Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

bài đọc thoát vị bẹn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.93 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học

NHẬN XÉT VỀ KỸ THUẬT LICHTEINSTEIN
TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁT VỊ BẸN
Vương Thừa Đức
1
TÓM TẮT
Từ tháng 9/2002 đến hết tháng 1/2003, tại bệnh viện Bình Dân, chúng tôi có 30 bệnh nhân thoát vò bẹn
được mổ đặt mảnh ghép polypropylen qua ngã cổ điển (kỹ thuật Lichteinstein). Tuổi trung bình của bệnh
nhân là 53 tuổi, trong đó phân nửa là lao động nặng và có bệnh khác kết hợp. Thời gian mổ trung bình là 36
phút, thời gian hồi phục sinh hoạt trung bình là 24 giờ và thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 2,6 ngày.
Không có trường hợp nào bò tai biến hoặc biến chứng sau mổ.
SUMMARY
EARLY REMARKS OF LICHTEINSTEIN REPAIR IN INGUINAL HERNIAS
Vuong Thua Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 7 * Supplement of No 1 * 2003: 174 - 180
From 9/2002 to 1/2003, there were 30 patients of inguinal hernias operated with polypropylen mesh
placement via classical access (Lichteinstein repair) at Binh Dan hospital. Mean age of patients was 53, half
of them were heavy laborer and had another associated disease. Mean operating time was 36 minutes,
mean time of normal activities resume was 24h and mean postoperative hospitalizing time was 2,6 days.
There was neither operative accident nor post-operative complication.

1
Th.S, BSCK2, Giảng viên Bộ môn Ngoại - ĐH Y Dược TP. HCM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự căng ở đường khâu tạo hình sau mổ thoát vò
bẹn sẽ khiến bệnh nhân đau lâu và là một trở ngại
lớn cho sự phục hồi sinh hoạt và lao động bình
thường sau mổ
(1,6)
. Mặt khác, cũng do căng mà lớp
khâu tạo hình có thể bò thiếu máu nuôi dẫn đến


thoát vò tái phát sau mổ
(9)
. Để tránh căng, trong
những kỹ thuật phục hồi thành bụng dùng mô tự
thân, người ta đã dùng đường rạch dãn với những tỷ
lệ khác nhau (từ 10-30%)
(6,7,10)
nhưng hiệu quả của
đường rạch dãn không phải lúc nào cũng hoàn toàn
làm giảm căng triệt để nên tỷ lệ tái phát của thoát vò
trong các kỹ thuật dùng mô tự thân khá cao (trung
bình là 10% sau 5 năm), và thực ra cho đến nay
chưa có công trình tiền cứu có so sánh nào xác nhận
giá trò giảm căng của đường rạch dãn
(9)
.
Để loại bỏ triệt để sự căng ở đường khâu thoát vò
một cách có hiệu quả, tốt nhất là dùng mảnh ghép
vá vào chỗ yếu thành bẹn và đây là tiền đề phát
triển của các phương pháp mổ TVB dùng mảnh
ghép nhân tạo đang nở rộ tại phương tây trong thập
niên 90 cho đến nay. Trong các phương pháp dùng
mảnh ghép đang phổ biến hiện nay trên thế giới, kỹ
thuật Lichteinstein (còn gọi là tension-free Repair)
nổi bật lên nhờ tính đơn giản, không tốn kém mà
hiệu quả (tái phát <1%). Tuy nhiên, kỹ thuật này
cho đến hiện nay chưa được nghiên cứu tại Việt
nam, do đó mục đích của chúng tôi trong nghiên
cứu này là bước đầu tìm hiểu những kinh nghiệm về
mặt phẫu thuật cũng như sơ bộ đánh giá về kết quả

