận thấy ba nguy cơ chính đối với các quốc gia đang phát triển dưới tác động
của toàn cầu hoá, trong đó có Việt Nam: sự xáo trộn tự phát trong sáng tạo và
hưởng thụ văn hoá; chủ nghĩa lãng mạn ngây thơ, hay sự tha hoá bản sắc; nghịch lí
giữa tính mở của không gian giao tiếp và sự biệt hoá ngày càng sâu sắc giữa các cá
nhân, các nhóm xã hội, các dân tộc và các khu vực. Đề cập đến thực trạng này,
GS. TS. Lê Hữu Nghĩa viết: “Toàn cầu hoá trong điều kiện do các thế lực tư bản
chi phối lại tạo nguy cơ làm mai một nền văn hoá dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ
gìn bản sắc dân tộc. Thông qua toàn cầu hoá, mở cửa, dễ du nhập những quan
niệm sai trái, đạo đức suy đồi, lối sống thực dụng, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, “văn
hoá phẩm” độc hại… Đã có nhiều người trên thế giới lên tiếng cảnh báo về nguy
cơ “Mĩ hoá toàn cầu”[iii][3]. Nhà báo Dương Trọng Dật cũng chia sẻ quan điểm
này khi cảnh báo về khả năng “chú cừu Doily - sự sinh sản vô tính trong văn hoá”,
hiểu theo nghĩa sự đồng hoá và đánh mất cái Tôi dân tộc trong cơn sóng trào toàn
cầu hoá[iv][4].
2. Ít nhất trong tay người viết bài này đang có bốn quyển Kỉ yếu Hội thảo
khoa học về ĐBSCL, với các chủ đề khá phong phú, song đều xoay quanh trục
chính là thực trạng và giải pháp phát triển bền vững ở khu vực năng động, song

hết sức phức tạp và có nhiều mảng sáng tối đan xen nhau này[v][5]. Có nhiều bài
viết hay, trong đó có cả bài viết về biện chứng giữa phát triển văn hoá và xu thế
hội nhập, song thiếu hẳn một triết lí thực sự về văn hoá dưới tác động của toàn cầu
hoá, nhất là vấn đề “phản ứng bản sắc” trong văn hoá, mà điều này lại rất cần thiết,
nhằm góp phần xác lập quan điểm thực tiễn về văn hoá trong điều kiện toàn cầu
hoá.
Thế nào là bản sắc và phản ứng bản sắc, hay đúng hơn, phản ứng mang tính
bản sắc? Đã có khá nhiều công trình bàn về khái niệm bản sắc, đến nỗi cuối cùng
không có định nghĩa nào về bản bản sắc được xem là chuần mực. Tại Hội nghị lần
thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đưa ra cách hiểu về bản
sắc dân tộc của văn hoá như sau: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hoá
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo”[vi][6]. Không thể xem đó là định nghĩa cô đọng và nổi bật về bản sắc dân tộc
trong văn hoá, mà chỉ là sự liệt lê các tính cách dân tộc, được thử thách trong tiến
trình lịch sử, song ít ra cách hiểu ấy đã làm sáng tỏ phần nào yếu tố biệt hoá và cá
thể hoá, mà nếu thiếu chúng khó có thể nói đến những nét đặc trưng của các nền
văn hoá dân tộc.
Một số nhà nghiên cứu trước cách hiểu quá “chung chung” về bản sắc, dễ
hoà lẫn bản sắc của người Việt với bản sắc của các dân tộc khác, đòi hỏi phải nêu
được cái bên trong, cái cố hữu tự thân ở bản sắc. Song đó là sự biện minh theo
tinh thần của chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa hoài nghi, bởi lẽ không thể có bản
sắc, hơn nữa bản sắc dân tộc của văn hoá, tồn tại dưới dạng tự thân, khép kín, cô
lập. Bản sắc, hiểu như cái bản chất đặc trưng của mỗi dân tộc, luôn luôn thể hiện
ra một cách sinh động, thông qua hoạt động của con người, và được thẩm định

