Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

bản word môn TTCK potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.94 KB, 32 trang )

Chương I: Đại cương về thị trường chứng khoán
Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển kinh tế của nước ta là "Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa " (trích Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII và trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đòi hỏi phải có nguồn lực lớn
mà cụ thể là huy động được nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Phát triển thị
trường chứng khoán, tìm ra các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán đã đáp ứng được nhu
cầu cấp bách về nguồn vốn hiện nay. Do yêu cầu phát triển của xã hội, do sự thương lượng, trao
đổi hàng hóa , do nhu cầu về vốn ngày càng tăng và mong muốn tìm kiếm lợi nhuận… yêu cầu
cần có nhiều thị trường mở ra để mọi người có thể giao dịch, trao đổi thuận lợi với nhau. Chính
vì vậy TTCK đã ra đời góp phần đáp ứng yêu cầu của xã hội. Vì vậy việc trang bị những kiến
thức cơ bản về thị trường chứng khoán đối với mỗi người đang trở thành nhu cầu thiết yếu.
1. Khái niệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1 Khái niệm về chứng khoán
Chứng khoán là hàng hóa trên thị trường chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu và
một số loại khác như: quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền lựa
chọn, chứng chỉ quỹ đầu tư…
1.2 Khái niệm thị trường chứng khoán
Hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán
Quan điểm thứ nhất cho rằng: TTCK và thị trường vốn là một chỉ là tên gọi khác nhau
của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản. Nếu xét về mặt nội dung thì thị trường vốn biểu hiện
các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên
ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó các thị trường này không thể phân biệt, tách rời
nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ 2 của đa số các nhà kinh tế cho rằng:” TTCK được đặc trưng bởi thị
trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị
trường vốn là khác nhau, trong đó thị trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài
chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty.
=> Nói tóm lại: TTCK là thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế của hoạt động giao dịch mua bán chứng
khoán dài hạn như các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như: chứng chỉ quỹ


đầu tư, công cụ phái sinh- hợp đồng tương lai, quyền lựa chọn, bảo chứng phiếu, chứng quyền.
TTCK là thị trường vốn dài hạn tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế,
do đó có tác động rất lớn tới môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mặt khác
TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự
hiểu biết và các lợi ích khác nhau; các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với gía trị
rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi
không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng, gây tổn thất cho các nhà
đầu tư, tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế.
2.Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
a. Qúa trình hình thành
Giữa thế kỉ 15 ở phương tây, tại những thành phố trung tâm buôn bán, các thương gia
thường tụ tập tại các quán cà phê để bàn bạc về việc mua bán, trao đổi các loại hàng hóa, ngoại tệ
và giá khoán động sản.
Những cuộc bàn bạc này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người gia tăng, rồi
hình thành một “ khu chợ riêng”.
Tại những cuộc bàn bạc này, họ trao đổi, thương lượng nhưng chỉ là những lời nói miệng
với nhau, không có hàng hóa, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ một loại giấy tờ, hàng mẫu
nào trong tay cả. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các “hợp đồng” mua
bán, trao đổi thực hiện ngay và những hợp đồng cho tương lai trong 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm
sau mới thực hiện.
Cuối thế kỉ 15 “ khu chợ riêng” trở thành một “thị trường”. Ở đó họ thống nhất với nhau
những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần những quy ước đó được sửa đổi hoàn chỉnh
thành quy tắccó giá trị bắt buộc chung.
Giao lưu kinh tế ngày càng phát triển, những phiên chợ cách nhau cả tháng không còn
phù hợp, họ đã rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày.
Phiên chợ riêng được diễn ra đầu tiên vao năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber
ở Bruges( bỉ). Tại đó có một bảng hiệu hình 3 túi da với một tiếng Pháp “Bourse” tức là “ mậu
dịch trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”.
Mậu dịch trường là một bảng hiệu chung, ba túi da tượng trưng cho 3 nội dung của “Mậu
dịch trường” , Mậu dịch trường hàng hóa, Mậu dịch trường ngoại tệ và Mậu dịch trường giá

khoán động sản.
Vào năm 1547, thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh do eo biển Even bị cát lấp, tàu bè
ra vào khó khăn, “Mậu dịch trường” ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers, một hải
cảng lớn của Bỉ thời đó.
Mậu dịch trường Auvers phát triển rất nhanh. Giữa thế kỉ 16, viên quan đại thần tài chính
Anh quốc Theomes Gresham đến đây thị sát và sau đó đã thiết lập một “Mậu dịch trường” tại
London, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các “Mậu dịch trường”
khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức, Bắc Âu. Sau một thời gian hoạt động thị trường
đã chứng tỏ được khả năng không đáp ứng được yêu cầu của cả 3 giao dịch khác nhau. Vì thế,
thị trường hàng hóa được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và
phát triển thành thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán dộng sản trở thành thị trường chứng
khoán.
b.Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán
Đã trải qua 2 đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tây
âu, Bắc âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ “vào ngày thứ 5 đen tối” 29/10/1929 và “ ngày
thứ 2 đen tối” 19/10/1987 . Song trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng thị trường chứng
khoán lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu
được trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ khoa
học kỹ thuật và mong muốn của Chính Phủ các nước trong việc tăng cường vai trò của thị trường
chứng khoán đối với đời sống kinh tế, thị trường chứng khoán đã được tạo mọi điều kiện phát
triển. Các chính sách của chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán thể hiện:
Thứ nhất, Chính Phủ các nước đã cải cách mạnh mẽ hệ thống thuế nhằm kích thích tiết
kiệm và đầu tư.Đồng thời với các chính sách khuyến khích phát triển, Chính Phủ các nước cũng
tăng cường quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của thị trường. UB chứng khoán- cơ quan
quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán được thành lập.
Thứ 2, một loạt các công cụ tài chính mới được tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu
của nhà phát hành và các nhà đầu tư. Hàng loạt các công cụ phòng vệ cũng xuất hiện như các
hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kì hạn…

Thứ 3, các nước tiến hành thành lập các thị trường giao dịch qua quầy với các yêu cầu
niêm yết chặt chẽ hơn nhằm tạo điều kiện cho các công ty mới và các doanh nghiệp có tầm cỡ
trung bình có thể tham gia thị trường.
Thứ 4, TTCK đã có sự đổi mới mạnh mẽ về kỹ thuật. các thị trường được tin học hóa triệt
để, đồng thời với các cải cách về nghiệp vụ giao dịch, nghiệp vụ lưu kí và thanh toán,… đã làm
giảm chi phí trung gian, giảm thời gian và tăng khối lượng giao dịch qua thị trường.
Thứ 5, thành lập thị trường các công cụ dẫn suất. Năm 1986 , Pháp thành lập thị trường
MATIF và đến 1987 thành lập thêm thị trườngMONEF. Các thị trường này được thành lập tạo
điều kiện cho các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh chứng khoán có khả năng phòng ngừa
các rủi ro liên quan đến biến động về giá cổ phiêu về lãi suất và tỷ giá hối đoái
Thứ 6, đẩy mạnh sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán,
đặc biệt sau khủng hoảng tài chính năm 1987.
Thứ 7, sự hiện đại hóa thị trường vay nợ của chính phủ tạo điều kiện cho Nhà Nước có
thể tăng cường huy động các nguồn tài chính trên thị trường với các chi phí thấp, tránh nguy cơ
lạm dụng phát hành để tài trợ cho Ngân sách và tạo điều kiện thực hiện chính sách tiền tệ.
Với những cải cách đó TTCK đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng, một thực thể không thể
thiếu được đối với nền kinh tế hiện đại.
1.3.1.bản chất của TTCK
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn việc mua bán này
được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ người phát
hành, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị
trường sơ cấp. Như vậy xét về mặt hình thức , thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt
động mua bán , trao đổi , chuyển nhượng các loại chứng khoán đó, qua đó thay đổi các chủ thể
nắm giữ chứng khoán , nhưng xét về mặt bản chất thì :
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung
các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho nhưng ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá
mà người sử dụng sẵn sằng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự
án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản king doanh.
Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp : cả chủ thể cung và cầu vốn đều

