Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận Quan hệ Kinh tế Quốc tế pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.7 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2 TẠI TP HỒ CHÍ MINH
KHOA: TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGHÀNH: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUỐC TẾ
ĐỐI VỚI NƯỚC CHUYỂN GIAO.

Nhóm 20:
1) Trần Thanh Hải 180
2) Phạm Tấn Phong 197
3) Phạm Văn Thái 208
4) Nguyễn Phước Toàn 220
5) Đinh duy Toàn 221
6) Nguyễn Đình Tuấn 224
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009
I-GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Một đặc điểm nổi bật của thế giới ngày nay là sự phân chia giàu nghèo ngày
càng lớn giữa các nước phát triển và đang phát triển. Một số nước đang phát triển
ở Châu Á, đặc biệt là tại các nước Đông Nam Á đã vươn lên một cách mạn mẽ và
đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng, giảm khoảng cách giàu nghèo trong khuôn
khổ của phát triển bền vững bằng con đường công nghiệp hoá – hiện đại hóa đất
nước. Trong đó, công nghệ đóng vai trò cốt lõi của mọi quá trình, là chìa khóa cho
sự thành công trong quá trình phát triển kinh tế. Trong xã hội hiện đại, vai trò của
công nghệ ngày càng tăng lên. Những tiến bộ như vũ bão của khoa học - công
nghệ trong hai thập kỉ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ nano, tự động hoá đã làm đảo lộn tư duy và chiến
lược của nhiều nước. Ngày nay không một ai còn có thể hoài nghi về vai trò của
công nghệ trong phát triển kinh tế toàn cầu và của mỗi quốc gia. Trong xu thế toàn
cầu hóa kinh tế hiện nay vấn đề chuyển giao công nghệ quốc tế là một hiện tượng
tất yếu và rất đáng quan tâm. Tuy nhiên chuyển giao công nghệ quốc tế không chỉ


vai trò to lớn đối với các nước nhận chuyển giao mà còn mang lại những lợi ích
đáng kể đối với các nước chuyển giao công nghệ. Chính vì những lí do trên, nhóm
tiểu luận của chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Tác động của chuyển giao công
nghệ quốc tế đối với nước chuyển giao”.
Do quá trình nghiên cứu đề tài gặp rất nhiều khó khăn không chỉ về nguồn tư
liệu mà còn về thời gian và kinh nghiệm, vì vậy bài tiểu luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Mong quý thầy cô và các bạn bỏ qua.
II-CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ.
1. Công nghệ:
1.1. Khái niệm công nghệ
Hiện nay, mặc dù được sử dụng rất phổ biến nhưng khái niệm “công nghệ” vẫn
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Vậy công nghệ là gì?
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, công nghệ (có nguồn gốc từ
technologia, trong tiếng Hy Lạp; techne có nghĩa là thủ công và logia có nghĩa là
"châm ngôn") là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mưu mẹo của con
người. Từ đó có thể hiểu rằng công nghệ là việc phát triển và ứng dụng của các
dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề
của con người. Với tư cách là hoạt động con người, công nghệ diễn ra trước khi có
khoa học và kỹ nghệ. Nó thể hiện kiến thức của con người trong giải quyết các vấn
đề thực tế để tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc quy trình tiêu chuẩn.
Còn theo định nghĩa tại thông tư 28/TT-QTKH ngày 22/10/1994 của bộ
KHCN&MT hướng dẫn chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam: công
nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các kiến thức khoa
học, dùng để giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thực tiễn trong sản xuất, kinh
doanh. Định nghĩa gần đây nhất của công nghệ được đưa ra trong Luật chuyển
giao công nghệ số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006 có quy định: “Công nghệ là
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
2
giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương
tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.