bằng chính sự tồn tại và phát triển của nó. Sự thể hiện đó về mặt lịch sử tạo nên
một con đường trải từ quá khứ đến hiện tại, kết nối cái đã qua và cái đang tồn tại,
hình thành một dòng chảy không phân chia giữa các yếu tố góp phần tôn vinh và
khẳng định thế đứng của dân tộc trong một thế giới đa dạng, hay có thể nói là đa
bản sắc nhưng thống nhất vì mục tiêu chung, mang ý nghĩa nhân loại.
Các dân tộc không tồn tại một cách biệt lập, khép kín, mà liên hệ với nhau;
càng gần với thời đại hiện nay mối liên hệ ngày càng mở rộng và phong phú. Song
chính vì thế trong quá trình tồn tại và phát triển lịch sử của các dân tộc bên cạnh
những mối liên hệ và quan hệ tích cực, xây dựng còn có những hiềm khích dân tộc,
những cuộc xung đột, chiến tranh, khiến cho, theo quan điểm bi quan chủ nghĩa
của A. Schopenhauer, “hoà bình chỉ là chặng nghỉ ngắn ngủi giữa những cuộc
chiến”. Nguyên nhân của các cuộc xung đột, xét đến cùng, liên quan trực tiếp đến
lợi ích dân tộc, trong đó có những lợi ích cục bộ, và được xác định là những lợi ích
mang tính sống còn, nghĩa là những lợi ích mà vì nó một dân tộc sẵn sàng chấp
nhận hy sinh để không bị hoà tan cái Tôi của mình vào những cái Khác xa lạ.
“Phản ứng bản sắc” thường diễn ra trong quá trình tiếp nhận và xử lí các giá
trị văn hoá ngoại lai, thường đặc trưng cho các khu vực có điểm xuất phát thấp về
nhiều mặt, từ kinh tế đến trình độ học vấn. Trong cuộc Hội thảo về sự phát triển
của ĐBSCL (tháng 11/2004) các nhà khoa học và các nhà quản lí văn hoá đều có
chung nhận định là sự chênh lệch về thu nhập, trình độ học vấn là một trong
những nguyên nhân dẫn đến những diễn biến phức tạp trong việc tiếp nhận và xử
lí văn hoá, tạo nên những đối cực trong sinh hoạt văn hoá[vii][7]. Những đối cực
ấy, theo tôi, đáng được xem như những biểu hiện trái chiều nhau của “phản ứng
bản sắc”.
“Phản ứng bản sắc” là cách thức đáp trả lại những tác động từ bên ngoài đến
bản sắc của một dân tộc, những tác động làm biến dạng nó, hay nói khác đi, làm
mất “nguyên bản” của nó. Phản ứng có thể diễn ra khác nhau, phụ thuộc vào điều
kiện và khả năng của chủ thể tiếp nhận và xử lí các giá trị du nhập từ bên ngoài.
Ở ĐBSCL, do tính chất phát triển không đồng đều giữa các khu vực, nên tác
động của toàn cầu cũng thể hiện ở những mức độ khác nhau. Có một nghịch lí

đang diễn ra là trong khi công tác quản lí văn hoá còn mang nặng tính hành chính
thì ở một bộ phận dân chúng những phản ứng bản sắc mang tính tự phát đang lan
rộng, đòi hỏi xác lập cách tiếp cận thực tế hơn đối với vấn đề này. Có thể đề cập
đến các “vành đai” chịu ảnh hưởng của văn hoá và lối sống phương Tây trong cơn
sóng triều toàn cầu hoá, lấy Thành phố Hồ Chí Minh và các cửa khẩu biên giới
làm những điểm xuất phát. Lẽ cố nhiên trước sự xâm nhập của các giá trị từ bên
ngoài phản ứng thường diễn ra theo hai chiều: hoặc làm quen dần dần, rồi tiếp
nhận và cải biến, hoặc phê phán và bài trừ. Nhưng đó là cách thức phản ứng thông
thường.
Điều cần nói ở đây là phản ứng cực đoan, cũng diễn ra theo hai chiều: cố
chấp bản sắc và tha hoá bản sắc, mà việc nhận ra và khắc phục nó hoàn toàn
không dễ dàng, bởi lẽ nó đã là một vấn đề nhận thức, lệ thuộc vào chủ thể nhận
thức, vào thói quen ý thức, vào phương thức tổ chức và vận hành cơ chế chính
quyền.
Thế nào là cố chấp bản sắc? Cách đây 10 năm, trong bài viết Bản sắc tộc
người và bạo lực chính trị Maila Joseph viết về vấn đề này như sau: “Toàn cầu
hoá ngay từ ban đầu đã có một hiện tượng tương đồng hoá những lối ứng xử và
những khát vọng. Nền văn minh phương Tây chuyển tải những lí tưởng được tiêu
chuẩn hoá của một nền văn hoá kĩ thuật, tiêu dùng và hoan lạc chủ nghĩa. Sự phản
ứng mang tính bản sắc có thể được giải thích một phần như là một sự phản ứng
đối mặt với sự áp đặt những mô hình văn hoá ngoại lai. Đợt kịch phát bản sắc
trong phạm vi phản ứng với sự tha hoá bản sắc và ít ra cũng có sự khẳng định
mình một cách quá mức mà khước từ một nền văn hoá khác, không đặc sắc và phi
nhân tính”[viii][8]. Trong bối cảnh hiện nay trên thế giới sự cố chấp bản sắc có
thể đưa đến những xung đột bản sắc nhân danh quá trình quay trở về với cội nguồn.
Chủ nghĩa khủng bố thực chất là mạo xưng bản sắc để thực hiện những cuộc tấn
công có chủ đích và phi nhân tính vào các đối tượng mà nó gọi là kẻ thù không đội
trời chung. Cho dù tên gọi “chủ nghĩa khủng bố” đôi khi mang tính chủ quan, áp
đặt, thậm chí miệt thị, song những diễn biến chính trị trong 5 năm trở lại đây cho
thấy trong các hành vi bạo lực ẩn chứa không ít những biểu hiện của cố chấp bản

