Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

VỐN XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN (Phần I) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.77 KB, 13 trang )

VỐN XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN (Phần I)
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích

Trong bài này chúng tôi sẽ tóm lược các
điểm chính của vốn xã hội như được trình bày theo một số nhà nghiên cứu trên
thế giới. Sau đó đề cập đến sự nghiên cứu của ông Fukuyama và liên hệ một số
điểm chính yếu của ông với thực tế của nước ta để tìm xem vốn xã hội của chúng
ta cao hay thấp. Thực tế được chọn lựa là sáu vấn đề nằm trong cơ cấu tổ chức
xã hội và công việc xây dựng con người ở ta.
I. Khái niệm về vốn xã hội
Vốn xã hội là những sự ràng buộc lẫn nhau do người ta đặt ra hay tuân giữ
khi giao dịch hay khi chung sức làm một việc gì đó; nó còn được gọi là những
ràng buộc xã hội (social bonds) hay các hành vi mẫu mực (norms) hoặc quy tắc
(rules) xã hội và chúng là những yếu tố quan trọng cho sự bền vững của cuộc sống.
Những giá trị này được nhà xã hội học Jane Jacobs nêu lên năm 1961,
Bourdieu năm 1986, sau đó được Coleman đặt cho một khuôn khổ lý thuyết rõ
ràng năm 1989; rồi được Putnam phổ biến trên công luận năm 1993. Coleman mô
tả vốn xã hội là một cấu trúc, một khuôn khổ, cho sự giao dịch giữa những người
hành động (actors) và trong họ với nhau; thúc đẩy các hoạt động sản xuất và trở
thành những thứ gì có sẵn (tài nguyên) để cho một cá nhân sử dụng hầu thực hiện
những lợi ích riêng tư của họ. Khi ấy người ta có thể sống với nhau mỗi ngày mà
không phải mất công dàn xếp đi, dàn xếp lại vừa mất thì giờ vừa tốn kém. Tiêu
biểu cho cái vốn kia là hàng xóm đồng ý với nhau nếu nhà nào đi vắng cả thì nhà
bên cạnh thỉnh thoảng ngó mắt giùm; những người mua bán kim cương sẽ tự mình
chọn lựa kỹ để khi giao không phải thử từng viên xem có bị trầy hay không; hội
những người giúp nhau chữa bệnh ung thư qua trang web Đó là sự hoạt động của
vốn xã hội hay vốn xã hội trong hành động (social capital in action). Vốn xã hội
tạo điều kiện cho các cá nhân hợp tác với nhau vì nó làm giảm khó khăn khi cùng
làm một việc chung. Người này bỏ sức ra vì biết người khác cũng làm như thế; và
họ sẽ không muốn làm chung với ai thích làm theo hứng.
Vốn xã hội được kết tinh sau một


quá trình gồm có: (1) sự tin cẩn lẫn nhau (trust) hay niềm tin; (2) sự có đi có lại,
hay sự hỗ tương; (3) những quy tắc hay hành vi mẫu mực chung và sự chế tài; (4)
sự kết hợp lại với nhau thành một mạng lưới. Thí dụ như việc chơi hụi (họ) ở nước
ta. Bạn, tôi và vài người quen rủ nhau chơi hụi, chúng ta là một cộng đồng địa
phương (bước 4); chúng ta tin nhau là ai cũng đàng hoàng (bước 1); bạn hốt hụi kỳ
đầu, tôi kỳ sau (bước 2); muốn hốt hụi phải bỏ giá, ai cao nhất sẽ hốt; hốt xong thì
từ đó trở đi phải đóng đủ, ai giật là sẽ bị đòi (bước 3). Vậy chơi hụi là một định
chế xã hội, nó có tính địa phương (local institution), giúp cho người cần tiền vay
mượn tiền của người khác mà không phải thế chấp tài sản và góp phần vào hoạt
động kinh tế. Đó là một sự đóng góp hữu hiệu và hiệu quả cho nền kinh tế.
Lý giải từng bước, ta thấy dễ chịu khi làm ăn với ai mà mình tin, không mất công,
chẳng mất giờ, vốn là của cải có sẵn (tài nguyên) và không nên phí phạm. Khi
mình tin người khác họ cũng sẽ tin mình và như thế niềm tin tạo nên một nghĩa vụ.
Nếu đứng trong vị trí của từng cá nhân một, ta có sự tin cẩn nhau; lúc nhìn cả hai
người một lần thì đó là niềm tin hay sự tin tưởng. Có hai loại tin tưởng: một là tin
vào những người mà mình biết rõ; hai là tin vào những người mình chưa biết rõ
nhưng vì họ đứng trong một cơ cấu, một tổ chức mà mình tin tưởng nên mình
cũng tin họ luôn. Xây dựng niềm tin thì mất nhiều thời gian và công sức nhưng để
mất nó thì rất dễ. Một xã hội đầy rẫy sự bất tín thì khó có sự hợp tác (Baland and
Platteau, 1998).
Về sự có đi có lại, hay sự tương tác, thì khi diễn ra chúng sẽ làm gia tăng
niềm tin. Có hai loại tương tác (Coleman, Putnam): (i) nhận ngay tức khắc
(specific reciprocity) là hai bên cùng trao đổi tức thời hai thứ có giá trị ngang nhau,
và (ii) sẽ nhận sau này (diffuse reciprocity) là một bên cứ làm lâu dài và liên tục;
không trông đợi sự đáp lại, nhưng qua thời gian thì sẽ được trả lại hay bù đắp
tương xứng. Sự tương tác cũng tạo ra nghĩa vụ lâu dài giữa các bên.
Quy tắc (rules) là những sự bó buộc mà mỗi người phải theo khi làm một
việc gì đó. Quy tắc chính thức là luật pháp do nhà cầm quyền ban hành. Luật lệ
luôn đi kèm với sự trừng phạt tinh thần hay vật chất. Quy tắc không chính thức là
những điều mà các cá nhân áp dụng để đóng khuôn hành vi hàng ngày của họ.