sớm sau mổ của kỹ thuật Lichteinstein trên người
Việt Nam.
Chuyên đề Ngoại khoa
174
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chọn đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân bò TVB vào khoa ngoại tổng
quát 2 BVBD, trên 20 tuổi,và không có một bệnh
khác trầm trọng làm ảnh hưởng đến chỉ đònh mổ.
Phẫu thuật viên
Do chính chúng tôi trực tiếp mổ. Những ca nào
không phải do chúng tôi mổ, chúng tôi đều không
đưa vào nghiên cứu này.
Chuẩn bò trước mổ và vô cảm
Bệnh nhân được cạo lông tại khoa phòng ngày
trước và có thể được dùng kháng sinh phòng ngừa
hay không. Khi lên bàn mổ bệnh nhân được rửa
sạch vùng mổ bằng xà phòng và sát trùng rộng bằng
Bétadine.
Bệnh nhân được gây tê tủy sống (thay vì gây tê
tại chỗ như Lichteinstein).
Kỹ thuật mổ
Sau khi vào vùng bẹn theo ngã cổ điển như
thông thường, chúng tôi: lộn và khâu gấp vào trong
(túi thoát vò trực tiếp), cắt cao cổ túi thoát vò gián
tiếp và khâu hẹp lỗ bẹn sâu nếu bò dãn rộng. Sau đó
tiến hành đặt lưới ghép như sau:

Thành sau ống bẹn được che phủ bằng một lưới
polypropylene rộng khoảng 3-6 cm ×10 cm đặt dọc
theo chiều ống bẹn từ ngoài vào trong và cắt dọc
đầu ngoài (đuôi) làm 2 vạt sao cho điểm dừng tương
ứng với bờ trong lỗ bẹn sâu (hình 1).






Hình 1: đo khoảng cách để tính toán kích thước
lưới ghép
Cần phải cho đầu trong của mảnh ghép phải
vươn đến hoặc phủ lên được dây chằng bẹn và đuôi
của mảnh ghép có thể nhét gọn được vào bên dưới
lá trên của cân chéo ngoài. Góc dưới trong của lưới
ghép phải khâu vào mô mềm trên cũ mu bằng chỉ
prolene, điều quan trọng là lưới phải phủ chồng lên
1-2 cm tại đây. Bờ dưới của lưới phải được khâu vào
dây chằng bẹn bằng mũi chỉ liên tục và bờ trên lưới
thì may vào cân chéo trong ở vò trí sát dưới lá trên
của cân chéo ngoài (hình 2). Khâu 1 hoặc 2 mũi vào
đuôi mảnh ghép nơi 2 nhánh sẽ ôm lấy thừng tinh
sao cho tạo thành một lỗ vừa đủ khít.Vết mổ được
khâu lại như thông thường sau khi rửa sạch bằng
dung dòch Bétadine pha loảng.









Hình 2: đặt và khâu mảnh ghép che phủ thành
bẹn sau
Đánh giá kết quả
Số liệu lâm sàng được lưu trữ và tính toán bằng
phần mềm Microsoft Excel.
Nhận xét về đối tượng nghiên cứu
- Các tỷ lệ về dòch tễ học:
Tuổi,phái, nghề nghiệp, thể trạng mập hay
không
bệnh kết hợp: nội hoặc ngoại khoa có hoặc
không làm tăng áp lực trong ổ bụng (ảnh hưởng đến
tỷ lệ tái phát), hút thuốc lá,.
- Các tỷ lệ về mặt giải phẫu bệnh:
- Loại thoát vò: phân loại thoát vò theo Gilbert
Chuyên đề Ngoại khoa
175
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học

- Thoát vò một bên (phải, trái), hai bên, bệnh lý
ống bẹn kết hợp.
Đánh giá kết quả sớm và biến chứng sớm
sau mổ
– Thời gian mổ.
– Thời gian nằm viện sau mổ.
– Thời gian hồi phục sinh hoạt bình thường sau

mổ.
– Tai biến và biến chứng sau mổ (nếu có).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Tất cả có 30 bệnh nhân được mổ theo kỹ thuật
Lichteinstein nêu trên, các chỉ số nghiên cứu phân
bố như sau:
Tuổi
Cả 30 bệnh nhân trong nghiên cứu này là nam
giới. Tuổi trung bình là 53,6 tuổi, trong đó trẻ nhất
là 25 tuổi và già nhất là 80 tuổi.
Bảng 1:Phân bố về tuổi tác bệnh nhân
Tuổi Số ca Tỷ lệ (%)
21 – 30
31 – 40
41 - 50
51 - 60
61 - 70
>70
3
5
3
7
6
6
10
17
10
23
20
20