tham gia thị trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian
tài chính, những người có vốn có khi có đủ điều kiện về môi trường tài chính pháp lý,… sẽ trực
tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài chính mà chuyển vốn
thông qua thị trường chứng khoán , một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ những người có vốn sang
những người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư.
Với việc đầu tư qua các trung gian tài chính các chủ thể đầu tư không thể theo dõi , kiểm
tra, quản lý vốn đầu tư của họ, do đó làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau,
làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý. Trái lại việc đầu tư qua thị trường chứng khoán ,
kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về
vốn , nâng cao tiềm năng quản lý.
Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ . Các chứng
khoán mua bán trên thị trường chứng khoán có thể đem lại thu nhập cho người nắm giữ nó sau
một thời gian nhất định và được lưu thông trên thị trường chứng khoán theo giá cả thị trường, do
đó bề ngoài nó được coi như là một tư bản hàng hóa.
Có thể nói, thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản , là hinh
thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
Thị trường chứng khoán cũng gắn với loại hình tài chính ngắn hạn. Những người có
chứng khoán có thể mua bán chứng khoán tại bất kỳ thời điểm nào trên thị trường chứng
khoán ,nên các chứng khoán trung và dài hạn cũng trở thành đói tượng đầu tư ngắn hạn.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các loại giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng
khoán. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary
Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị
trường chứng khoán phi tập trung (Over-The Counter Market), ở thị trường giao ngay hay thị
trường có kỳ hạn.Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán,
và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang
tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống các loại thị trường hàng hóa thông thường khác vì
hàng hóa của thị trường chứng khoán là loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữi về tư bản. Loại
hàng hóa này cũng có giá trị, và giá trị sử dụng.Như vậy có thể nói, bản chất của thị trường
chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá

cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư.Thị trường
chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Bản chất chung nhất là thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư ,mà ở đó
giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường
chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa . Mặt khác
thị trường chứng khoán chịu tác động của nhiều yếu tố : kinh tế vĩ mô, tinh hình của từng ngành ,
từng công ty riêng lẻ…
Thị trường chứng khoán là biểu tượng của sự phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ sản
xuất trong các nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là bộ phận tất yếu của thị trường
tài chính và là bộ phận quan trọng nhất của thị trường vốn.
1.3.2 Đặc điểm của thị trường chứng khoán :
1.Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
a-Nguyên tắc công khai
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông tin về các
loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh
của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được
thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả
thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán.
b-Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán
Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và
bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc
trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị
trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì
những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng
loại chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy
nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt haị cho
các nhà đầu tư.

Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới chứng khoán và thương
gia chứng khoán.
Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn
hoa hồng.
Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán.
Nói chung các công ty môi giới chứng khoán tại các thị trường chứng khoán đều đồng thời
thực hiện 2 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người kinh doanh nhưng tại thị trường chứng
khoán New York, London từ lâu người ta đã phân biệt 2 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ
hoạt động của thương gia chứng khoán.
c. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán.
Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới
định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật
dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường.
d.nguyên tắc tập trung:
Có nghĩa là tập trung tất cả các đơn đặt hàng đơn chào bán vào sở giao dịch chứng khoán để
đảm bảo việc hình thành giá cả trung thực hợp lý
Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ luật đến qui chế, điều lệ
của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua chứng khoán và của các
thành viên trên thị trường chứng khoán.
2. Đặc điểm chủ yếu của thị trường chứng khoán:
- Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người cung cấp vốn đều
trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian tài chính;
- Là thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do tham gia vào thị
trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán, mà giá cả ở đây được hình thành
dựa trên quan hệ cung – cầu;
- Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường
sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán
đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ
muốn.
1.4 Chức năng,vai trò và những mặt hạn chế của thị trường chứng khoán

1.4.1 chức năng của thị trường chứng khoán
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phat
hành, số tiền nhà rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng xản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy
động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các
nhu cầu chung của xã hội.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một thị trường
đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất
khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng
hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có thể chuyển
đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả
năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Đây
là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có
hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của doanh nghiệp
được phản ánh một một cách tổnghợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản
phẩm.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của TTCK
phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên
cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho
thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biều của nền kinh tế
và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua
TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt
ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện
pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
1.4.2 Vai trò của thị trường chứng khoán