1.2. Phân loại công nghệ
Do có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm công nghệ nên cũng có nhiếu
cách phân loại công nghệ khác nhau. Vì vậy để thuận tiện cho việc quản lý, người
ta phân thành 4 loại sau:
Thứ nhất là các bí quyết kỹ thuật, phương án công nghệ, quy trình công nghệ,
tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật. Có thể lấy ví dụ như công thức sản xuất
nước hoa cK, tài liệu thiết kế kỹ thuật một chiếc xe Honda,…
Thứ hai là các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa (theo điều 4, chương I, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp 28/1/1989). Một vài ví dụ như là: sáng chế “máy bơm nước đạp chân” của
ông Nguyễn Tất Hải ở Nghệ An, kiểu dáng Coca Cola, …
Thứ ba, các giải pháp nói trên có thể bao gồm máy móc, thiết bị có hàm chứa
nội dung công nghệ. Từ ví dụ ở trên ta có thể phát triển thêm: máy tách hương liệu
trong cách thức sản xuất nước hoa,…
Cuối cùng là các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn. Cũng giống như hàng hóa, công
nghệ cũng có công nghệ hữu hình và công nghệ vô hình. Công nghệ vô hình trong
dịch vụ và tư vấn có thể kể đến: công nghệ mã hóa kỹ thuật số trong dịch vụ thuê
bao của hãng Napster,
Ngoài ra, trong cùng một nghành công nghiệp, người ta còn sử dụng khái niệm
“công nghệ sản phẩm” (thiết kế như thế nào: biểu hiện các khả năng áp dụng các
tri thức mới, sang tạo ra các sản phẩm có đặc tính mới) để phân biệt với “công
nghệ quá trình” (sản xuất như thế nào: biểu hiện bằng khả năng chế tạo sản phẩm
một cách kinh tế bằng cách tăng sản lượng, hạ giá thành ). Ví dụ: Mỹ là quốc gia
đứng đầu trong công nghệ sản phẩm nhưng trong một thời gian dài đã thua Nhật
Bản về công nghệ quá trình. Do chưa đủ tiềm lực R&D và hiểu rất rõ rằng công
nghệ sản phẩm dễ bị bắt chước và mất bản quyền, nên trong một thời gian dài (cho
đế đầu những năm 1980) người Nhật đã tập trung vào công nghệ quá trình lien
quan đến việc tổ chức sản xuất trong nội bộ doanh nghiệp gắn liền với các quan
niệm, nguyên tắc đặc thù về quản lí của người Nhật khó bị bắt chước thừ đó giữ
được lợi thế cạnh tranh bền vững hơn.

2. Chuyển giao công nghệ:
2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ, theo nghĩa rộng, xảy ra khi yếu tố công nghệ này được
khai thác hay mở rộng phạm vi ứng dụng (thay đổi mục tiêu khác với mục tiêu ban
đầu mà mục tiêu công nghệ được tao ra, dịch chuyển địa lý, chuyển từ chủ thể này
sang chủ thể khác…)
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo nghĩa hẹp, chuyển giao công nghệ
được hiểu là sự thỏa thuận giữa hai bên - bên giao và bên nhận - trong đó hai bên
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
3
phối hợp các hành vi pháp lí và các hoạt động thực tiễn mà mục đích và kết quả là
bên nhận có những năng lực công nghệ xác định.
Đây là quan điểm được thể hiện trong luật chuyển giao công nghệ của Liên
Hiệp Quốc. Còn trong Luật chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 đưa ra khái
niệm: chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang
bên nhận công nghệ.
Thuật ngữ chuyển giao công nghệ dễ gây ấn tượng rằng có một bên cho/bên
giao và một bên nhận để thay thế cho một bên bán và một bên mua. Thực chất
trong các nền kinh tế thị trường thì các trường hợp chuyển giao công nghệ giữa
các công ty đều có các thương vụ mua bán/xuất nhập khẩu và được thông qua các
hợp đồng, có những yếu tố lượng hóa được, có yếu tố không lượng hóa được, có
những ảnh hưởng trực tiếp, đồng thời cũng có những amhr hưởng gián tiếp lâu
ngày mới bộc lộ.
2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ
Hiện nay để tao sự gọn gàng thuận lợi, người ta chỉ chia việc chuyển giao công
nghệ ra làm 2 loại.
Thứ nhất là chuyển giao sỡ hữu hoặc chuyển quyền sử dụng các đối tượng sỡ
hữu công nghiệp, theo như trên, là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa. Đây là những hình thức rất phổ biến. Trong đó, hoạt động có thể có

