Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.26 KB, 5 trang )
Thuốc từ con ngựa tăng cường sức khỏe
Ngựa tên khác ngựa nhà. Tên khoa học: Equus coballus L.
Loại ngựa bạch thích hợp dùng để làm thuốc.
Thịt ngựa chứa 21,5% protid, 5 - 7% lipid, có các muối
khoáng và vitamin.
Sữa ngựa chứa 2,1% protid, cao hơn sữa người; 1,1% lipid
và các vitamin C, A; muối khoáng và các nguyên tố vi
lượng. Xương ngựa chứa calci phosphat, keratin, oscein
Theo Đông y, thịt ngựa (mã nhục), xương ngựa (mã cốt),
sữa ngựa (mã nhũ), phân ngựa (mã phẩn), răng ngựa (mã
xỉ), sỏi trong dạ dày hay túi mật ngựa (mã bảo). Ngoài ra,
dương vật (bạch mã âm kinh), gan, phổi và máu ngựa cũng
được sử dụng làm thuốc.
Mã nhục (thịt ngựa):
vị ngọt đắng, tính nóng, có độc; có tác dụng lớn gân, mạnh
xương. Chữa gân xương yếu, chứng xương cốt yếu liệt, tê
bại và nhiệt khí, tiêu hóa kém, chốc lở và rụng tóc. Ăn thịt
ngựa, trẻ em cứng cáp, nhanh nhẹn; thanh niên vạm vỡ
cường tráng; người già không bị đau nhức xương và sống
lâu. Có thể chế biến thành những món ăn hợp khẩu vị theo
lứa tuổi.
Không dùng thịt ngựa cho người bị hạ lỵ; không nấu thịt
ngựa với ké đầu ngựa (thương nhĩ tử), hoặc với gừng.
Mã nhũ (sữa ngựa): vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ
huyết, nhuận táo, thanh nhiệt, chỉ khát. Chữa huyết hư,
phiền nhiệt, cốt chưng, chỉ khát. Sữa ngựa được dùng theo
nhiều cách: sữa tươi, sữa chua, rượu sữa. Sữa tươi thêm ít
đường cho đủ ngọt, đun sôi, uống trong ngày, là thuốc bổ
sinh huyết, dễ tiêu, chữa ho, phổi ráo dùng cho người bị lao
phổi hoặc mắc bệnh mạn tính. Sữa ngựa chua là nước giải