a.tập trung tích tụ vốn cho thị trường
Quy mô thị thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ,vững chắc,từng bước đóng vai trò là kênh
dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng ,đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.trong suốt thời kì từ năm 2000-2005,vốn hóa thị trường chỉ đạt dưới 1% GDP.Quy
mô thị trường đã có bước nhảy vọt lên 22.7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng 43,7% năm
2007.Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong
nước,chỉ số giá chứng khoán đã liên tục sụt giảm trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường
giảm hơn 50%,xuống còn 18%.khi nền kinh tế trong nước bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II năm
2009 chỉ số giá chứng khoán bắt đầu tăng trở lại cùng với các công ty niêm yết trên thị trường
cũng gia tăng nhanh chóng.Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt
37,71% GDP. Ước tính tới năm 2010 sẽ đạt 40-50% GDP
Hoạt động phát hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán thực tế chỉ mới phát sinh từ năm
2006 trở lại đây.Trong năm 2006,có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ
phoeeus và tới năm 2007 hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ khi có 200 đợt phát hành của
192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng kí với UBCKNN với tổng lượng vốn huy
động đạt gần 50000 tỷ VND.trong năm 2008, do sự suy giảm của thị trường chứng khoán tổng số
vốn huy động chỉ đạt hơn 14300 tỷ đồng thông qua 100 đợt chào bán chứng khoán ra công
chúng.thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt động phát hành qua thị trường
chứng khoán,đặc biệt là phát hành cổ phiếu.Tổng số vốn phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng
hơn 50% so với 2008 đạt 21,724% tỷ đồng
Trong 5 năm trở lại đây,lượng vốn huy động qua thị trường chứng khoán đạt khoảng 300000
tỷ đồng,riêng năm 2007,tổng giá trị vốn huy động qua thị trường chứng khoán đạt 127000 tỷ
đồng đã góp phần quan trọng giúp chính phủ và các doanh nghiệp huy đọng vốn trung và dài hạn
để đầu tư phát triên,mở rộng sản xuất kinh doanh,làm cho nền kinh tế ít hụ thuộc vào tín dụng
ngân hàng
b.Vai trò tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp
Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên việc cạnh tranh trên thị trường ngày càng tăng nhu cầ về
quản lý chuyên nghiệp cũng tăng theo.Bởi việc nắm giữ vốn không đi đôi với năng lực quản
lý.Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyên môn hóa, tiết kiệm vốn và chất
xám.Một trong những biểu hiện của vai trò này có thể thấy thông qua quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước của Việt nam
Trong những năm trước thời kì đổi mới cũng như nhiều năm về sau này việc hoạt động của các
doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả.Một trong những nguyên nhân là do nhà nước vừa là
người sở hữu vừa là người quản lý các doanh nghiệp nhà nước mà không có sự giám sát từ bên
ngoài.Chúng ta nói rằng nhà nước sở hữu nhà nước quản lý nhưng thực chất nhà nước cử ra
những cá nhân làm việc này.động cơ nào giúp DNNN tìm kiếm lợi nhuận, động cơ nào giúp
DNNN làm ăn uy tin,minh bạch trong tài chính….hoàn toàn không có.chính vì nhập nhằng giữa
quản lý và sở hữu,đồng thời nguồn vốn lại từ ngân sách nhà nước,chính vì thế mà việc thất thoát
vốn,tham nhũng,sử dụng vốn không hiệu quả dang là thực trạng đáng buồn của doanh nghiệp
nhà nước ở việt nam.Rất nhiều DNNN vẫn thường sống sót sau thời gian dài làm ăn thua lỗ
Việc thị trường chứng khoán ra đời đã tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước.Từ đó góp phần minh bạch hóa thực hiện việc giám sat từ bên ngoài đối với các hoạt
động của chúng.tính đến cuối năm 2009, Việt Nam đã cổ phần hóa được 4000 doanh nghiệp nhà
nước,trong đó nhà nước vẫn nắm 53% vốn điều lệ.Đã có nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa
như:Vietcombank, Viettinbank, Bảo Việt góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát
triển hơn đồng thời góp phần tăng quy mô hàng hóa của thị trường phát triển.Tuy tiến trình cổ
phần hóa DNNN vẫn còn nhiều bất cập thế nhưng nhìn về mặt tích cực việc này sẽ làm tăng hiệu
quả của cácDNNN
c.thực hiện tái phân phối công bằng hơn
Vai trò này được hiểu là thị trường buộc các tập doàn gia đình phát hành chứng khoán ra công
chúng giải tỏa sự tập trung vốn cho phát triển kinh tế
Gia đình trị khép kín sẽ dẫn đến quản trị yếu kém thiếu minh bạch không đủ niềm tin đối với
người bên ngoài,trình độ, kĩ năng và kinh nghiệm kinh doanh yếu,nguồn lực hạn chế không tập
trung và tích tụ nhữngn nguyên nhân dẫn đến kém phát triển
Gia đình trị đến cổ phần hóa
1/3 số công ty trong dnh sách S&P 500(500 công ty có giá trị vốn hóa cổ phần lớn nhất của mỹ)
và hơn 40% trong hơn 250 công ty lớn nhất ở pháp và Đức là những công ty gia đình.Con số này
đủ để nói lên sự thành công của mô hình công ty gia đình ngay trong thời đại mới
Tuy nhiên để đạt đến vị thế đó các công ty này phải đối mặt với nhiều thách thức.Chưa tới 30%
trong số đó tồn tại được đến thế hệ thứ 3.Và để thành công lâu dài,các ông chủ công ty gia đình

phải đồng thời đạt được 2 mục tiêu vốn rất khó song hành:đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất
và tiếp tục giữ quyền sở hữu công ty
Ở châu Á,điển hình là hàn quốc một số tập đoàn lớn vẫn nằm trong sự kiểm soát của gia đình
như samsung của gia đình lee, Hyundai thuộc về tộc Chung, LG là họ nhà Koo.Tuy nhiên theo
các nhà phân tích phương tây các công ty gia đình muốn lớn mạnh và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế thì cần phải lột xác trong đó có việc giảm bớt vai trò của quản trị gia đình và mở rộng
quyền sở hữu cổ phần cho các đối tác bên ngoài
Tại Việt Nam rất hiếm công ty gia đình tồn tại qua thế hệ thứ 3.Sự chuyển giao công ty theo hình
thức cha truyền con nối cũng chỉ mới bắt đầu ở thế hệ thứ 2, như gốm xứ Minh Long,Nệm Liên
Á còn lại khi đứng trước xứ mệnh đưa doanh nghiệp tăng trưởng hầu hết các nhà sáng lập đều
chọn hình thức chuyển đổi cổ phần để gọi vốn và tăng hiệu quả quản lý
Công ty Minh phúc và công ty Giấy sài gòn,gỗ đức thành là 3 là trường hợp đã trải qua thời kì
chuyển đổi cổ phần với nhiều thách thức.câu chuyện 3 cong ty này cho thấy việc chuyển đổi đã
mang lại hiệu quả kinh doanh rất khả quan như tốc độ tăng trưởng được cải thiện,quản trị doanh
nghiệp hiệu quả hơn,phần lớn được nhận vốn từ các quỹ đầu tư và có triển vọng niêm yết trên thị
trường chứng khoán.tuy nhiên mỗi công ty đều gặp những vấn đề khó giải quyết đó cũng là
thách thức chung cho các công ty gia đình trong quá trình chuyển đổi thành công ty cổ phần
Cụ thể tháng 10 năm 2004 công ty Minh phúc đã cổ phần hóa để phát triển quy mô,trước khi
chuyển đổi ông tiến sở hữu 60% công ty.Sau khi chuyển đổi tỷ lệ sở hữu còn 32.4%.Những kế
hoạch phát triển của ông tiến đã được thực hiện sau khi Minh phúc gặp được một quỹ đầu tư lớn
vào tháng 11-2004.Không lâu sau công ty chính thức chuyển sang cổ phần.Quỹ này đầu tư vào
Minh Phúc 1 triệu USD,tương đương với 28,2 vốn điều lệ của công ty.Năm 2009 doanh thu của
Minh Phúc đạt 174 tỷ đồng.Và với sự hỗ trợ của cổ đông,ông Tiến bắt đầu kế hoạch chuyển công
ty về một dịa điểm có diện tích 12000m2, gấp đôi diện tích hiện tại trong khu công nghiệp phong
phú.Tuy vậy nhưng nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp ứng hơn 50% nhu cầu vốn, ông cũng không
giấu việc sẽ đua công ty bước qua 1 giai đoạn mới:niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán hà
nội vào cuối năm 2010.Cho đến nay công ty đã tăng 24 lần so với khi chưa chuyển đổi cổ phần,
cổ đông tham gia cũng đa dạng về thành phần và số lượng
d.Hiệu quả quốc tế hóa thị trường chứng khoán
Chúng ta biết rằng mở cửa ttck làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cho phép