hoặc không thiết bị kèm theo qua hình thức mua bán, cung cấp các đối tượng: bí
quyết kĩ thuật; phương án, qui trình công nghệ; tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kĩ
thuật; công thức bản vẽ, sơ đồ bảng biểu, … cũng được coi là chuyển giao công
nghệ. Chỉ khi mua bán hàng hóa mà không kèm theo sự chuyển giao các quyền sở
hữu công nghiệp khác thì không được công nhận.
Loại còn lại và về việc thực hiện các hỗ trợ và tư vấn. Bên giao hỗ trợ kỹ thuật,
lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây chuyền công
nghệ cho bên nhận. Bên giao tư vấn các nghiên cứu phân tích đánh giá về cơ hội
đầu tư, cơ hội tiền khả thi và khả thi các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Bên
nhận nhận được sự đào tạo huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và
quản lý của cán bộ quản lý kỹ thuật và công nhân. Hỗ trợ thực hiện dịch vụ về thu
nhập, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường, công nghệ pháp lý, tài nguyên môi
trường của bên giao. Tất cả những điều trên đây đều là chuyển giao công nghệ.
Dựa vào quyền hạn của bên giao bên nhận và giá cả, người ta còn chia chuyển
giao công nghệ thành 3 hình thức:
Hình thức
Yếu tố
Chuyển giao giản
đơn
CGCN không độc
quyền
CGCN giữ độc
quyền
Người giao
Bán cho một hoặc
một số người trên
cùng địa phương.
Trao quyền cho
người mua giới hạn
trong phạm vi lãnh

thổ.
Trao toàn quyền
sử dụng cho bên
kiatrong thời gian
hợp đồng.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
4
Người nhận
Không được bán
lại công nghệ.
Không được chuyển
nhượng dưới bất kì
hình thức nào.
Có thể bán lại.
Giá cả Thấp. Khá cao. Rất cao.
II-TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI NƯỚC
CHUYỂN GIAO.
Ngày nay, cùng với sự phát triển đến chóng mặt của khoa học công nghệ,
không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của công nghệ trong sự phát triển
kinh tế. Các nhà kinh tế học trên thế giới đã phát triển một học thuyết “Total
Factor Production – TFP” trong đó coi công nghệ là một yếu tố quan trọng, nếu
không nói là qua trọng nhất, so với ba yếu tố đầu vào truyền thống của sản xuất là
vốn, đất đai và lao động. Trong khi những yêu tố đầu vào truyền thống này là hữu
hạn, thì công nghệ lại tạo ra giá trị gia tăng đáng kể cho sản phẩm. Công nghệ giờ
đây không chỉ là một công cụ lao dộng thuần túy mà nó được coi là động kực
chính trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo một nghiên cứu cho thấy
rằng công nghệ đóng góp đến 60% vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.Vì tầm
quan trọng như thế, mà hoạt động chuyển giao công nghệ có nhiều tác động tích
cực đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và riêng đối với bên
chuyển gia nói riêng.