Nghề nghiệp
Gần phân nửa số bệnh nhân là người lao động
nặng vốn được coi là yếu tố thuận lợi của sự tái phát.
Bảng 2: Phân bố nghề nghiệp bệnh nhân
Nghề nghiệp Số ca Tỷ lệ (%)
Nặng
Trung bình
Nhẹ
Không
16
5
2
7
53
16
6
23
Bệnh khác kết hợp
Chúng tôi nhận thấy có đến 50% bệnh nhân có
một bệnh khác kết hợp, trong đó nổi bật là các bệnh
tim mạch (23%).
Bảng 3: Các bệnh khác đi kèm
Bệnh khác Số ca Tỷ lệ (%)
Tim mạch
Thần kinh
bón
Tiểu đêm
Khác
6
1

1
1
1
20
3
3
3
3
Nghiện thuốc lá – thể trạng
Chúng tôi ghi nhận có 12 người (39,3%) nghiện
thuốc lá, với số lượng thuốc hút trung bình từ 0,5
đến 1 gói mỗi ngày.
Tất cả bệnh nhân có thể trạng trung bình (21
người) hoặc gầy (9 người), không có người nào mập
hay béo phì.
Loại thoát vò
Có 2 người tái phát lần 1được chúng tôi mổ lại
trong nghiên cứu này.
Dựa trên phân loại của Gilbert (1986) có bổ
sung bởi Rutkow và Robbins (1992) gồm 6 loại TVB
như sau:
- loại 1: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu còn chặt, kích
thước < 2 cm (không hoặc khó đút lọt một ngón tay
trỏ).
- loại 2: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu rộng nhưng
không quá 4 cm (đút lọt một ngón tay dễ dàng,
nhưng không đút lọt được 2 ngón tay).
- loại 3: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu dãn rộng >
4cm (đút lọt 2 ngón tay).
- loại 4: TVB trực tiếp, toàn bộ sàn bẹn bò suy

yếu.
- loại 5: TVB trực tiếp, chỗ yếu dạng túi thừa
trên xương mu.
- loại 6: TVB trực tiếp kết hợp với gián tiếp
(bệnh nhân có cả 2 túi thoát vò kiểu ống quần)
Bảng 4: Phân bố theo loại thoát vò bẹn
Loại thoát vò Số ca Tỷ lệ (%)
Gilbert 1
Gilbert 2
Gilbert 3
Gilbert 4
Gilbert 5
Gilbert 6
1
13
10
4
0
2
3
43
33
13
0
6
Chuyên đề Ngoại khoa
176
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003


Thời gian mổ
Thời gian mổ được tính từ lúc rạch da cho đến
khi hoàn tất cuộc mổ và khâu da, nhanh nhất là 25
phút, lâu nhất là 50 phút, và trung bình là 36 phút.
Bảng 5: Phân bố theo thời gian phẫu thuật
Thời gian Số ca Tỷ lệ (%)
<30 phút
31-40 phút
41-50 phút
9
11
10
30
37
33
Thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian nằm viện sau mổ tính từ ngày hậu
phẫu thứ nhất cho đến ngày bệnh nhân được cho
xuất viện, lâu nhất là 3 ngày, ngắn nhất là 1 ngày,
và trung bình là 2,6 ngày.
Bảng 6: Phân bố theo thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian Số ca Tỷ lệ (%)
1 ngày
2 ngày
3 ngày
>3 ngày
5
2
23
0