các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn,tăng cường đầu tư nguồn tiết kiệm bên ngoài
Theo các số liệu thống kê tổng mức đầu tư gián tiếp vào việt nam từ 2001-2006 ước đạt 12 tỷ
USD và năm 2007 đạt 5.7 tỷ USD, lĩnh vực hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài có sự thay
đổi.Nếu như các quỹ đầu tư vào
Nếu như các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian những năm 90 chủ yếu là các
quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam với khung pháp lí chưa
hoàn thiện, khu vực kinh tế tư nhân chưa phát triển, TTCK chưa được thành lập,cơ hội đầu tư
còn ít, nên việc giải ngân vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn thì những quỹ đầu tư trong những năm
sau này được thành lập do các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của
TTCK Việt Nam cùng với chính sách cổ phần hóa cácDNNN có quy mô lớn được đẩy mạnh
thực hiện.
Tuy nhiên, sang tới năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền
kinh tế Việt Nam,dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có dấu hiệu chững lại và thậm chí có dấu
hiệu đọng vốn đảo chiều trong nửa đầu 2008. Vốn đầu tư gián tiếp rút ra khỏi Việt Nam trong 10
tháng đầu năm 2009 lên tới 500 triệu USD và mặc dù những tháng cuối năm, dòng vốn có dấu
hiệu phục hồi nhưng cả năm 2009 vào khoảng 600 triệu USD (tương đương với dòng vốn rút ra
của năm 2008)
e. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho chính phủ phát hành huy động nguồn tài chính mà
không tạo áp lưc lạm phát
Chúng ta biết rằng chính phủ đã không còn sử dụng biện pháp in tiền để tài chợ cho chi tiêu từ
năm 1998.Chính vì thế TTCK đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của chính phủ.
TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong nước trong những đợt gần đây.đặc biệt trong năm 2009
đều không thu được kết quả như mong muốn,nguyên nhân chính là do vấn đề lãi suất không hấp
dẫn.Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009,3 lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu
USD trong tổng số 3 triệu USD được đưa ra mời thầu đợt 2 vào tháng 8/2009 trái phiếu kì hạn
dài số lượng bỏ thầu rất ít.Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được 100 triệu USD/100 triệu USD
trái phiếu chào bán kì hạn một năm;47 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu kì hạn 2 năm; và 10
triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kì hạn 3 năm.Đợt phát hành thứ 3 và thứ 4 vào ngày
29/12/2009,kết quả chỉ huy động đước 73 triệu USD trong tổng số 200 triệu USD giá trị trái
phiếu gọi thầu đạt 36,5%.Tỉ lệ huy động thành công có xu hướng giảm dần theo từng đợt phát

hành kể từ đầu 2009 tới nay.Tính chung cả năm 2009,khối lượng huy động đạt 530,2 triệu USD
(tương đương 9,278 tỉ đồng theo tỉ giá ước tính 17500 đồng/ USD)trên tổng số 850 triệu USD
gọi thầ
Đối với trái phiếu bằng nội tệ việc huy động cũng còn nhiều hạn chế
Tính đến năm 2009,có khoảng 70 đợt phát hành trái phiếu được thực hiện bao gồm trái
phiếu kho bạc nhà nước(KBNN), ngân hàng phát triển,ngân hàng chính sách xã hội và các trái
phiếu chính quyền địa phương. Theo thống kê cua ngân hàng đầu tư phát triển Việt
Nam(BIDV),chỉ có trên 2000 tỷ đồng giá trị trái phiếu KBNN được phát hành trên tổng 15000 tỷ
đồng gọi thầu.Dư nợ trái phiếu chính phủ(TPCP) tính đến cuối 2009 vào khoảng 16,9%
GDP.Nguyên nhân do thị trường trái phiếu thứ cấp ảm đạm thanh khoản ở mức thấp,thể hiện qua
giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trên thị trường cũng như cac số liệu thông kê giao dich
trung binh trong phiên.Tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn trong năm 2009 vào
khoảng 7500 tỷ đồng chỉ bằng 40% so với mức 195600 tỷ đồng của năm 2008.Giá trị trái phiếu
được chuyển nhượng trung bình trong một phiên giao dịch cũng giảm mạnh,xoay quanh mức
300 tỷ đồng/phiên,thấp hơn nhiếu so với mức 800 tỷ đồng/phiên năm 2008.Đặc biệt,tráiphieeus
chính quyền địa phương gần như không được quan tâm.Trái phiếu kho bạc bằng Việt Nam đồng
chỉ thành công với tỷ lệ 15%,một con số rất khiêm tốn.
Bước sang năm2010, những tháng đầu năm tình hình cũng không khả quan hơn.Tính
đến ngày 28/5 kho bạc nhà nước đã có 5 lần đấu thầu trái phiếu với khối lượng lớn nhưng đa số
là thất bại chỉ bán được khoảng 100 tỷ đồng. Ngân hàng Chính sách xã hội 4 lần đấu thầu nhưng
không bán được đồng nào, ngân hàng Phát triển 3 lần đấu thầu cũng thất bại.
Tuy nhiên tù tháng 5 tới nay, việc phát hành đã thu được thành công nhất định. Việc phát
hành theo lô lớn đầu tiên trong năm đã diễn ra vào cuối tháng 5, nửa đầu tháng 6, tổng khối
lượng trái phiếu phát hành đợt này là 5000 tỷ đồng với lãi suất danh nghĩa 11,33% tiền lãi thanh
toán hàng năm.chia làm 3 đợt. Đợt đấu thầu 1 và 2(25/5/2010 và 4/6/2010) giá trị gọi thầu tương
ứng mỗi đợt là 2000 tỷ đồng. Đợt thứ3 (11/6/2010) giá trị gọi thầu là 1000 tỷ đồng. Kết quả đợt
thứ nhất không thành công. Hai lần sau tổng số tiền huy động được là 2300 tỷ
Tuần trước đó, ngày 7/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 6000 tỷ đồng trái phiếu với các
kì hạn3,5 và 10 năm; huy động được 3965 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu ở các kì hạn lần lượt là
9,68%; 10,3% và 10,8% /năm

Như vậy có thể nói TTCK đã tạo ra một kênh huy động vốn khá tiềm năng cho Chính
Phủ, cung cấp lượng vốn đáng kể cho việc đầu tư cũng như thực hiện các chính sách tiền tệ của
một nước.
f. Một trong những vai trò của TTCK làcung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kì kinh doanh
trong tương lai (hay nói cách khác là hàn thử biểu của nền kinh tế.
Tuy nhiên khi xem xét vấn đề này cần nhận thức một điều là TTCK Việt Nam
chưa phải là hàn thử biểu của nền kinh tế lí do đưa ra là:
TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường
được”sức khỏe” của toàn bộ nềnkinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kì phát
triển của nền kinh tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị
trường tài chính. Nó phải đáp ứng đủ 3 yếu tố chính sau:
Quy tụ đầy đủ dữ liệu tiêu biểu của mọi ngành nghề
Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế, đó
là thị trường phải chứa đựng những DN lớn.
Tiêu biểu cho mọi nghề, đại biểu cho một nền kinh tế.
Tuy nhiên theo thống kê hiện nay, TTCK Việt Nam có 289 DN niêm yết. Con số này quá ít so
với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác, các DN niêm yết chủ
yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có sức chi phối nền kinh tế…
Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40%GDP. Song đến thời điểm
hiện tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi tương ứng
Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm
50% GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ
lớn để có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN niêm yết
; Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ sử dụng
một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm yết; chưa thể hiện
được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch còn phổ biến,
kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình của công ty (trình độ quản lý, uy tín sản
phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm ) chưa phản ánh hết trong báo cáo tài chính.
Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh mẽ tới

TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VN-Index xuyên thủng 400 điểm.
Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác định hay hoạt động kinh doanh của DN
quyết định giá chứng khoán.
Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế Hai năm qua, chúng ta đã
chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam. Ngày 8/11/2006, VN-Index xuất phát
với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày 12/3/2007) VN-Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67
điểm, để rồi hiện tại VN-Index đã quay trở lại và thậm chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên
xuống là chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên xuống với biên độ lớn trong thời gian
ngắn là bất thường. Và điều này có phản ánh chính xác sự biến động của nền kinh tế hay không?
Câu trả lời là không! Dễ dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VN-Index đã giảm quá sâu,
bất chấp những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của đại đa số công ty niêm yết
trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính phủ.
Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín dụng trung
và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian qua, sự ảm đạm của
TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường còn lại, nếu có, thì cũng chỉ như
sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK, chưa thấy
được bức tranh khái quát của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, rõ ràng VN-Index hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò trên, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn rất
nhiều hạn chế. Trước hết là nói đến vấn đề thông tin không cân xứng. Ở Việt Nam hiện nay có
thể nói thông tin được chuyển đến các nhà đầu tư là không đầy đủ và không giống nhau. Tình
trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực
đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan
quản lý.
Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường khiến cho nhà đầu tư
(NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà dần dần chuyển sang lướt sóng
nhiều hơn.
Hiện trạng sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích. Hoạt động phát hành của các
công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng
vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy

động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản
xuất kinh doanh, góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường
sụt giảm. Hoạt động chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và
quản lý của các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự
lành mạnh của TTCK. Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký
với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban
hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều
bất cập, công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu
còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo
thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp.
Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
Tuy nhiên, theo nhận định, sau 10 năm phát triển, thị trường CK Việt Nam đã có những đóng
góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, góp phần tăng trường kinh tế, gia tăng thu
nhập cho người dân.
1.4.3 Những mặt hạn chế của thị trường chứng khoán
Hạn chế của TTCK Việt Nam
1. Xuất phát điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam thấp
Hình thành từ việc cổ phần hoá các DNNN, các công ty có cổ phần niêm yết trên TTCK Việt
Nam chủ yếu do Nhà nước nắm cổ phần chi phối và vì vậy, hoạt động của các công ty này ảnh
hưởng đáng kể về tính chất quản lý theo cách mà các DNNN vẫn làm. Bộ máy với các thành
viên chủ chốt vẫn là những cá nhân do Nhà nước (cổ đông lớn nhất) bổ nhiệm. Phần còn lại, do
các cá nhân bên ngoài và người lao động trong công ty nắm giữ. Nhiều cổ đông trong công ty
thậm chí không có đủ kiến thức về pháp luật để biết được mình có quyền lợi như thế nào khi nắm
giữ quyền biểu quyết. Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và không rõ ràng, thiếu một cơ chế giám
sát đủ mạnh đã gần như không bảo vệ được quyền lợi cho các cổ đông thiểu số.
Ban giám đốc của một số công ty này vẫn do Nhà nước bổ nhiệm và gần như chẳng có trách
nhiệm gì đáng kể về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Chính đặc điểm này làm cho bộ
máy quản lý trở nên chuyên chế và có xu hướng chú trọng tới lợi ích các nhân của mình hơn là
lợi ích của các cổ đông và các chủ sở hữu. Điều mà chúng ta vẫn thường thấy trong các doanh
nghiệp nhà nước. Trước hiện trạng đó câu hỏi đặt ra là các công ty kiểm toán độc lập, người

chịu trách nhiệm về sự trung thực của các báo cáo tài chính do các công ty này công bố và cá nàh
đầu tư, liệu đã làm hết trach nhiệm của mình? Và các thông tin được SSC yêu cầu công bố là
hoàn toàn không đủ để có thể phân tích và đánh giá một cách sát thực hơn về tình
hình kinh doanh và tài chính của các công ty này. Một số công ty còn cung cấp thông tin một
cách thiếu trung thực và không đầy đủ.
Đánh giá về các công ty niêm yết:
Các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam hầu như đều là các DNNN cổ phần hoá. Trong một
vài năm trước và sau khi cổ phần hoá, các công ty này tạo được mức lợi nhuận tương đối hấp dẫn
vì được hưởng những lợi thế nhất định từ khi chuyển đổi sở hữu. Phần lớn các công ty đầu tiên
được lựa chọn để tiến hành cổ phần hoá (theo kiểu thí điểm) đều là các công ty đang hoạt động
tương đối tốt của các Bộ, các Tổng công ty hoặc của các địa phương. Ngoài ra, việc được hưởng
ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong những năm đầu sau khi cổ phần hoá tạo cho các
doanh nghiệp này khả năng tạo được mức lợi thế tương đối hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn
nhận rằng, lợi thế của một số công ty có được là nhờ một số lợi thế độc quyền mà đơn vị chủ
quản trước đây mang lại. Những lợi thế này chỉ tạo được khả năng duy trì lợi nhuận trong một
khoảng thời gian ngắn và hầu như không xuất phát từ tiềm năng và khả năng cạnh tranh thực lực
của doanh nghiệp. Chính vì vậy, doanh nghiệp không có khả năng đối phó với những biến động
của nền kinh tế. Tình hình hoạt động của họ vì vậy chịu tác động rất mạnh của các yếu tố kinh tế
vĩ mô. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn được xem là hết sức phức tạp, tuy ít có khả năng
xảy ra khủng hoảng
nghiêm trọng nhưng lại đầy rủi ro ( khả năng ít xảy ra khủng hoảng nghiêm trọng vì nguyên
nhân sự trì trệ về kinh tế chứ không phải xuất phát từ một nền kinh tế đủ tiềm lực để đối phó với
rủi ro).
Các công ty niêm yết hiện tại hầu hết là các công ty có lịch sử ra đời khá lâu và hoạt động trong
các ngành kinh tế rất phổ thông và mang tính cạnh tranh cao như sản xuất hàng tiêu dùng, chế
biến thực phẩm, vật liệu xây dựng thị trường Việt Nam và quốc tế đối với các sản phẩm này
hầu như đã bão hoà. Mặt khác, các sản phẩm này phần lớn nằm trong danh mục các mặt hàng cắt
giảm thuế khi hội nhập. Khả năng mở rộng và phát triển nhanh là rất ít. Việc này duy trì ở mức
độ hiện tại và gia tăng chút ít so với năm trước. Điều này làm cho giá trị cổ phiếu của công ty
khó có thể gia tăng ổn định.

2. TTCK Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập
Kinh tế quí 1-2007 tăng 7,7%, nhưng những thử thách trên con đường phát triển cũng đã được
phân tích, đó là sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, về năng lượng, và những áp lực cải cách… Tình
hình của Việt Nam hiện nay, áp lực cải cách vẫn lớn trong khi không gian để cải cách còn rộng.
Thách thức nhiều nhưng điều kiện xử lý thách thức cũng rất lớn. Nhìn ra ngoài, nền kinh tế thế
giới cũng sẽ phát triển ổn định trong năm nay và điều này cho phép Việt Nam tiếp tục duy trì
tăng trưởng cao trong một thời gian nữa.Theo báo cáo kinh tế của Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), Việt Nam sẽ đạt tốc độ tăng trưởng GDP 8,3% trong năm 2007 và 8,5% trong năm 2008
nếu Việt Nam tiếp tục thúc đẩy việc cải cách kinh tế và hệ thống hành chính công. Quí 1 năm
2007, tiền gửi (bằng tiền đồng) của các tổ chức kinh tế tăng mạnh (11,4% so với mức 1,05% của
quí 1-2006) thì tiền gửi củadân cư tăng thấp (6,6% so với mức 13,2% của quí 1-2006 (Báo cáo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Nguyên nhân được xác định là trong quí 1 nhiều doanh nghiệp đã
tích cực phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn trong khi người dân dồn tiền vào chứng
khoán thay vì gửi vào ngân hàng. TTCK tiếp tục phát triển nhưng không ổn định. Nguyên nhân
có phần do tác động tích cực của tình hình kinh tế tăng trưởng cao và ổn định nhưng chủ yếu do
nhu cầu tăng quá lớn và do hoạt động đầu cơ trên trên thị trường
Cơ chế hạn chế đầu tư đã đặt các kế hoạch của chính phủ nhằm cải cách các doanh nghiệp nhà
nước làm ăn thiếu hiệu quả hoặc thua lỗ vào tình huống khó xử. Hiện nay, với việc Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại Thế giới WTO, hoạt động M&A đã bắt đầu có những bước tiến ổn định
đầu tiên, bằng việc các nhà đầu tư nước ngoài đã tận dụng được lợi thế của các doanh nghiệp đã
cổ phần hòa kết hợp với môi trường pháp lý đang được hoàn thiện, gia nhập vào đội ngũ các
doanh nghiệp trong nước, hoặc là đối tác kinh doanh hoặc là thông qua kênh hoạt động độc lập.
Hầu hết các công ty trong nước rất cần đến nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, những bí quyết
công nghệ - kỹ thuật và phương pháp quản lý của nước ngoài, để có thể cạnh tranh với thị trường
thế giới cũng như để duy trì một vị thế vững chắc trước sự đổ xô đầu tư của các đối thủ cạnh
tranh nước ngoài vào thị trường trong nước. Mặc dù vẫn trong quá trình chuyển đổi từ một nền
kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đang dần thích nghi để
theo kịp sự phát triển của công nghệ và quy trình quản lý nguồn nhân lực hiện đai trong môi
trường kinh doanh quốc tế ngày nay.
Chính phủ đã nhấn mạnh mong muốn của mình là sẽ sớm khai trương cổng thông tin điện tử trực