1. Tác động tích cực của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao:
Trước hết, cần hiểu rằng, trong thị trường nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh
chủ yếu diễn ra giữa các công ty chứ không phải là sự cạnh tranh của các quốc gia.
Các công ty luôn muốn bành trướng thị trường từ quốc gia này sang quốc gia khác
nhằm nâng cao vị thế cũng như lợi nhuận của mình. Xuất phát từ sự chuyên môn
hóa và phân công lao đông trong sản xuất cũng như mong muốn nâng cao lợi thế
cạnh tranh của mình, buộc phải có quá trình chuyên giao công nghệ giữa các công
ty nắm giữ các kỹ thuật cao mà suy rông ra là sự chuyển giao công nghệ giữa các
quốc gia với nhau. Như vậy tác dụng đầu tiên của quá trình chuyển giao công nghệ
đối với nước chuyển giao là xuất phát từ lợi ích của các công ty của các quốc gia
này. Tác động này được xét dưới hai chiến lược sản xuất của các công ty, tập toàn
đa quốc gia:
+ Sản xuất tập trung: sản xuất tại một quốc gia, sau đó xuất khẩu sang các
quốc gia khác. Do tính quy mô của dự án sản xuất quá lớn, đồng thời quá trình
R&D phải đi kèm với quá trình sản xuất mới đem lại hiểu quả cao cho nên các bí
quyết độc đáo để sản xuất ra sản phẩm thường không phải la sản phẩm để chuyển
giao công nghệ. Trong trường hợp này các công ty vẫn phải chuyển giao công
nghệ cho các chi nhánh và cho khách hang ở các quốc gia khác trong công đoạn
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
5
lắp đặt, chảy thử, bảo hành, bảo trì hay sửa chữa nhằm giữ uy tín cho sản phẩm
của mình, đảm bảo cam kết với khách hàng cũng như hỗ trợ tiếp thị. Điển hình
cho loại chiến lược này này là Microsoft, Coca-cola hoặc các sản phẩm về công
nghiệp vũ trụ.
+ Sản xuất phân tán: đặt nhiều cơ sở sản xuất ở các vị trí gần nguồn tài
nghuyên, nguyên nhiên liệu hoặc là gang thị trường tiêu thụ hoặc chia quá trình
sản xuất ra một sản phẩm thành nhiều công đoạn ở các nước khác nhau nhằm nâng
cao được lợi thế trong cạnh về các mặt sau:
• Tận dụng được nguồn nhân công rẻ ở các nước đang phát triển.
• Giảm được chi phí đáng kể chi phí vận tải, tồn kho, cung ứng nghuyên

nhiên liệu.
• Giảm chi phí đầu tư do chuyên môn hóa, phân công công lao động quốc tế.
• Tích lũy được nhiều kinh nghiệm ở các quốc gia khác nhau.
• Một hình thức mở rộng thị trường, đối phó với các chính sách hạn chế nhập
khẩu của các nước có thị trường tiêu thụ.
• Tạo điều kiện chiếm lĩnh thị trường dễ dàng
• Khuyếch trương phạm vi ảnh hưởng, nâng cao uy tín sản phẩm của mình
trên thị trường thế giới.
- Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cho rằng buôn bán licence
( hay gọi là chuyển giao công nghệ) là một trong những nghiệp vụ kinh tế đối
ngoại có lãi nhất. trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt toàn cầu, khoa học kỹ thuật
công nghệ ngày càng phát triển các công ty xuyên quốc gia luôn luôn liên tục đầu
tư chi phí rất lớn cho hoạt động R&D, nghĩa là phải luôn thay thế các công nghệ
cũ bằng công nghệ mới hay hơn. Tuy nhiên do sự phát triển không đồng đều về
trình độ phát triển công nghệ sản xuất ở các quốc gia, công nghệ cũ ở các quốc gia
phát triển lại có ích cho các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. do vậy nếu
bỏ đi các công nghệ này sẽ là một sự lãng phí rất lớn. mong muốn chuyển giao
công nghệ sang các nước khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu các nguồn lợi tứ
những công nghệ đáng lẽ phải bỏ, đặc biệt đây lại là một nguồn thu rất lớn cho các
nước chuyển giao.
• Theo ước tính của Mỹ, khoản thu từ chuyển nhượng licence đã lên đến
100 tỷ USD năm 2000, hay chỉ riêng công ty IBM đã thu được 1,5 tỷ USD từ
chuyển nhượng licence trong vài năm gần đây.
• Một số liệu cũ để tham khảo về thu nhập từ buôn bán licence:
1975 1984 1985
Mỹ 4615
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
6
Anh 608 1203 1127
Tây Đức 361 612 574