Từ sự kiện Thái Bình
Nhân bàn về “vốn xã hội”, xin nhắc lại sự kiện Thái Bình năm 1997. Tìm
hiểu nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ xung đột xã hội ở nông thôn tại một nơi vốn
là lá cờ đầu của hầu hết các lĩnh vực xây dựng và phát triển nông thôn của cả nước,
một sự kiện khá điển hình, giúp làm sáng tỏ vấn đề “vốn xã hội”. Trước hết, xin
gợi lại một vấn đề cứ tưởng như xưa cũ rồi: "Làng của Việt Nam tự quản lý lấy
chính nó. Nhà nước không nên can thiệp vào công việc của làng, trừ phi làng
không thực hiện nghĩa vụ của mình là đóng thuế thân, thuế đất, đi phu, đi lính”1 .
Tác giả của “La
commune anammite”, P.Ory, đã từng lưu ý những nhà cai trị thực dân như vậy.
Thế nhưng chúng ta thì lại quên. Các tổ chức tộc họ, phe giáp, phường hội… với
những vai trò khác nhau phải lựa chọn cách ứng xử trước áp lực của lệ làng, của
hương ước có khả năng dung hòa các quan hệ xã hội khác nhau, tạo nên đời sống
tương đối ổn định của cái làng Việt Nam trong tính tự quản vốn có của nó. Những
cái đó đã mất đi cùng với sự ra đời của một cách tổ chức xã hội mới sau Cách
mạng Tháng 8 năm 1945, đặc biệt là sau 1954 ở Miền Bắc.
Cơ cấu xã hội ở nông thôn được hình thành trong quá trình hợp tác hóa đã
đơn giản hóa đến mức tối đa, chỉ còn lại một bên là những nông dân với các hộ gia
đình xã viên, bên kia là Ban Chủ nhiệm HTX, Đảng ủy, Ủy ban và các đoàn thể,
bao gồm cả Mặt trận
Tổ quốc đều đã được “nhà nước hóa”. Các hình thức tự quản vốn có hầu như bị
xóa sạch.
Không một lực lượng xã hội nào được tồn tại có tính tự trị, tự quản tương
đối độc lập ngoài những đoàn thể tổ chức đã “nhà nước hóa” hay là những “cánh
tay nối dài” của tổ chức Đảng cơ sở. Người ta đã không hiểu được rằng, khi phá
vỡ tính tự trị của làng xã thì cũng đồng thời xóa mất tính trung hòa do sự chế ước
và dung hợp của những quan hệ cộng đồng tạo nên. Bài học Thái Bình thường
được phân tích là bài học về sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước và
hệ thống chính trị ở nông thôn, nhưng còn một bài học nữa ít được phân tích, đó là