17
7
76
0
Thời gian phục hồi sinh hoạt bình
thường sau mổ
Chúng tôi đònh nghóa rằng phục hồi sinh hoạt
bình thường sau mổ khi bệnh nhân có thể tự đứng
lên, đi lại được và tự đi tiêu tiểu được. nhanh nhất là
12h, chậm nhất là 24h, trung bình là 16,4 h.
Bảng 7: Phân bố theo thời gian phục hồi sinh hoạt
sau mổ
Thời gian Số ca Tỷ lệ (%)
<12 h
12-24h
24-48
8
22
0
26
73
0
Tai biến và biến chứng:
Có lẻ do số ca còn ít và chưa theo dõi lâu nên
chúng tôi không ghi nhận có tai biến và biến chứng
sớm nào trong nghiên cứu này.
BÀN LUẬN
Lòch sử
Năm 1958, Horwich đã dùng một mảnh nylon
để điều trò cho thoát vò bẹn tái phát và thoát vò lớn,

ông ta nhận thấy rằng tái phát dễ xảy ra ở bờ của
mảnh ghép và để tránh điều này cần phải phủ mảnh
ghép rộng hơn chỗ yếu ở thành bẹn. Cùng trong
năm đó, Usher và Wallace qua thực nghiệm về phản
ứng của mô với mảnh ghép đã nhận thấy nên dùng
lưới polypropylen, ông đã dùng mảnh polypropylen
mỏng để tăng cường chỗ yếu thành bụng và nhận
được kết quả khích lệ mà không bò nhiễm trùng,
ng cũng ghi nhận rằng những bệnh nhân này ít
đau và hồi phục nhanh sau mổ. Tuy nhiên, ông ta
chỉ dùng lưới polypropylen cho những trường hợp
thoát vò bẹn lớn và khó khăn chứ không dùng cho
những trường hợp TVB nhỏ và vừa. ng ta đã từng
viết trong bài báo vào năm 1960 rằng “chúng tôi
nhận thấy nếu dùng lưới để vá vào chỗ yếu thay vì
may 2 mép mô ở xa nhau lại trong mổ thoát vò thì
sẽ loại bỏ được sự căng ở đường khâu và do đó sẽ
giảm được tái phát “. Vào thời gian này đa số phẫu
thuật viên khác cũng có xu hướng chỉ dùng mảnh
ghép cho những trường hợp thoát vò lớn, thoát vò
trượt hoặc thoát vò tái phát.
Năm 1962, Usher đã báo cáo dùng polypropylen
cho 183 bệnh nhân, trong số đó phần lớn lưới
polypropylen được đặt ở lớp tiền phúc mạc nhằm
tăng cường cho lớp khâu tạo hình kiểu Bassini, kết
quả là có 1,6% bò nhiễm trùng và 5,9% bò tái phát
sau 1 năm.
Collier và Griswold cũng dùng polypropylen đặt
ở lớp tiền phúc mạc trên 225 bệnh nhân với chỉ có 1
người tái phát trong thời gian theo dõi từ 6 tháng

đến 6 năm
Vào năm 1986, khi Lichteinstein mô tả kỹ thuật
dùng lưới polypropylen để điều trò thoát vò bẹn,
nhiều phẫu thuật viên cùng thời cho là kỹ thuật của
ông đề xuất là không có gì mới so với kỹ thuật dùng
lưới polypropylene có trước đó. Nhưng Lichteinstein
biện hộ rằng kỹ thuật của ông là không phải chỉ
dùng cho những trường hợp khó khăn, phức tạp mà
là dùng cho mọi loại thoát vò vùng bẹn dù lớn hoặc
nhỏ, dù phức tạp hoặc đơn giản; và nhấn mạnh
rằng phương pháp của ông bao gồm những thành
phần là: gây tê tại chỗ, cho bệnh nhân hoạt động
lại sớm, và xuất viện trong ngày. Trong ấn bản đầu
tiên của mình về vấn đề này, ông mô tả việc dùng
mảnh ghép rộng khoảng 3 × 8 cm để vá chỗ yếu
Chuyên đề Ngoại khoa
177
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học