sắc, mà hành động quân sự được hiểu là “không còn cách nào khác” để chứng tỏ
phản ứng bản sắc trước thế giới phương Tây[ix][9].
Cũng như chủ nghĩa bảo thủ trong chính trị, hiện tượng cố chấp bản sắc theo
tinh thần chối bỏ mọi cái ngoại lai một cách cực đoan tạo nên những hậu quả tiêu
cực trong cách thức tiếp nhận và phát triển văn hoá dân tộc, bởi lẽ nó làm nghèo
các giá trị, mà còn gây những căng thẳng mới giữa một thế giới mở như thế giới
mà chúng ta đang sống. Trong các báo cáo về thực trạng văn hoá của các tỉnh
ĐBSCL người đọc đôi khi nhận thấy những biểu hiện đối phó, ngăn chặn mang
nặng tính hành chính đối với sự xâm nhập các sản phẩm văn hoá phẩm phương
Tây. Tuy nhiên đó chỉ là bề nổi. Vấn đề là ở chỗ sự đối phó thụ động khó có thể
đem đến hiệu quả, nếu không tạo ra những sân chơi văn hoá bổ ích, lành mạnh
dành cho giới trẻ, là thành phần nhạy cảm nhất với cái mới. Ở một số nơi thậm chí
còn đưa ra những giải pháp ngăn chặn cứng rắn quá mức đối với các hoạt động
văn hoá, các sáng tác văn chương, nghệ thuật “chịu ảnh hưởng của lối sống
phương Tây’, hay “xuyên tạc sự thực của địa phương” mà trên thực tế là sự quy
chụp mang tính chủ quan của một bộ phận những người làm công tác quản lí văn
hoá. Nói khác đi, hiện tượng cố chấp bản sắc, dù chưa đến mức nghiêm trọng,
song đã và đang tồn tại, mà nguyên nhân trực tiếp của nó là vấn đề nhận thức và
xử lí văn hoá, còn nguyên nhân sâu xa hơn là cơ chế quản lí, sự thiếu tính chuyên
nghiệp của một bộ phận làm công tác văn hoa, và đặc biệt là chủ nghĩa chủ nghĩa
bảo thủ chính trị tự phát, do thĩi quen thời bao cấp và chiến tranh lạnh để lại.
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta đã có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà
tư tưởng lo ngại về sự xâm thực văn hóa, quá trình “Tây hóa” len lỏi vào các lĩnh
vực của đời sống. Nguyễn Bính băn khoăn về “hương đồng gió nội bay đi ít
nhiều” khi tiếp xúc với văn minh đô thị. Nhưng đó là chuyện của ngày hôm qua,
khi đất nước đang bị thực dân Pháp xâm chiếm, dân ta bị mất quyền tự chủ chính
trị. Tình thế ngày nay đã khác trước. Đất nước đang đổi mới, thực hiện quá trình
hội nhập tích cực, tiếp thu những thành quả văn hoá, khoa học tiên tiến của nhân
loại. Đảng ta đã đưa ra đường lối phát triển văn hoá trong thời kì đổi mới là “xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong triết lí phát