bài học về tổ chức xã hội. Ở đây là tổ chức quyền lực và “xã hội dân sự” tại nông
thôn. Không thấy rõ điều này sẽ là sự thất thoát lớn nguồn vốn xã hội có bề dày
truyền thống của cộng đồng nông thôn. Và có lẽ cũng không chỉ nông thôn.
Đại hội X đặt vấn đề “Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo
đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”. Đó chính là
nguyên lý của sự tạo dựng “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”.
Nguyên lý đó nói rõ rằng “ quyền lực là của nhân dân và chỉ ở nhân dân mà thôi”.
Nhân dân trao quyền lực của mình cho Nhà nước, để Nhà nước đảm nhiệm chức
năng quản lý sự vận hành của xã hội. Làm sao để quyền của dân đã được trao ấy,
các cơ quan, tổ chức được trao quyền không được lạm quyền, không được tiếm
quyền nhằm biến chúng thành đặc quyền để chỉ thủ lợi riêng cho cá nhân hoặc phe
nhóm, đi ngược lại lợi ích của dân.
Ngoài quyền lực được trao cho Nhà nước, dân vẫn phải có quyền lực của
mình, một biểu hiện của quyền lực đó là sự tự quản trong mọi hoạt động xã hội về
chính trị, về kinh tế, về văn hóa giáo dục, về truyền thông đại chúng, thể dục thể
thao mà không nhất thiết phải có bàn tay của Nhà nước nhúng vào. Đó là các
"lĩnh vực tư” mà dân tự quản lấy bên cạnh “lĩnh vực công” do Nhà nước đảm
nhiệm. Cả hai lĩnh vực này song hành với nhau, và cả hai đều đòi hỏi phải xác
định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân. Không tạo dựng và hoàn thiện các
tổ chức tự quản, các hoạt động của “xã hội dân sự” sẽ làm thất thoát một nguồn
vốn xã hội quan trọng.
Để làm rõ thêm ý này xin đưa thêm một thông tin. Gần đây, tổ chức “Liên minh
thế giới vì sự tham gia của công dân” (CIVICUS) đã đưa ra một định nghĩa về “xã
hội dân sự" như sau: XHDS là “Diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường,
nơi mà mọi con người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”2. Đây cũng là
một gợi ý mới để tìm hiểu về “vốn xã hội”. Theo đánh giá của CIVICUS thì 74%
số công dân là thành viên tối thiểu 1 tổ chức, 62% là thành viên của từ 2 tổ chức,
và tính bình quân mỗi công dân tham gia 2,3 tổ chức. Trong đó, nhóm hội viên lớn
nhất thuộc về các tổ chức quần chúng, đoàn thể phụ nữ, tổ chức phúc lợi xã hội,
các tổ chức cộng đồng địa phương, các tổ chức thể thao, vui chơi, giải trí, các tổ

chức giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc và các hội nghề nghiệp. Sự đánh giá này đúng
đến đâu chắc còn cần phải trao đổi kỹ. Tuy nhiên, những thông tin nói trên đưa ra
từ một cuộc khảo sát có bài bản cũng là một gợi ý tốt để nghĩ về cách phát huy
nguồn vốn xã hội sắp tới gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã
hội dân sự.
Tương Lai

Hành vi mẫu mực (norms), trái lại, là một việc làm theo một cung cách nào
đó phù hợp với sự mong mỏi, sự ưa thích. Về mặt ngữ nghĩa, "norm" là hành vi
mẫu mực hay các tiêu chuẩn được xã hội, hoặc các nhóm chấp nhận (tự nguyện
hay không) và dựa trên đó, xã hội đánh giá một người hay một việc. Khi dịch từ
“norm” sang tiếng Việt là "chuẩn mực" thì nó chỉ còn có nghĩa là một cái gì được
chọn để làm căn cứ đối chiếu. Quy tắc và hành vi mẫu mực là những điều được
đồng thuận hay được đưa từ trên xuống để làm lợi ích của tập thể được đặt cao
hơn lợi ích cá nhân. Chúng giúp cho cá nhân tin tưởng và bỏ sức tham gia việc
chung hay hoạt động của nhóm, vì biết rằng những người khác cũng sẽ làm như
thế.
Những điều trên cũng còn được gọi là luật chơi hay là luân lý nội tại của một
hệ thống xã hội (Coleman, 1990), ximăng của xã hội (Elster, 1989) hay những giá
trị căn bản tạo nên lòng tin (Collins và Chippendale, 1991). Chúng phản ánh mức
độ của một cá nhân bằng lòng hòa giải với người khác hay kiểm soát hành vi của
mình. Khi nói vốn xã hội cao thì có nghĩa là trong xã hội đó có một nền luân lý nội
tại cao, với các cá nhân biết cân bằng giữa lợi ích cá nhân của mình và trách nhiệm
với tập thể.
Cuối cùng là sự liên kết, mạng lưới hay nhóm. Đó là thành tố quan trọng của
vốn xã hội. Có nhiều loại liên kết khác nhau giữa các nhóm (mua bán hàng hóa,
trao đổi thông tin, giúp đỡ lẫn nhau, cho vay, cử hành các nghi lễ chung, đọc kinh,
đám cưới, đám ma ) Chúng có thể diễn ra theo nhiều hướng, chiều ngang, chiều
dọc hay đứng một mình.