thành bẹn, ông cũng ghi nhận rằng sự căng ở
đường khâu là nguyên nhân chính gây thất bại và
nếu loại bỏ được vấn đề này thì sẽ tránh được tái
phát. Trong một cuốn sách do ông viết vào năm
1986, Lichteinstein đã rà soát lại kinh nghiệm của
mình với các loại thoát vò thành bụng, và mô tả một
kỹ thuật mổ không căng với 300 ca theo dõi được 2
năm. Năm 1989, Lichteinstein và cộng sự đã báo
cáo kỹ thuật tạo hình không gây căng (tension-free
repair) trên 1000 ca với biến chứng tối thiểu và
không có tái phát sau 1-5 năm theo dõi. Năm 1992,

nhóm của Lichteinstein đã tổng kết 3019 ca mổ từ 5
trung tâm khác nhau, cho thấy tỷ lệ tái phát là 0,2%.
Năm 1995, tổng kết từ 72 phẫu thuật viên không
chuyên thực hiện phương pháp Lichteinstein cho
thấy tỷ lệ tái phát là 0,5% và tỷ lệ nhiễm trùng sau
mổ là 0,6%.
Nhận xét về kỹ thuật
* Qua kinh nghiệm của 30 trường hợp mổ,
chúng tôi nhận thấy kỹ thuật này rất đơn giản: chỉ
cần chú ý khâu mảnh ghép vào mô cân (chứ không
phải vào mô cơ) và khi khâu khép góc để tạo thành
một lỗ ôm sát thừng tinh không quá chặt (nhét
được đầu kềm phẫu tích là được) và chỉ khâu không
cần thiết phải xiết quá chặt (để tránh hoại tử cân).
Do bản chất của cuộc mổ hầu như hoàn toàn không
gây căng nên không cần dùng đường rạch dãn vốn
phức tạp và có thể gây yếu thành bụng.
* Ban đầu, chúng tôi thường dùng lưới
polypropylen kích thước 5×11 cm (hãng Braun)
dùng cho một người thì thấy dư và mảnh ghép hơi
bò chùng sau khi khâu xong. Sau đóù để tiết kiệm,
chúng tôi dùng loại lưới kích thước 6×11 cm (hãng
Johnson) cắt đôi theo chiều dọc chia làm 2 mảnh
dùng cho 2 người (mỗi mảnh 3×11 cm), khi đó thì
đường khâu đôi khi có hơi căng do mảnh ghép hơi
hẹp nhưng sự căng này không đáng kể nhưng bù lại
mảnh ghép được dàn đều và phẳng ra hơn.
* Thời gian mổ của chúng tôi trung bình là
36phút lâu hơn so với chúng tôi mổ Bassini (trung
bình là 30 phút) và lâu hơn nhiều so với nhóm của

Lichteinstein mổ (trung bình là 20 phút, có ca mổ
chỉ 12 phút), có lẻ do bước đầu dùng kỹ thuật này
chúng tôi chưa quen.
Nhận xét về kết quả
Do số ca mổ quá ít và thời gian theo dõi ngắn
nên trong nghiên cứu này chúng tôi chưa ghi nhận
biến chứng hay tai biến phẫu thuật nào. Tất cả bệnh
nhân của chúng tôi tong nghiên cứu này đều tự đi
lại, sinh hoạt cá nhân bình thường sau 12-24 giờ.
Thời gian nằm viện sau mổ có hơi lâu vì phần lớn
bệnh nhân được mổ vào ngày thứ sáu nên vào ngày
thứ Bảy và Chủ nhật không thể xuất viện được mà
phải đợi đến thứ Hai, chúng tôi không cho bệnh
nhân xuất viện ngay trong ngày mổ như
Lichteinstein được vì không dùng gây tê tại chỗ như
Lichteinstein mà gây tê tủy sống nên phải có thời
gian hồi phục lâu hơn.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu lớn ở nước ngoài
đã có ghi nhận một số biến chứng như tổng kết của
trung tâm nghiên cứu thoát vò Anh
(5)
với 3175 ca mổ
thoát vò bẹn theo kỹ thuật lichteinstein cho thấy:
- 45 bệnh nhân (1,3%) bò nhiễm trùng vết mổ
trong đó có 3 người bò áp xe phải dẫn lưu nhưng
không có người nào bò hình thành hang hốc mãn
tính.
- chỉ có 36 người (1%) bò đau hậu phẫu tới 2
tháng và 13 người (0,3%) bò đau kéo dài tới 2 năm.
- có 14 người (0,3%) bò tái phát trong thời gian

