Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cấy ghép tủy xương - Vai trò trong điều trị bệnh lý ác tính pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.14 KB, 5 trang )

Cấy ghép tủy xương - Vai trò trong điều trị bệnh lý ác tính
Trong vòng 40 năm trở lại đây, ghép tủy xương và ghép tế bào
gốc tạo máu ngày càng được thực hiện thường xuyên hơn để
điều trị nhiều bệnh lý ác tính và
không ác tính.
Các nghiên cứu rất sớm trên loài
vật cho thấy, tủy xương là cơ quan
nhạy cảm nhất đối với những tác
hại của tia phóng xạ. Việc truyền
lại những tế bào của tủy xương đã
được thực hiện sau đó để cứu sống những con vật sắp chết vì tác
động của phóng xạ. Trong những năm 1950, bệnh nhân đã được
cho dùng những liều có khả năng gây tử vong để điều trị bệnh ung
thư bạch cầu (leusemia). Mặc dầu nhiều bệnh nhân đã phục hồi về
huyết học sau điều trị, tất cả các bệnh nhân sau đó đều tử vong do
ung thư tái phát hoặc bệnh nhiễm trùng. Trong những năm 1950 và
1960, hầu hết 200 ca dị ghép tuỷ đều được thực hiện trên người
mà không đạt được thành công lâu dài. Tuy nhiên, cũng trong thời
gian đó, việc cấy ghép từ người cho là anh chị em sinh đôi một
trứng đã đem đến khá nhiều trường hợp thành công và tạo ra nền
tảng quan trọng cho những nghiên cứu về sau.

Năm 1968, điểm mốc quan trọng đầu tiên về ghép tủy xương diễn
ra với những trường hợp dị ghép thành công được thực hiện trên
một trẻ suy giảm miễn dịch thiếu lympho bào liên kết với nhiễm
sắc thể X (X-linked lymphopenic immune deficiency) và một trẻ
khác bị hội chứng Wiskott-Aldrich. Các thành công này được tiếp
nối bởi những báo cáo về cấy ghép hiệu quả đối với thiếu máu bất
sản tủy (aplastic anemia) và kế đến là cho bệnh ung thư bạch cầu.
Các tiến bộ về kiểm tra tính thuận hợp mô học (histocompatibility
testing) và sự phát triển của việc đăng ký hiến tủy, như Chương


trình hiến tủy quốc gia Mỹ (National marrow donor program =
NMDP) chẳng hạn, đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc dùng tủy của
những người hiến tặng không có quan hệ gia đình với người nhận,
do đó, số bệnh nhân được ghép tủy ngày càng tăng.
Năm 1988, ghép tủy thành công được thực hiện trên một bé trai bị
chứng thiếu máu Fanconi bằng cách dùng máu dây rốn của một
người em lấy được ngay sau khi sinh. Bệnh nhân này đến nay vẫn
sống khỏe mạnh. Năm 1992, một bệnh nhân được ghép thành công
với máu dây rốn thay vì tủy xương để điều trị ung thư bạch cầu.
Trong thập kỷ vừa qua, việc dùng máu dây rốn đã được sử dụng
rộng rãi hơn; hơn 2.000 ca cấy ghép đã được thực hiện dùng máu
dây rốn là nguồn tế bào gốc. Máu dây rốn đã được dùng để cấy
ghép cho bất cứ tình trạng bệnh lý nào cần dùng đến tủy xương.
Tỷ lệ sống sót 5 năm không ung thư bạch cầu ở 503 trẻ em bị ung
thư bạch cầu cấp dòng lymphô được cấy ghép bằng máu dây rốn
có 1 hoặc 2 antigen bạch cầu người không phù hợp tương tự với tỷ
lệ sống sót ở 282 trẻ được ghép bằng tủy xương. Số lượng tế bào
hạn chế trong máu dây rốn đã giới hạn việc sử dụng nó ở trẻ em và
thiếu niên. Nghiên cứu để làm tăng lượng máu dây rốn và việc
truyền nhiều đơn vị cho một bệnh nhân sẽ khiến nguồn cung cấp tế
bào gốc này trở nên thường quy hơn và sẵn sàng để cung ứng cho
mọi người bệnh.
Ngoài tủy xương và máu dây rốn,
tế bào gốc ở máu ngoại biên cũng
đã được biết đến như một nguồn
cung cấp tế bào gốc từ những
năm 1980.
Trọng tâm nghiên cứu hiện nay
chủ yếu hướng đến việc làm giảm
độc tính và bệnh mô ghép tấn