Làng nghề Phong Khê
Làng nghề làm giấy Phong Khê,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh có số người sống bằng nghề làm giấy không
thấm tháp gì so với tổng biên chế của nhà máy giấy Bãi Bằng, tổng vốn kinh
doanh của họ cũng ít hơn rất nhiều lần. Nhưng thật khó mà tin rằng làng nghề này
lại làm ra một khối lượng giấy hàng hóa các loại có giá trị tương đương với giá trị
đầu ra của nhà máy giấy Bãi Bằng! Các mối quan hệ truyền thống của làng – bao
gồm cả quan hệ họ tộc hoặc không phải họ tộc, đã tạo ra một sự phân công lao
động và chuyên môn hóa rất đáng để cho môn kinh tế - chính trị học hiện đại tìm
hiểu. Các mối quan hệ này đã thay thế một cách kỳ diệu nhiều khâu không thể
thiếu trong sản xuất kinh doanh.
Chọn xưởng làm giấy in lớn nhất của làng này để tới tham quan, người ta
thấy nó có công suất bằng khoảng 1/3 công suất nhà mấy giấy Bãi Bằng. Ngoài cái
xưởng làm giấy hoạt động suốt ngày đêm, một cái sân tạm có mái che, người ta
không thấy kho bãi, văn phòng, bộ máy hành chính - vì ông chủ làm giám đốc và
kinh doanh, bà chủ làm quản trị và kế toán. Khi sản phẩm xuất xưởng, ông chủ chỉ
cần “a-lô” cho đường dây phân phối do những người trong làng đảm nhiệm. Khi
cần nguyên liệu hoặc những đầu vào khác – dù là từ cảng Sài Gòn hay cảng Hải
Phòng tới - lại cũng “a-lô” theo kế hoạch đã định sẵn. Khi cần vay nóng để làm
việc gì đó – có khi tới dăm ba tỷ đồng – ông chủ cũng “a-lô” cho một ai đó trong
làng, ngoài việc ký sổ nợ ra không có chuyện thế chấp. Cả làng có khoảng 100 xe
tải của nhiều hộ khác nhau chuyên làm nghề vận tải cho bất kỳ ai - đường ngắn
đường dài tùy yêu cầu của khách hàng. Ông chủ nói vui với khách tham quan:
“Ngày xưa muốn “ới” nhau một tiếng cho một việc gì đó thì phải đến tận nhà nhau,
bây giờ nhờ cái mobile chỉ cần ngồi nhà “a-lô” là xong! Lại còn thêm cái máy vi
tính mắc vào internet nữa chứ! ” Các nhà làm nghề giấy khác trong làng cũng
hoạt động theo phương thức đại thể như vậy. Mối quan hệ giữa những người trong
một mạng lưới hoạt động chung và chữ “tín” của làng đã cho phép làm cái việc
ngày xưa gọi là “ới” nhau, ngày nay gọi là “a-lô” hay mail cho nhau.
Cái tên gọi khoa học của những gì làm nên cái việc “ới” nhau, “a-lô” hay

mail cho nhau như thế là vốn xã hội.
Làng nghề nào trong cả nước ta cũng có một vốn xã hội như thế - với các
cung bậc và trình độ khác nhau, tùy trình độ phát triển mỗi nơi.
Nguyễn Trung