Pháp 191 496 426
Italia 71
Nhật 185
( Đơn vị: triệu USD)

- Thu nhập từ hoạt động mua bán licence của Colombia cũng khá cao ( có thể
tham khảo biểu đồ ở phần phụ lục trang
- Bằng những ràng buộc ký kết hợp đồng licence (CGCN), hoặc thanh toán
bằng trái phiếu, cổ phần của công ty mua, bên chuyển nhượng kỹ thuật, công nghệ
sẽ từng bước thiết lập sự kiểm tra của mình đối với các công ty, cũng như quốc gia
nhận chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, khi thực hiện quá trình chuyển giao công
nghệ, bên chuyển giao sẽ có một số ưu đãi nhất định trong cam kết với nước
chuyển giao:
+ Bắt buộc bên mua côngn ghệ phải mua kèm một số công nghệ khác có
liên quan (Tie-ins). Điều này nghĩa là, để có thể vận hành được máy móc thiết bị
theo công nghệ đã được chuyển giao, bên mua công nghệ bắt buộc mua máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, linh kiện… của bên bán licence hoặc là
từ các nguồn khác do bên chuyển giao chỉ định, trong khi người mua công nghệ có
thể tìm được nguồn hàng rẻ hơn. Như thế nghĩa là, bên chuyển giao đã kiếm them
được một phần thu nhập ngoài phần thu nhập chính từ hoạt động chuyển giao công
nghệ. Khoản thu nhập còn dược tăng lên ở chỗ bên nhận công nghệ còn phải trả
phí trong các dịch vụ bảo hành, sửa chửa, kiểm định chất lượng, tiếp thị cũng như
cung cấp thông tin.
+ Bắt buộc bên mua công nghệ không được mua của người khác (Tie-
outs). Một khi đã mua từ một nguồn thì bên mua công nghệ bị rang buộc chỉ sử
dụng công nghệ đó, không được phép ( hoặc được phép nhưng thực chất là không
thể) mua một công nghệ tương tụ hoặc bổ sung từ nguồn khác. Vô hình chung,
bên chuyển giao công nghệ đã tạo được một sự kiểm soát trong lĩnh vực công
nghệ đó đối với nước chuyển giao.
+ Bắt buộc người mua phải cung cấp miễn phí mọi thông tin, mọi ý tưởng

cũng như giải pháp về cải tiến, đổi mới công nghệ cho mình( người bán).
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
7
- Trong dây chuyền phân công lao động quốc tế như ngày nay, không thể
một quốc gia nào đi vào mọi lĩnh lực của công nghệ mà phải tập trung vào lĩnh
vực nào đó mà mình có thế mạnh. Thực tế cho thấy rằng ở những nước có hoạt
động nghiên cứu công nghệ càng phát triển thì hoạt động áp dụng công nghệ vào
thực tiển lại không mấy phát triển bằng các quốc gia khác và ngược lại. Như vậy
chuyển giao công nghệ không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn thúc đảy sự
phát triển của khoa học kỹ thuật. Hoạt đông chuyển giao công nghệ có tác dụng
cải tiến và thích ững kỹ thuật với điều kiện địa phương thong qua các thông tin
phản hồi. Trên thực tế hiện nay các nhà khoa học ở nhiều nước đã cùng bắt tay
hợp tác về cùng một lĩnh vực nào đó, nhiều diễn đàn khoa học mang tính quốc tế
đã được tổ chức, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy sự phát trine kinh tế thế giới.
- Mặt khác các nước phát triển (đa phần các nước chuyển giao công nghệ)
phải thừa nhận rằng, rốt cuộc họ không thể duy trì sự giàu có của họ, nếu đại đa số
bộ phận trên thế giới nghèo nàn lạc hậu. Các vấn đề khó khăn về kinh tế sẽ gây
nên sự mất ổn định về chính trị quốc tế. Thông qua hoạt động chuyên giao công
nghệ, các nước đang phát triển ( thường là những nước nhận chuyển giao) tăng
cường phát triển kinh tế . cũng sẽ đem lại lợi ích cho các nước chuyển giao nhờ có
được một số lượng lớn khách hang từ những nước nhận chuyển giao mua hàng
hóa công nghiệp, và hàng tiêu dùng từ nước mình. Người ta ước tính được rằng cứ
3% tăng trưởng của những nước đang phát triển sẽ dẫn đến 1% tăng trưởng cho
nền kinh tế ở nhũng nước phát triển- đa phần là những nước chuyển giao công
nghệ.
2. Tác động tiêu cực của việc chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển
giao:
Chuyển giao công nghệ không chỉ có những lợi ích thiết thực mà nó còn chứa
những “rủi ro” tiềm ẩn đối với nước chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, để
tránh vấp phải những sai lầm trong chuyển giao công nghệ quốc tế, chúng ta sẽ đi