theo dõi từ 18 tháng đến 5 năm.
- dựa trên 2523 thư phản hồi của bệnh nhân
cho thấy thời gian phục hồi lao động trung bình là 8
ngày.
So sánh giữa kỹ thuật đặt mảnh ghép
và kỹ thuật dùng mô tự thân
Một hồi cứu cho thấy: 182 ca dùng mảnh ghép
và 170 dùng kỹ thuật Bassini, tỷ lệ tái phát theo thứ
tự là 3,3% và 11,5%. Tương tự như vậy, trong một
nghiên cứu ngẫu nhiên Friis và Lindahl so sánh giữa
dùng mảnh ghép và dùng mô tự thân cho thấy tỷ lệ
tái phát theo thứ tự là 5% và 15%.
Các nghiên cứu gần đây có khuynh hướng báo
cáo những kết quả ngắn hạn như đau hậu phẫu và
Chuyên đề Ngoại khoa
178
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003

thời gian phục hồi. Shmitz (1997) trong một nghiên
cứu ngẫu nhiên nhỏ (64 ca) cho thấy không có khác
biệt ý nghóa về tỷ lệ đau hậu phẫu giữa nhóm dùng
lưới ghép và dùng mô tự thân. Barth (1998) với 105
bệnh nhân chọn ngẫu nhiên nhằm so sánh giữa kỹ
thuật dùng lưới và kỹ thuật Shouldice cho thấy
không có sự khác biệt về: đau hậu phẫu, thời gian
phải dùng thuốc giảm đau và thời gian hồi phục trở
lại sinh hoạt bình thường.
Kux (1994) hạn chế nghiên cứu của mình vào
những người trên 60 tuổi vốn dễ bò tái phát, đã so

sánh 107 ca Shouldice với 102 ca Lichteinstein, cho
thấy nhu cầu phải dùng thuốc giảm đau tăng đáng
kể trong nhóm Shouldice, nhưng kết quả cuối cùng
ở cả 2 nhóm đều tốt như nhau.
So sánh giữa kỹ thuật đặt lưới ghép
qua ngã cổ điển và ngã nội soi
Wilson (1994) đã so sánh kỹ thuật Lichteinstein
(gây tê hoặc gây mê) và kỹ thuật mổ nội soi trên 242
bệnh nhân và không ghi nhận có sự khác biệt về
thời gian mổ giữa 2 kỹ thuật. Mặc dù không có sự
khác biệt về mức độ đau giữa 2 nhóm nhưng nhu
cầu sử dụng thuốc giảm đau dạng uống nhiều hơn
trong nhóm mổ mở. Thời gian trở lại sinh hoạt
thường ngày và lao động lại ở nhóm mổ nội soi (7-
10 ngày) ngắn hơn hẳn so với nhóm mổ mở (14-21
ngày). Một nghiên cứu khác trên 100 bệnh nhân
được chọn ngẫu nhiên giữa kỹ thuật nội soi và kỹ
thuật Lichteinstein với gây tê tại chỗ cho thấy thời
gian phẫu thuật và thời gian nằm viện không có sự
khác biệt giữa 2 nhóm. trung bình, thời gian trở lại
lao động ở nhóm mổ nội soi là 9 ngày so với 17 ngày
ở nhóm mổ mở, điều này thấy rõ hơn ở những bệnh
nhân lao động nặng, tuy nhiên tác giả đã lưu ý đến
giá thành của cuộc mổ nội soi đắt hơn nhiều so với
mổ mở.
Nghiên cứu của Brooks trên 100 bệnh nhân đặc
biệt đáng chú ý vì ông ta thực hiện cả 2 loại phẫu
thuật do cùng một phẫu thuật viên. ng nhận thấy
kỹ thuật mổ nội soi, với gây mê toàn diện đòi hỏi
phải nhập viện ngoài dự đònh nhiều hơn mổ mở