tuyến nhằm hỗ trợ các giao dịch M&A , giúp cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài
xích lại gần nhau hơn. Đòn bẩy chính trong các hoạt động M&A gần đây chính là do tốc độ tăng
trưởng cao của kinh tế Việt Nam, với mức bình quân giai đoạn 2001-2005 là 7,5%. Một số
chuyên gia kinh tế rong lĩnh vực ngân hàng và đầu tư dự đoán rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam có thể vượt ngưỡng 8% trong năm 2007, có khả năng vượt qua Trung Quốc để trở
thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất khu vực châu Á.
Thị trường cổ phiếu của Việt Nam là một trong những thị trường phát triển nóng nhất châu Á,
lượng giao dịch trung bình đạt mức 32 lần thu nhập. Công tác kế toán nghèo nàn cũng như các
báo cáo tài chính chuẩn đã gần như không thể giúp các nhà đầu tư tiềm năng không biết nên tiến
hành đầu tư vào các công ty Việt Nam. Hiện nay, đang có mối lo ngại về chất lượng quản lý ở
các công ty tư nhân ở Việt Nam cũng như các công ty nhà nước, mà các công ty đó đang cải
thiện tình hình một cách ổn định, tuy nhiên, họ vẫn khó có thể được chấp nhận với những thông
lệ quốc tế dù là đơn giản nhất.
Cho đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% khối lượng giao dịch của thị trường
trong năm 2006. Tuy nhiên, rất nhiều nhà đầu tư lo ngại xảy ra câu chuyện về sự tăng trưởng
nhanh, nóng đang diễn ra ở khu vực châu Á. Số lượng các tài khoản giao dịch chứng khoán ở thị
trường trong nước đã tăng gần gấp 4 lần từ 32000 tài khoản lên 120000 tài khoản trong năm
2007, trong khi đó số các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã tăng gấp đôi lên con
số 107 trong vòng sáu tháng cuối năm 2006.Có những thay đổi quan trọng về quy định đối với
thẻ tín dụng, nhằm giảm bớt sự lo ngại đang gia tăng của các nhà đầu tư và tạo khung pháp lý về
đầu tư của Việt Nam phù hợp hơn với các tiêu chuẩn của WTO đề ra, một luật về chứng khoán
mới đã được ban hành vào đầu năm 2007, nhằm thiết lập những tiêu chuẩn mới đối với các công
ty trong việc công bố thông tin và công tác quản lý, cho dù các công ty đó được giao dịch trên
sàn giao dịch OTC hay trên sàn giao dịch chính thức. Các quy định về thị trường cũng đang dần
theo hướng các tiêu chuẩn tài chính quốc tế cũng như các tiêu chuẩn quốc tế về kiểm toán đối
với các doanh nghiệp quốc doanh.
Nếu các quy định pháp lý về thị trường chứng khoán theo kịp được tốc độ lưu chuyển vốn nhanh
của các tổ chức nước ngoài. Những dự đoán tiêu cực về sự sụp đổ của thị trường chứng khoán
Việt Nam đã buộc chính phủ phải cấp thiết đưa ra việc kiểm soát chặt chẽ, trong đó có mô hình
hạn chế của Thái Lan, trong đó bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài, nếu muốn đầu tư, thì phải

cam kết tối thiểu là trong thời hạn 1 năm mới được rút vốn ra khỏi thị trường này. Cho dù là tốt
hơn, hay xấu đi, cho đến nay, các nhà lãnh đạo Đảng cũng đã lưu tâm tới ý kiến đóng góp của
nước ngoài là để cho thị trường tự điểu chỉnh hơn là ban hành những quy định về mặt hành chính
để điểu chỉnh việc định giá của cổ phiếu, đây là dấu hiệu gần đây nhất trong những cam kết của
Việt Nam hướng tới kinh tế thị trường.
Tính đến ngày 15/12/2006, chỉ số VN-Index đã tăng trên 140% so với cùng kỳ năm ngoái, trong
khi, chỉ số chứng khoán toàn cầu chỉ tăng 17%; chỉ số chứng khoán của các thị trường đang lên
chỉ tăng 40% và chỉ số chứng khoán của các nước Asean chỉ tăng 35%. VN-Index đã tăng đến
70%. VN-Index đã tăng quá nóng. Nguyên nhân gây ra sự gia tăng bất hợp lý của thị trường chủ
yếu là do tính không chuyên nghiệp của các nhà đầu tư. Tin tưởng vào đánh giá lạc quan về
TTCK Việt Nam của Merrill Lynch, một trong những tổ chức kinh doanh chứng khoán hàng đầu
thế giới, và tin rằng sau tháng 6 các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào Việt Nam đã tạo ra cơn
sốt vào thời gian giữa tháng 4. Tiếp đến, việc trở thành thành viên thứ 150 của WTO và tổ chức
thành công Hội nghị APEC vào tháng 11 cộng với dự báo về khả năng có một làn sóng đầu tư
mới vào Việt Nam có thể là nguyên nhân chính tạo ra cơn sốt cuối năm 2006.
Tuy cung tăng mạnh, bình quân một ngày có hai loại cổ phiếu mới lên sàn, nhưng lại chưa đáp
ứng được sự mong đợi của thị trường. Ngoài vấn đề về ngành nghề, quy mô, năng lực cạnh tranh
khi hội nhập , thì giá của một số loại CP mới vừa được chào sàn cao hơn khá nhiều so với mức
giá giao dịch tại thị trường OTC trước đó. Vì vậy, nhiều loại cổ phiếu không được các NĐT chấp
nhận và bị rớt giá vào những phiên giao dịch sau đó. Giá của một số CP mới lên sàn hiện nay
khiến cho nhiều người phải xem xét lại và so sánh với giá của các CP tốt đã được niêm yết. Vì
thế, lượng tiền được chuẩn bị để mua các CP mới lại tiếp tục nằm trong tài khoản ngân hàng
hoặc quay sang mua các loại CP tốt đang được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý thâu tóm.
Không chính thức lớn gấp nhiều lần chính thức
Hiện nay, đến 70-80% vốn đổ vào chứng khoán là để đầu cơ chứ chưa phải là đầu tư vốn cho nền
kinh tế”. Theo đánh giá của các chuyên gia, TTCK không chính thức bắt đầu hình thành tự phát
không có sự quản lý một vài năm trước khi Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp. HCM đi vào
hoạt động năm 2000. Nguồn cổ phiếu chính được giao dịch trên thị trường không có sự quản lý
của cơ quan quản lý TTCK là ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Tp.HCM, là các doanh nghiệp nhà nước trước đây đã được cổ phần hóa và các công ty cổ