triển ấy yếu tố “tiên tiến” được nhấn mạnh trước tiên, thống nhất hữu cơ với việc
giữ gìn, bảo tồn các giá trị truyền thống, từng được trải nghiệm trong lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sự cố chấp bản sắc, mà thực chất là quan điểm
bảo thủ trong văn hoá, có thể biến tự hào thành tự ti, theo kiểu “ta về ta tắm ao ta,
dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Trong câu ca dao đó vế thứ nhất có thể hiểu từ
góc độ tự tôn dân tộc, nhưng với vế thứ hai mặc cảm nhược tiểu đã thể hiện rõ, và
nếu xét trong điều kiện hiện nay có thể xem như một biểu hiện của lối tư duy co
cụm, bị động, nghĩa là bỏ qua cơ hội tiếp biến văn hoá phù hợp với tâm lí, tính
cách và truyền thống dân tộc trên bước đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên
cạnh đó điều đáng lo ngại hiện nay là do năng lực quản lí văn hoá hạn chế, tại
nhiều khu vực của ĐBSCL hiện tượng “thả nổi” trong sinh hoạt văn hoá lại tạo
nên những khoảng trống văn hoá nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển chung
của toàn vùng. Thiếu sót này đã được Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX nêu ra: “Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã
hội… Có biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh
hương tư tưởng trong lí luận - phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày
càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế và giao lưu văn hoá”[x][10]. Sự thả
nổi cũng là nguyên nhân dẫn đến tha hoá bản sắc trong một bộ phận nhân dân,
trong đó có vùng ĐBSCL. Trong Hội thảo Khoa học Những vấn đề văn hoá và
nguồn nhân lực ở ĐBSCL (11/2004) đã có một số tham luận bàn cề hiện tượng này,
như tôi đề cập ở phần trên.
Đối cực của cố chấp bản sắc là tha hoá bản sắc, sự chấp nhận đánh mất cái
Tôi trước sự xâm thực ngày càng mạnh mẽ của các yếu tố ngoại lai, mà không
phải yếu tố nào cũng phù hợp với tâm lý và tính cách của người Việt Nam, và đây
là nguy cơ lớn đối với chiến lược phát triển ĐBSCL. Sự tha hoá thể hiện trước hết
ở lối sống thực dụng, sự thương mại hoá hoạt động văn hoá, chạy theo thị hiếu tầm
thường, xa rời nguồn cội, là ở thứ triết lí vọng ngoại, đi ngược lại truyền thống dân
tộc. Có vẻ như mức độ hội nhập càng cao thì tha hóa bản sắc theo hướng đồng hoá
và hoà tan càng gia tăng. Điều đáng ngạc nhiên là hiện tượng mô phỏng, bắt chước,
đua đòi, tâm lí hưởng thụ xâm nhập vào tất cả các đối tượng, không phân biệt trình

độ học vấn. Tuy nhiên trong báo cáo tổng kết về công tác văn hoá hàng năm của
một số địa phương vẫn tỏ ra bình thản trước nguy cơ này. Những báo cáo ấy quá
ngắn gọn, chỉ điểm lại những việc đã làm và sẽ làm, với những con số về thành
tích, cùng với phương hướng thiên về quản lí hành chính trong văn hoá, thiếu
những điểm nhấn cần thiết, thiếu những gợi mở về sự cần thiết đổi mới tư duy
trong công tác văn hoá, đáp ứng những đòi hỏi về sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
trong quá trình hội nhập, toàn cầu hoá.
Văn hoá thực dụng đang xâm nhập vào hệ thống ứng xử, phong cách tư duy
và định hướng giá trị, tạo nên những hiện tượng đáng lo ngại trong sinh hoạt của
các đô thị vùng ĐBSCL, và từng bước len lỏi vào cả các vùng nông thôn, nơi từng
được biết đến với biểu tượng của “văn hoá miệt vườn”, niềm tự hào của người dân
Nam Bộ. Chưa có các con số điều tra xã hội học về quá trình thực dụng hoá văn
hoá miệt vườn, song dư luận về sự mất dần các thói quen ứng xử văn hoá mang
đậm chất Nam Bộ trước sức ép của kinh tế thị trường là có thực. Trong khi đó ở
chiều ngược lại, tức là việc tổ chức những lễ hội dân gian truyền thống nhằm giới
thiệu bản sắc dân tộc ra thế giới lại ngày càng tỏ ra thiếu hiệu quả, mang nặng tính
hình thức, thiên về hành chính hoá, chứ không tạo ra sức hấp dẫn thường xuyên và
đặt trong một vòng quay khép kín, từ tổ chức du lịch văn hoá, thưởng ngoạn cảnh
sắc, đến giới thiệu những nét đặc trưng của văn hoá và kinh doanh văn hoá. Mấy
năm gần đây việc đầu tư cho các lễ hội, từ lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội làng
nghề, tôn vinh các nghề thủ công và các sản vật của vùng đất phương Nam, đến lễ
hội tưởng nhớ và tôn vinh các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá, các bậc
hiền tài của từng địa phương, được quan tâm thường xuyên và khá dồi dào về vật
chất.
Một số lễ hội dân gian truyền thống vẫn được duy trì, mở rộng, như hội đền
bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, hội đua bò ở vùng Bảy Núi (An Giang), lễ hội
Chol Chnam Thmay và Ok Om Bok của người Khmer… Hàng loạt cuộc liên
hoan nghệ thuật khu vực ĐBSCL được quảng bá rầm rộ trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Tuy nhiên các lễ hội diễn ra dù sôi động, tập hợp nhiều người,
nhưng lại thiếu bàn tay tổ chức chu đáo và hiệu quả của chính quyền, an ninh trật