Do các hình thức liên kết này, giáo sư Robert Putnam (2000) phân biệt ra hai
loại vốn xã hội: loại co cụm vào nhau (bonding social capital) và loại vươn ra bên
ngoài (bridging social capital). Loại trước tạo nên các nhóm như Mafia ở Ý; loại
sau tạo nên các ban hợp xướng, dàn nhạc, các tổ chức phi chính phủ hay các hội từ
thiện. Khi trong nước có nhiều đoàn thể thành lập do sự tự nguyện để bảo vệ lợi
ích cục bộ của mình và tìm cách tác động vào luật pháp thì những việc ấy sẽ tạo
nên một xã hội dân sự. Xã hội này là một xã hội trong đó các nhóm, các đoàn thể
góp tay với chính quyền chăm lo mọi mặt của đời sống xã hội mà một mình chính
quyền không làm xuể.
Tùy hình thức của vốn, cái co cụm không đem lại lợi ích cho xã hội, chỉ có
những tổ chức hay mạng lưới phát triển theo chiều ngang do các cá nhân kết hợp
với nhau một cách tự nguyện tạo nên mới làm gia tăng năng suất của xã hội và tạo
ra sự gắn bó trong đó. Trong những xã hội mà sự tin cẩn nhau không cao, sự tương
tác hàng ngang bị thay thế bởi chính trị với những hệ cấp của nó đi theo hàng dọc
thì không có vốn xã hội và cũng chẳng có bao nhiêu hoạt động dân sự (Putnam,
1998).
II. Vốn xã hội và sự phát triển kinh tế
Trong quyển "Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity" xuất
bản năm 1995, giáo sư Fukuyama đã nghiên cứu niềm tin trong việc tạo nên vốn
xã hội, và chú trọng đặc biệt đến sự phát triển kinh tế. Dùng niềm tin như là tiêu
chí chính yếu để so sánh cơ cấu kinh tế và xã hội của các nước, ông cho rằng vốn
con người và vốn xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Vốn con người có thể làm tăng vốn
xã hội. Thí dụ, người có học sẽ ý thức hơn tầm quan trọng của việc săn sóc con cái,
và con cái sẽ cố gắng học hành, trau dồi vốn con người của mình để đáp lại cha mẹ.
Niềm tin có thể được hiểu như sự

chấp nhận đặt lợi ích của mình vào tay của người khác. Ông nói thẳng: "Chất
lượng cuộc sống cũng như khả năng cạnh tranh của một quốc gia tùy thuộc vào
một đặc tính văn hóa độc đáo lan tỏa trong quốc gia ấy, đó là mức độ tin cẩn nhau
trong xã hội.” Để minh chứng, ông cho rằng Trung Quốc, Pháp, Ý vì có mức tin
cẩn lẫn nhau thấp nên đã mất thế cạnh tranh với Mỹ, Nhật và Đức là những nước
có mức tin cẩn nhau cao. Trong một xã hội mà mức tin cẩn nhau thấp thì kinh
doanh thường hạn chế trong phạm vi gia đình, không có nhiều đại công ty (nếu
không được nhà nước tổ chức hoặc giúp đỡ). Xí nghiệp sẽ dễ bành trướng trong
một xã hội mà mức tin cẩn nhau cao.
5 năm sau khi viết như thế, trong một bài tham luận trình bày tại Quỹ Tiền tệ
quốc tế, ông định nghĩa: "Vốn xã hội là hành vi mẫu mực không chính thức
(informal) phát sinh ngay lập tức và nó thúc đẩy sự hợp tác giữa hai người hay
nhiều người (nhường chỗ ngồi cho người già). Các hành vi mẫu mực tạo nên vốn
xã hội có thể bắt đầu từ một sự tương tác tự nhiên giữa hai người bạn lên cao cho
đến tận các học thuyết phức tạp và tinh vi như Cơ đốc giáo và Phật giáo. Hành vi
mẫu mực phải bung ra ngay lập tức (tức thời) trong các mối quan hệ cá nhân cụ
thể. Hành vi mẫu mực có đi có lại nằm ẩn trong mọi giao dịch của tôi đối với mọi
người, và chỉ trở thành cụ thể trong sự giao dịch của tôi đối với những bạn của
tôi."
Không phải mọi hành vi mẫu mực phát sinh tức thời đều sẽ tạo nên vốn xã
hội. Trái lại chỉ có những cái nào giúp cho các nhóm trong xã hội hợp tác với nhau,
hay tạo nên sự hợp tác, thì đó mới là hành vi mẫu mực. Đa phần chúng lại là các
đức tính truyền thống như lòng trung thực, sự giữ lời hứa, việc thi hành bổn phận
một cách đáng tin cậy, sự tương tác và tinh thần trách nhiệm.
Vốn xã hội sẽ làm giảm chi phí khi thực hiện các công việc phát sinh từ các
hành vi trang trọng như hợp đồng, mối tương quan giữa các cấp, hay từ quy định
của các cơ quan Thí dụ, hợp đồng bảo rằng phải làm thế này, thế nọ; nhưng nếu
hai bên tin nhau thì có thể cắt giảm chúng. Tương tự, trong các nơi không sử dụng
kỹ thuật cao, vốn xã hội sẽ tạo ra một hiệu quả cao hơn khi so sánh nó với các kỹ
thuật chính thức hiện dùng để phối hợp công việc. Điển hình là phương pháp sản