công ký chủ trong khi vẫn làm
sao để tăng số lượng người hiến tặng có tiềm năng bằng cách phát
triển những kỹ thuật để vượt qua được rào cản bất tương hợp mô
học HLA truyền thống một cách hiệu quả hơn. Các cấy ghép sẽ
được thực hiện với những độ bất thuận hợp tăng cao hơn. Các nỗ
lực để giảm độc tính và tỷ lệ tử vong liên quan đến cấy ghép đang

Máu dây rốn - Nguồn cung
cấp tế bào gốc.
được thực hiện bằng cách dùng những chiến lược như điều trị
không diệt tủy với tăng cường ức chế miễn dịch quanh giai đoạn
cấy ghép và ức chế miễn dịch sau cấy ghép để đạt được cấy ghép
cục bộ. Sau đó sẽ tiếp tục truyền bạch cầu của người hiến tặng để
đạt được sự lai ghép di truyền hoàn toàn. Ngoài ra, việc truyền
bạch cầu của người hiến tặng cũng đã được dùng với tần số tăng
dần để điều trị các bệnh nhân ung thư bạch cầu tái phát sau cấy
ghép.
Máu dây rốn vẫn là một nguồn tế bào gốc tạo máu đầy hứa hẹn.
Việc dùng nhiều đơn vị máu dây rốn để ghép cho những bệnh nhân
to lớn hơn tiếp tục được nghiên cứu trong các thử nghiệm mang
tính toàn quốc ở Mỹ về ghép tủy xương - mạng lưới thử nghiệm
làm tìm hiểu về hiệu quả của việc cấy ghép máu từ 2 dây rốn. Tiềm
năng tạo hình của tế bào gốc trong máu dây rốn hứa hẹn tái tạo lại
nhiều loại tế bào đa dạng như tế bào tim, nội tiết, và thần kinh mà
không đi kèm những bất đồng về mặt đạo đức y học như đối với
các tế bào gốc từ bào thai.
Hiện đang tiếp tục nghiên cứu để mở rộng các chỉ định cấy ghép.
Các dữ liệu sơ bộ cho cho thấy, khả năng của cấy ghép trong việc
điều trị các bệnh tự miễn như Lupus, đa xơ cứng hệ thống và viêm
khớp dạng thấp ở người trẻ. Ngoài ra, việc cấy ghép trong lòng tử

cung mang lại triển vọng cho việc điều trị can thiệp sớm các bệnh
di truyền, và một số thành công bước đầu đã được chứng minh đối
với các hội chứng suy giảm miễn dịch.
Việc sử dụng liệu pháp gen với mục tiêu là máu dây rốn có thể
đem đến những hứa hẹn về điều trị các bệnh di truyền. Gần đây,
các tế bào gốc tạo máu và các týp tế bào nguyên thủy khác cũng
cho thấy có khả năng biệt hóa thành những tế bào trưởng thành đa
dạng khi nhận được những tín hiệu phân bào tương ứng. Điều này
đem đến hy vọng phục hồi lại các chức năng của cơ tim bị bệnh
hoặc tái tạo lại những mô thần kinh bị tổn thương. Việc cấy ghép
các tế bào gốc tạo máu tiếp tục là lĩnh vực tiên phong trong việc
điều trị các bệnh của loài người.

×