(28% so với 3,5%) do những vấn đề như: bí tiểu, ói
mửa, đau ngoài dự kiến. Việc sử dụng thuốc giảm
đau gây nghiện và thời gian sử dụng thuốc không có
sự khác biệt giữa 2 nhóm mặc dù bệnh nhân mổ mở
có vẻ sử dụng ít thuốc giảm đau dạng uống hơn.
Thời gian phục hồi sinh hoạt thường ngày và trở lại
lao động thấp hơn ở nhóm mổ nội soi so với nhóm
mổ mở (7,5 ngày so với 11,8 ngày). Tuy nhiên, việc
phục hồi lao dộng sớm này không bù được chi phí
cao của cuộc mổ nội soi, do đó cuối cùng Brooks kết
luận rằng, kỹ thuật Lichteistein là chọn lựa thích
hợp nhất cho đa số bệnh nhân, rẻ tiền nhất, ít biến
chứng sớm cũng như ít biến chứng lâu dài nhất.
Mặc dù nói chung thì mổ nội soi đắt hơn ≥2 lần
so với mổ mở đặt mảnh ghép, nhưng có một nghiên
cứu tính toán cả sự giảm phí tổn do sự phục hồi sớm
lao động cho thấy: ở nhóm mổ nội soi, bệnh nhân ít
đau sau mổ hơn; do đó trở lại lao động sớm hơn, nên
dù chi phí cuộc mổ nhiều hơn;nhưng người bệnh lại
đở mất ngày công lao động hơn, nên nhìn chung thì
mổ nội soi ít tốn kém hơn. Kết luận này dó nhiên là
không đúng đối với những người không lao động và
hưu trí (chiếm hơn 1/3 tổng số bệnh nhân).
Horeyseck (1996) đã tiền cứu so sánh trên 100
bệnh nhân mổ nội soi kiểu TAPP(trans-abdominal
pre-peritoneal) và 108 bệnh nhân mổ theo kỹ thuật
Lichteinstein. Kết quả cho thấy không có sự khác
biệt đáng kể giữa 2 nhóm về thời gian phẫu thuật,
biến chứng hậu phẫu và thời gian phục hồi lao động.
Chỉ có một phẫu thuật viên trong nhóm nhận thấy

rằng kỹ thuật TAPP khó thực hiện hơn kỹ thuật
Lichteinstein và do đó tỷ lệ tái phát sớm là 8%.
Ngược lại, 11 phẫu thuật viên dùng kỹ thuật
Lichteinstein nhận thấy không có ai tái phát. Tính
chung cả về phương diện kỹ thuật và phương diện
kinh tế thì kỹ thuật Lichteinstein tỏ ra hơn hẳn.
Janu (1997) nghiên cứu trên 800 bệnh nhân
trong thời gian 9 năm nhằm so sánh giữa 4 nhóm
kỹ thuật: (1) đặt lưới qua ngã trước, (2) dùng mô tự
thân, (3) đặt lưới qua ngã tiền phúc mạc, (4) đặt lưới
qua ngã nội soi. Kết luận cuối cùng là: kỹ thuật đặt
lưới qua mổ mở là ít bò tái phát nhất mà không làm
tăng nguy cơ nhiễm trùng cùng những biến chứng
hậu phẫu khác và không kéo dài thời gian nằm viện.
Chuyên đề Ngoại khoa
179
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 7 * Phụ bản của Số 1 * 2003 Nghiên cứu Y học