phần do các tổ chức kinh doanh và đầu tư tư nhân thành lập.
Trong gần 6.700 công ty cổ phần, thì đến nay đã có 131 công ty đã được niêm yết và đăng ký
giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội tính đến ngày 22/12/2006.
Số còn lại chưa niêm yết và vẫn đang được giao dịch trên thị trường không chính thức. Theo ước
tính, khối lượng giao dịch cổ phiếu của thị trường không chính thức lớn gấp khoảng 3 đến 6 lần
so với lượng giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán, và giá trị giao dịch cổ phiếu bình
quân mỗi ngày cũng lớn hơn 3 lần. Tuy nhiên, mức độ rủi ro trong thanh toán trên TTCK không
chính thức khá cao. Việc thanh toán các giao dịch không chính thức không được bảo vệ bởi luật
pháp hay tổ chức nào, và hoàn toàn phụ thuộc vào uy tín cá nhân của nhà môi giới chứng khoán
không có giấy phép. Ngoài ra, TTCK không chính thức cũng không bảo vệ cho nhà đầu tư,
không có cơ chế thị trường hiệu quả, công bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch
như ở các trung tâm giao dịch chứng
khoán. Các quy định của TTCK không được áp dụng bên ngoài các trung tâm giao dịch chứng
khoán có tổ chức, và do vậy, ủy ban CKNN không có khả năng quản lý TTCK không chính thức.
Thiếu một hệ thống báo cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên
không rõ ràng. Năng lực tài chính, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà môi giới
không được kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về tổ chức phát hành không
được xác minh.
3.Các nhà đầu tư vẫn dè dặt khi mua cổ phiếu.
Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay nhỏ, giá và chỉ số chứng khoán luôn biến động.
Các công ty cổ phần chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa có sức hút mạnh mẽ đối với
nhà đầu tư. Hàng hóa cho thị trường thưa thớt, chất lượng kém. Số lượng tài khoản thường xuyên
có giao dịch chiếm tỷ lệ thấp, tài khoản của nhà đầu tư có tổ chức và nước ngoài rất ít, dẫn đến
thị trường có những giai đoạn trầm lắng.
1.4.4Nguyên nhân
1. Thông tin không cân xứng.
Hiện nay cả nước có khoảng hơn 6.700 công ty cổ phần, bao gồm khoảng 2.000 DNNN cổ phần
hoá và còn lại là các công ty cổ phần thành lập theo Luật doanh nghiệp. Chỉ cần khoảng 10% số
công ty trên tham gia bán cổ phần ra thị trường chứng khoán thì chúng ta sẽ có con số “cung”
cao gấp 15 lần hiện tại. Việt Nam hiện có tổng số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng hơn

400.000 tỷ đồng, cộng với hàng chục ngàn tỷ đồng tiền mua bảo hiểmhàng năm và một lượng
tiền không nhỏ đổ vào bất động sản, vàng v.v… Nếu những khoản tiền này được đưa vào thị
trường chứng khoán, đây chắc chắn sẽ là một tiềm năng rất lớn từ phía “cầu” của thị trường
chứng khoán. Nếu với lượng tiềm năng thị trường rất lớn cả về cung và cầu như vậy, tại sao
chúng ta chưa có số lượng trao đổi mua bán lớn. Cung và cầu chưa gặp được nhau chính bởi sự
ngăn cách của bức tường thông tin Hiện nay, người mua có rất ít thông tin và điều kiện để thẩm
định giá trị của loại cổ phiếu mình mua: Thứ nhất, rất khó tìm kiếm báo cáo tài chính của một
doanh nghiệp, cần phải nhìn nhận vấn đề công khai thông tin như một điều kiện tiên quyết cho
một thị trường chứng khoán lành mạnh. Thứ hai, một số các công ty cung cấp thông tin một
cách thiếu trung thực và không đầy đủ như sự kiện của Bánh kẹo Biên Hoà hay Cơ khí Bình
Triệu (2005), làm giảm độ tin cậy của thông tin. Thị trường chứng khoán không thể thiếu các qui
định được tuân thủ nghiêm ngặt về kế toán và kiểm toán. Thứ ba,nếu các công ty chứng khoán
đưa ra thông tin chính xác thì khả năng phân tích toàn diện để xác định giá trị cổ phiếu là rất khó
khăn đối với nhà đầu tư. Việt Nam rất cần những tổ chức độc lập có đủ trình độ và uy tín để đánh
giá đúng "sức khoẻ" của các doanh nghiệp. Những đánh giá chính xác và công bằng của họ sẽ
giúp các nhà đầu tư đủ tự tin để quyết định mua hàng.
2. Sự tham gia của những nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường ít
Về phía cầu, những nhà đầu tư cổ phiếu trên TTGDCK Việt Nam hầu hết là cá nhân mang tính
đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị trường. Điều này làm cho chính các
doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động vốn qua TTGDCK. Những nhà đầu tư tổ chức
Việt Nam cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết,
một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng một phần do
những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý. Những khó khăn đó là khung pháp
lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh
bạch thông tin, các quy định chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước
ngoài, các hạn chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v
3. Hoạt động của thị trường OTC lớn hơn nhiều lần so với thị trường chính thức
Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài TTGDCK (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra
khá sôi động, nhưng hiện chưa có quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước
tính, số lượng doanh nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường không chính

thức này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. Trong số khoảng 1.000 DNNN
đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có thể cho rằng một số lượng lớn
cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được mua bán trên thị trường không chính thức. Ở các
nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị trường
tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam. Thị trường phi chính thức
không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường
chính thức mới manh nha phát triển.
18Ở các nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị
trường tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam. Thị trường phi
chính thức không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho
thị trường chính thức mới manh nha phát triển.
2.4. Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn có
nhiều bất cập
Mặc dù Chính phủ đã thể hiện quyết tâm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam (qua Quyết
định số 163/2003/QD-TTg ra ngày 5/8/2003 định ra các mục tiêu chiến lược như đưa tổng giá trị
thị trường chứng khoán đạt 2-3% GDP vào năm 2005 và 10-15% GDP vào năm 2010), nhưng
các quy định pháp lý hiện hành cũng như những biện pháp triển khai dường như lại không thống
nhất với chiến lược này. Ví dụ như theo văn bản Nhà nước gần đây nhất về cổ phần hóa (Chỉ thị
số 01 Chính phủ tháng 1 năm 2003), Nhà nước vẫn sẽ nắm giữ ít nhất 51% cổ phần đối với các
DNNN cổ phần hóa có vốn trên 5 tỷ đồng và sản xuất kinh doanh có lãi.
Như vậy, trong số gần 2.000 DNNN nằm trong kế hoạch cổ phần hóa đến năm 2005, sẽ có rất ít
trường hợp mà cổ đông tư nhân được chiếm phần đa số trong các công ty lớn.
5. Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt Nam
Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập kỷ qua, đặc biệt là từ
năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều ở một quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường
được quản lý theo kiểu gia đình. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm
cách duy trì chế độ nhiều sổ sách và không công khai thông tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo cáo
tài chính theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 15-20%.3 Nguyên nhân của