tự không được đảm bảo, gây nên tâm lý bất an cho du khách và những người tham
dự. Sức hấp dẫn của các lễ hội đối với giới trẻ không cao, nếu không nói là không
đáng kể. Họ không tìm thấy vị trí của mình ở đó. Các cuộc liên hoan nghệ thuật
diễn ra khá trang trọng, với sự hiện diện của đại diện cấp ủy, chính quyền, các nhà
quản lí văn hoá, nhưng hiệu ứng tích cực sau liên hoan thì không. Vì thế mới xảy
ra nghịch lí giữa một bên là nhu cầu mở rộng không gian giao tiếp với thế giới bên
ngoài thông giao lưu, đối thoại, nhưng lại chưa đủ lực, và một bên là những biện
pháp bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong văn hoá và giới thiệu chúng ra thế
giới, nhưng lại chưa đủ linh hoạt để tạo sức hấp dẫn. Tính hình thức, thiếu đồng
bộ và thiếu tính thiếu chuyên nghiệp của sự tổ chức văn hoá và sự nghèo nàn sân
chơi văn hoá là một trong những nguyên nhân của tình trạng tha hoá bản sắc.
Điều đó tạo ra mảnh đất màu mỡ cho các giá trị, các chuẩn mực từ bên ngoài
(mà không phải tất cả đều phù hợp với tính cách người Việt) phát triển, phổ biến,
phá vỡ hoặc làm biến dạng các giá trị truyền thống. Sự biến dạng giá trị (tôi xin
nhấn mạnh hiện tượng này) có tính hai mặt, một mặt các giá trị truyền thống chịu
sự phản biện khắt khe của những chuyển biến kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi đưa vào nội hàm của mình những tính quy
định mới, những yếu tố mới, nếu không muốn bị coi là lỗi thời - đó là biến dạng
tích cực, biến dạng để thích nghi; mặt khác, sự lắp ghép gượng ép truyền thống
với hiện đại nhân danh “hiện đại hoá truyền thống” trên thực tế đã loại bỏ truyền
thống, nghĩa là loại bỏ cái nguyên bản, cái hồn vốn có của nó dưới tác động đa
chiều của hội nhập, toàn cầu hoá và kinh tế thị trường.
Sự tha hoá bản sắc đang diễn ra một cách phổ biến trong thái độ đối với
truyền thống. Tính biệt hoá, thực dụng hoá và sự ích kỉ đã đưa đến tình trạng xa
rời nguồn cội trong một bộ phận giới trẻ, sự tính toán lạnh lùng theo triết lí “tiền là
trên hết” của những người nông dân nghèo ở vùng nông thôn ĐBSCL trong cuộc
mưu sinh khắc nghiệt. Việc 45% học sinh Trường trung học phổ thông Hùng
Vương không biết Hùng Vương là ai, hay nhiều học sinh Trường THCS Nguyễn
Văn Bé “mù tịt” về Anh hùng Nguyễn Văn Bé, nhưng lại nắm rất tốt lí lịch trích
ngang của Michael Jackson, đâu có gì khác với việc học sinh tỉnh Trà Vinh không