Theo Zieren
(5)
(1996), khi những chỉ tiêu đánh
giá sớm sau mổ là như nhau giữa nhóm dùng kỹ
thuật Lichteinstein và kỹ thuật mổ nội soi; thậm chí
ngay cả khi phẫu thuật nội soi có hơi vượt trội hơn
một chút, thì phần lớn phẫu thuật viên dù rành cả 2
loại kỹ thuật đều thích chọn kỹ thuật lichteinstein
hơn. Nhóm này đã báo cáo kết quả tiền cứu so sánh
giữa 3 nhóm kỹ thuật: mổ nội soi, mổ mở đặt lưới và
kỹ thuật Shouldice (mỗi nhóm có 80 bệnh nhân).
Kết quả cho thấy: những tỷ lệ biến chứng hậu phẫu

không có sự khác biệt giữa 3 nhóm và cũng không
có ca nào bò tái phát sớm trước 25 tháng. tỷ lệ đau
hậu phẫu, nhu cầu dùng thuốc giảm đau, sự hạn chế
vận động và sự hồi phục lao động là tương đương
nhau giữa 2 nhóm mổ nội soi và mổ mở đặt lưới
ghép; nhưng thấp hơn rõ rệt nếu so với nhóm
shouldice, trong khi đó phí tổn cho những dụng cụ
và vật liệu dùng trong cuộc mổ nội soi lại đắt gấp 10
lần so với mổ mở đặt lưới. Kết luận cuối cùng là:
phẫu thuật mổ mở đặt lưới ghép là kỹ thuật hứa hẹn
nhất trong số 3 kỹ thuật vừa nêu, khi tất cả các yếu
tố đánh giá đều được đưa vào xem xét và cân nhắc.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật đặt mảnh ghép vùng bẹn qua ngã cổ
điển của Lichteinstein là phẫu thuật đơn giản, ít gây
đau (do không căng), nhờ đó bệnh nhân có thể phục
hồi nhanh để sớm trở lại sinh hoạt và lao động bình
thường, chi phí điều trò thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 American Hernia Society (1999), annual meeting,
Springer – Verlag, vol. 3, supplement 1, feb. 1999.
2 BÙI ĐỨC PHÚ, NGUYỄN LƯƠNG TẤN, (1997),
Đánh giá kết quả lâu dài của các phương pháp điều trò
thoát vò bẹn taiï Huế, Hội thảo thoát vò vùng bẹn, tr
105.
3 Capozzi J.A., Berkenfield J.A., Cherry J.K., (1988),
Repair of inguinal hernia in the adult with prolene
mesh, SGO., vol. 167, 124-128.
4 Fitzgibbons R.J., Amid.K.A., Corbitt J.D., Mckernan
J.B., Nyhus L.M., (1998), Symposium: operative repair

of inguinal hernia, Contemporary surgery, january.
5 Kurzer M., Belsham P.A., Kark A.E., (1998), The
lichteinstein repair, the Surgical Clinic of north
America, vol. 78, no. 6.
6 LICHTENSTEIN F., SHULMAN A. G., AMID P.
K.(1993), The cause, prevention, and treatment of
recurrent groin hernia, Surg. Clin. north Amer., Vol.
73, no 3,p. 529.
7 NGÔ VIẾT TUẤN, (2001), ng dụng kỹ thuật
Shouldice cải biên 2 lớp trong điều trò thoát vò bẹn,
Luận án Tiến só Y học, Đại học Y Dược t/p HCM.
8 Goldstein H.S., (1999), Selecting the right mesh,
Springer – verlag, vol. 3, 23-29.
9 Rutkow I.M., Robbins A.W., (1998), Mesh plug repair
and groin hernia surgery, The Surgical Clinic of north
America, vol. 78, no. 6.
10 VƯƠNG THỪA ĐỨC, (2001), Nhận xét về kỹ thuật
shouldice trong điều trò thoát vò bẹn trên cơ sở cấu trúc
giải phẫu học của người Việt nam, Hình thái học, tập
11, số 2, trang 62.

Chuyên đề Ngoại khoa
180

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×