xuất theo dây chuyền của Taylor. Nó được lập tại các xưởng, rất tập trung, lắm
giấy tờ, và không hữu hiệu lắm vì các quyết định đưa ra bị đình trệ, hay thông tin
bị bóp méo khi đi qua các cấp chỉ huy. Ngày nay, trong nhiều doanh nghiệp,
phương pháp Taylor đã bị thay thế bằng một cơ cấu quản trị đơn giản, chú trọng
việc chuyển giao trách nhiệm xuống cho các tổ trưởng ở dưới cùng. Các công
nhân hiểu biết tình trạng nơi mình làm việc được phép tự quyết định thay vì trình
lên trên. Cách này làm cho công việc được thực hiện nhanh chóng hơn, ít tốn kém
hơn so với cách làm cũ và nó hoàn toàn tùy thuộc vào vốn xã hội của lực lượng
lao động.
Theo ông, vốn xã hội xuất phát từ ba nguồn. Thứ nhất, như các nhà kinh tế đã nêu,
là từ sự giao tiếp với nhau liên tục; hai người giao dịch với nhau lâu sẽ thấy cần
phải chứng tỏ mình là người trung thực và giữ lời hứa. Thứ hai, là từ các tôn giáo
hay hệ thống luân lý. Đó là nguồn gốc của một quyền uy, nó ấn định các hành vi
mẫu mực và trông đợi sự tuân thủ không cần suy nghĩ. Những mẫu mực đó không
chỉ diễn ra trong các cuộc thương thảo riêng lẻ mà còn được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, qua các qui trình đã được xã hội hóa sử dụng tập quán và
thói quen nhiều hơn là lý lẽ. Thứ ba, sự chia sẻ các kinh nghiệm lịch sử cũng tạo
nên những hành vi mẫu mực một cách không chính thức và do đó cũng tạo nên
vốn xã hội. Thí dụ, cả Đức và Nhật đều đã trải qua các cuộc đình công của thợ
thuyền, rồi xung đột chủ thợ với chính quyền trong những năm 1920, 30. Hai
chính quyền ấy đã phải trấn áp các nghiệp đoàn lao động độc lập và thay thế họ
bằng công đoàn "vàng". Sau khi hai nước bại trận, họ có cách tiếp cận mềm dẻo
hơn đối với việc quản lý các quan hệ lao động; kết quả là ở Đức đã có chính sách
kinh tế thị trường xã hội (Sozialmarktwirtschaft) còn ở Nhật là chế độ làm việc
suốt đời. Dẫu cũng còn những bất cập, hai định chế này đã đóng vai trò quan trọng
trong sự phục hồi kinh tế của hai nước kia và tạo nên một loại vốn xã hội. Thu
gọn lại những điều trên, ta thấy vốn xã hội xuất phát từ các đức tính của mỗi cá
nhân (trung thực, trách nhiệm, hợp tác ) khi họ tự nguyện kết hợp lại với nhau để
làm một công việc chung nào đó. Xin gọi chúng là các yếu tố tinh thần. Mối
tương quan giữa các công trình trong xã hội với vốn xã hội và các yếu tố tinh thần

có thể thấy qua một thí dụ là công tác đắp đê chống lụt. Công tác này chính là một
công trình của xã hội - mọi người chung sức làm, kẻ cuốc, người đào, ai cũng
chăm chỉ (đó là vốn xã hội) - sở dĩ họ làm được như thế vì mỗi người tham gia ý
thức được mối lo chung và bổn phận của mình (đó là các yếu tố tinh thần). Xã hội
sẽ hoạt động tốt đẹp nhất khi mọi công dân chung lưng đấu cật để thực hiện một
mục tiêu chung và do đó chia sẻ một văn hóa của công dân (civic culture). Khi sự
tin cẩn lẫn nhau được tích tụ lại nhờ các sinh hoạt tự nguyện, thì đó là vốn xã hội,
và nó tạo ra những tài sản chung. Vốn đó làm cho các cố gắng của chính quyền trở
nên hữu hiệu.

×