biết chị Út Tịch quê ở đâu?[xi][11]. Đôi khi do trình độ nhận thức thấp, ảo tưởng
về cuộc sống sung túc ở xứ người, các gia đình nông dân sẵn sàng đánh đổi cuộc
đời của con mình để nhận lấy sự đau khổ và hối hận. Các cuộc điều tra xã hội học
những năm gần đây đã thống kê được hàng trăm ngàn trường hợp lấy chồng nước
ngoài, nhất là Đài Loan, xuất phát chủ yếu ở các vùng nông thôn thuộc các tỉnh
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, trong số đó 18% có
trình độ học vấn cấp 1, khoảng 8% mù chữ. Nhắm mắt làm ngơ trước tình trạng
chênh lệch tuổi tác, bất đồng ngôn ngữ, sự khác biệt về tâm lí, những cô dâu người
Việt sẵn sàng dấn thân vào cuộc phiêu lưu với những thiệt thòi và rủi ro không
lường trước[xii][12]. Đó cũng là biểu hiện của sự tha hố bản sắc, do không đủ khả
năng và điều kiện vượt sức cám dỗ của tiện nghi vật chất, sự đánh mất cái Tôi
trước cái Khác đang xâm nhập vào những nẻo đường miền quê vốn một thời yên
ả., thanh bình.
3. Vùng đất Chín Rồng đang chuyển mình trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đạt được nhiều thành quả đáng tự hào trong các lĩnh vực
kinh tế , chính trị, văn hoá. Việc xã hội hoá các hoạt động văn hoá, tăng cường
công tác bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, phát huy thế mạnh của du lịch sinh
thái và du lịch văn hoá, phục hồi và phát triển các làng nghề, chú trọng đến tự do
sáng tác nhằm phát huy khả năng của đội ngũ văn nghệ sỹ, khai thác tiềm năng
sáng tạo trong nhân dân, kết hợp định hướng giá trị văn hoá chính trị với nâng cao
dân trí, dân chủ hoá đời sống xã hội, xây dựng cơ sở vật chất cho các hoạt động
văn hoá, khuyến khích cái mới, cái độc đáo trong sáng tạo - từng ấy vấn đề đã và
đang được thực hiện, hướng đến mục tiêu chung là xây dựng một nền văn hoá Việt
Nam đa dạng trong tính thống nhất, một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Tuy nhiên để tạo được sự phát triển bền vững, kết hợp hài hoà giữa giữ gìn
bản sắc dân tộc và tích cực hội nhập với thế giới, học hỏi, tiếp thu các giá trị văn
hoá từ bên ngoài, làm phong phú văn hoá bản địa, rất cần một triết lí về văn hoá
dựa trên nhận thức biện chứng cái phổ biến - cái đặc thù, tính dân tộc và tính thời
đại, giáo dục ý thức tự hào dân tộc với ý thức hội nhập. Thiếu cách tiếp cận đúng