tình hình này không chỉ do ý định chủ quan, thói quen của doanh nghiệp mà còn do sự thiếu
vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm toán, kế toán của Việt
Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở ngại đối với nhà đầu tư và không khuyến khích được hoạt
động huy động vốn cổ đông.
1.4.5 Giải pháp
1.4.5.1 Về phía Nhà nước
Đưa ra khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số: Khi tham gia vào thị trường chứng
khoán các cổ đông nhỏ sẽ gặp nhiều bất lợi hơn các cổ đông lớn vì họ chỉ là những nhà đầu tư
nhỏ lẻ, khả năng nắm bắt thông tin không nhanh, và khả năng phân tích thông tin kém chính vì
vậy họ có rất nhiều bất lợi. Vì vậy Chính phủ cần đưa ra các khung pháp lý cần thiết để bảo về
quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ. - Đưa ra các quy định về chế độ thuế đối với nhà đầu tư- Đưa ra
các chuẩn mực kiểm toán, kế toán: cần có một chuẩn mực kiểm toán để Nhà nước có thể kiểm tra
tính minh bạch của những thông tin do công ty cổ phần đưa ra Đưa ra các chuẩn mực về công
khai minh bạch thông tin: đây là điều kiện tiên quyết để lành mạnh TTCK Việt Nam giúp thị
trường phát triển tốt hơn.
1.4.5.2 Về phía các nhà đầu tư
Cần phải có những hiểu biết cơ bản về thị trường chứng khoán, có hiểu biết về cổ phiếu của các
công ty muốn đầu tư, xác định mức độ chính xác, mức độ tin cậy của thông tin khi đầu tư.
1.4.5.3 Về phía các công ty chứng khoán
Cần đưa ra thông tin chính xác và minh bạch, để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể phân
tích các thông số kỹ thuật để có thể đầu tư chứng khoán một cách chính xác hơn và không như
hiện nay đầu tư theo phong trào, điều này làm cho TTCK Việt Nam thành TTCk bong bóng điều
này sẽ rất nguy hiểm đối với nền kinh tế
trong những năm sắp tới Chính phủ cần đưa ra những biện pháp mạnh để làm cho thị trường
chứng khoán lành mạnh hơn, tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước
ngoài, sẽ giúp cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh để sau 10 năm nữa Việt Nam chính thức bước
vào sân chơi quốc tế với sự cạnh tranh gắt.
1.5. Cấu trúc của thị trường chứng khoán
1.5.1 căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng sở giao dịch chứng khoán. Thông

thường một thị trường chứng khoán bao gồm hai thị trường cùng tham gia (cấu trúc thị trường
chứng khoán) là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động giao dịch
mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng thêm qui mô đầu tư vốn.
Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn tiết kiệm của dân chúng như của một số
tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
2. Thị trường thứ cấp:
• Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn ra hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp thu sau lần bán
đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng
khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp. Quan hệ của thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ:
-Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành.
-Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ
cấp.
-Thứ ba, thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí
vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư,tạo cơ sở tham chiếu
cho các nhà phát hành và nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải là sự khác
nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ,
việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư
và tiết kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất
nhộn nhịp có hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô la chứng khoán được mua đi bán
lại, nhưng không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính
mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể
khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng khoán. Hai thị
trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong
đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường

sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không
có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho
người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết.
Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và
đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị
trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo
tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát
hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ
cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở
thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
1.5.2. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường
-Thị trường trái phiếu( Bond Market) là thị trường mà hàng hóa được mua bán ở đó là các trái
phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn
trả cả gốc lẫn lãi và có thời hạn xác đinh,có thể trung hạn hay dài hạn.
-Thị trường cổ phiếu, (Stock market) là nơi giao dịch mua bán,trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ
phần đóng góp của cổ đông.Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong
phần đóng góp của mình.
-Thị trường các công cụ dẫn suất(Derivative Market) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua
bán: Hợp đồng tương lai, Hợp đồng quyền chọn.
• 1.5.3 Căn cứ theo hình thức tổ chức thị trường
-Sở giao dịch( Stock Exchange) là nơi người mua và người bán(hoặc đại lý môi giới của họ) gặp
nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (TTCK tập trung) là thị trường hoạt động theo đúng các
qui luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay được biệt
lệ.
Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho
phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian Chứng khoán biệt lệ là loại chứng
khoán được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan

công quyền, thành phố, tỉnh quận, huyện, thị phát hành và bảo đảm.
Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và giá
cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội động chứng khoán.
Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được thể hiện bằng các sở giao dịch chứng
khoán.
-Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung(OTC) là
thị trường không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy,
sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay các mạng máy tính diện rộng
Thị trường chứng khoán phi chính thức: (TTCK phi tập trung) là thị trường mua
bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung
những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch chứng
khoán. ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ hay thủ tục nhất
định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán.các kinh kỷ và công ty kinh kỷ,
tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định.
1.6. Thị trường chứng khoán trên thế giới và Việt Nam
1.6.1. Thị trường chứng khoán trên thế giới
1.6.1.1 Thị trường chứng khoán Mỹ
Thị trường chứng khoán Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trình độ cao về
mọi mặt. Mô hình TTCK Mỹ đã được nhiều nước học tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp
với điều kiện thực tế từng nước. thời điểm đánh dấu sự ra đời của TTCK Mỹ là 17/05/1792
khi một số nhà môi giới công bố thỏa thuận của họ sau khi họp nhóm dưới gốc cây ngô đồng
ở số 68 phố Uôn(gọi là hiệp ước cây ngô đồng) và đến năm 1800 dánh dấu sự ra đời Sở giao
dịch chứng khoán( SGDCK) đầu tiên, tiếp theo đó là hang loạt các SGDCK được hình thành
trên khắp đất nước Mỹ. TTCK Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất thế giới
nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dichjvaf ảnh hưởng to lớn của nó đối với thị
trường chứng khoán khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao dịch chứng khoán ở Mỹ
được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối với hang hóa là trí phiếu chính
phủ.
Sở giao dịch Chứng khoán NewYork (NYSE) là sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất ở
Mỹ. thị trường chứng khoán này được gọi là thị trường phố Wall – nơi phôi thai những giao

dịch đàu tiên của nước Mỹ kể từ năm 1864 và hiện là trung tâm giao dich chứng khoán lớn
nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã
trở thành thị trường chứng khoán quốc gia.
Năm 2000, tổng số có 262,5 tỷ cổ phần được giao dịch trên NYSE, số cổ phần giao dịch
bình quân hàng ngày đạt 1.041,6 triệu USD. Giá trị giao dịch bình quân hàng ngày cũng đạt
43,9 tỷ USD, tổng giá trị giao dịch trong năm 2000 của NYSE đạt 11,1 nghìn tỷ USD. Năm
2000 là năm NYSE hoàn thiện hơn nữa hệ thống giao dịch bằng sự thay đổi của cách yết giá
( yết giá dạng thập phân thay vì dạng phân số trước kia). Cuối năm 2000, có 2.862 cổ phiếu
được niêm yết trên NYSE với tổng giá trị là 17,1 nghìn tỷ USD.

Sở giao dịch chứng khoán Mỹ ( American Stock Exchange – AMEX) là thị trường
chứng khoán tập trung lớn thứ 2 ở Mỹ và hiện có khoảng 1/5 số chứng khoán của Mỹ được
mua bán trên thị trường này. Cũng tương tự như Sở giao dịch chứng khoán NewYork,
AMEX hoạt động theo hệ thống đấu giá mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò
quan trọng. Hiện nay, thành viên của sở là 661 thành viên.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×