đắn đối với cái thứ hai thật khó mà nói đến quan điểm đổi mới trong văn hoá phù
hợp với những đòi hỏi của phát triển bền vững và đi vào chiều sâu, nghĩa là gắn
kết các vấn đề văn hoá với cải thiện chất lượng sống và lối sống, môi trường văn
hoá với môi trường chính trị và không gian kinh tế đang ngày càng trở nên sôi
động. Giáo dục ý thức hội nhập cũng đồng thời góp phần khắc phục những phản
ứng cực đoan như vừa nói trên trước tác động của toàn cầu hoá và liên kết kinh tế
quốc tế.
Muốn như vậy trước hết cần đổi mới công tác cán bộ, đào tạo đội ngũ những
người làm công tác văn hoá vừa giỏi về chuyên môn, vừa có bản lĩnh chính trị và
nhạy bén nắm bắt cái mới, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, cục bộ địa
phương và cả chủ nghĩa giáo điều trong xử lí văn hoá. Tiếp đó, cần tạo ra những
sân chơi văn hoá thực sự lành mạnh và có sức thu hút đối với giới trẻ, chủ động
đón nhận và cải biến những giá trị từ bên ngoài, chấp nhận cả sự “lệch chuẩn” tạm
thời trong sáng tạo để phát hiện và bồi dưỡng, khuyến khích cái mới, đồng thời
ngăn chặn có hiệu quả sự lan tỏa của cái xa lạ với bản sắc dân tộc. Nhằm giới
thiệu văn hoá khu vực ra thế giới, qua đó khẳng định cái Tôi dân tộc trong văn hoá,
cần đẩy mạnh quảng bá văn hoá dưới nhiều hình thức khác nhau, từ việc tổ chức
các hội thảo, các diễn đàn văn hoá mang tầm quốc tế, đến nâng cao hiệu quả của
hoạt động văn hoá và kinh doanh các sản phẩm văn hoá.
Cuối cùng, để định hướng thành công sự sáng tạo và hưởng thụ văn hoá,
khắc phục tình trạng thực dụng hoá văn hoá cần xoá dần ranh giới giữa thành thị
và nông thôn, nâng cao trình độ dân trí, xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề lao
động dư thừa, vấn đề bình đẳng giới, vấn đề tôn giáo, dân tộc… Nói khác đi, môi
trường văn hoá chỉ trở nên lành mạnh một khi các nhu cầu vật chất và tinh thần
của người dân được đảm bảo trong điều kiện hiện có của từng vùng, từng địa
phương.
Với điều kiện tự nhiên và con người khá đặc sắc, lại là vùng đất mới, còn
nhiều giá trị chưa khai thác hết, khu vực ĐBSCL có điều kiện trở thành vùng đất
hấp dẫn thực sự, thành điểm nóng của phát triển văn hoá trong quá trình hội nhập,
nếu có những con người không chỉ lo tuyên truyền văn hoá, mà còn biết “làm” văn

hoá, biết biến ưu thế văn hoá thành sản phẩm văn hoá hiệu quả, góp phần vào sự
phát triển bền vững của cả nước.

Nguồn: Tác giả.



[i][1] Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1995, tr. 459
[ii][2] J. Derrida: Những bóng ma của Mác. Nxb Chính trị Quốc gia và Tổng
cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994, tr. 173 – 174
[iii][3] GS. TS Lê Hữu Nghĩa, TS. Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên): Toàn cầu
hoá – những vấn đề lí luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.
12 – 13
[iv][4] Báo Sài Gòn giải phóng, số 10519, thứ Tư, 4/10/2006, tr. 5
[v][5] xem PGS. TS Nguyễn Thế Nghĩa (chủ biên): Những thành tựu khoa học
xã hội và Nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kì đổi mới, Nxb Khoa học Xã
hội, Tp. HCM, 2003; các Kỉ yếu khoa học “Những vấn đề xã hội ở ĐBSCL”, q.1,
Cần Thơ, 11/2004; “Tổng quan phát triển ĐBSCL sau 18 năm đổi mới”, q.1, Cần
Thơ, 11/2004; “Những vấn đề kinh tế ở ĐBSCL”, q.2, Cần Thơ, 11/2004; “Những
vấn đề văn hoá và nguồn nhân lực ở ĐBSCL”, q.3, Cần Thơ, 11/2004
[vi][6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56
[vii][7] Có thể xem các bài tham luận của Phan Xuân Biên (Vấn đề dân trí và
phát triển văn hoá ở vùng người Khmer Nam bộ trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá), Lê Xuân (Hoạt động văn hoá – thông tin vùng ĐBSCL – thực trạng
và giải pháp), Hồ Tố Anh (ĐBSCL đối với sự tiếp thu các giá trị văn hoá trong sự
giao lưu và hội nhập quốc tế), Nguyễn Xuân Tảo (Văn hoá là nền tảng tinh thần
của sự phát triển các dân tộc ở Nam Bộ) và nhiều bài viết khác
[viii][8] Căn tính tộc nguời. Nhiều tác giả (sách dịch), Nxb Thông tin Khoa học

xã hội – chuyên đề, Hà Nội, 1998, tr. 206.
[ix][9] xem Terrorism,
[x][10] Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, số 30-Kl/TW.
Kết luận Hội nghị lần thứ Mười Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), Hà
Nội, 20/7.2004, tr. 2, Tài liệu lưu hành nội bộ
[xi][11] xem thêm Báo Công an TP. HCM, số 1488, thứ Năm, 9/10/2006; Báo
Người Lao động, số 3767, 3768, 3769, các ngày 24, 25, 26 tháng 10/2006, và các
báo khác
[xii][12] Dẫn Tạp chí Khoa học xã hội, số 09(85)/2005, tr. 46 – 51

×