tìm hiểu những rủi ro đối với bên chuyển giao trong hoạt động chuyển giao công
nghệ.
2.1. Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình (hiệu ứng Bumerang) :
Chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực công nghệ cho người mua
trong cùng 1 ngành công nghiệp với người bán. Rõ ràng người bán càng hoàn
thành tốt cam kết chuyển giao công nghệ với người mua bao nhiêu thì càng làm
tăng thêm khả năng cạnh tranh của người mua với chính mình bấy nhiêu. (Mặc dù
theo Porter, có 2 loại đối thủ cạnh tranh: đối thủ “tốt” – good competitor, và đối
thủ “xấu” – bad competitor. Tạo ra đối thủ tốt sẽ có lợi cho người bán công nghệ
vì có động lực để vươn lên, cùng nhau khuếch trương sản phẩm, có “sân sau” để
thải công nghệ lạc hậu khi cần thiết…chỉ có điều đáng tiếc là phân biệt giữa các
đối thủ tốt và các đối thủ xấu chẳng bao giờ là rõ ràng và càng không phải là bất
biến! ).
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
8
Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình là “bài học” đắt giá cho nhiều công
ty của Nhật và Mỹ khi chuyển giao công nghệ cho Hàn Quốc, Đài Loan trong lĩnh
vực điện tử. Các công ty SamSung, Daewoo, Acer… sau khi nhận được công nghệ
(dù chưa phải là tiên tiến nhất) đã quay trở lại cạnh tranh với “chính quốc” trên thị
trường hàng điện tử dân dụng bằng cách đưa ra những sản phẩm có giá hạ hơn mà
chất lượng không thua kém là bao.
Tập đoàn điện tử SamSung là một ví dụ điển hình của các trường hợp kiểu này.
+ Theo những số liệu thống kê gần nhất thì hãng Samsung của Hàn Quốc đã
vượt lên trên Motorola tại thị trường Mỹ về thiết bị điện tử cầm tay quý 3 năm
2008.
Biểu đồ về thị phần thiết bị điện tử cầm tay ở Mỹ:
+ Samsung cũng đã vượt Sony và đang giãn dần khoảng cách với Sony trong
cuộc cạnh tranh giành vị trí số 1 trên thị trường ti-vi kỹ thuật số Mỹ. Samsung
chiếm khoảng 26,7% thị phần TV kỹ thuật số Mỹ trong 11 tháng đầu năm 2008,
tiếp theo là Sony (14,8%), Panasonic (7,2%), Toshiba (6,8%) và LG Electronics

(6,7%).
Theo ước tính của hãng nghiên cứu thị trường NPD, Samsung đã mở rộng
khoảng cách với Sony đến 11,9 phần trăm vào cuối tháng 11 năm 2008.
Trong năm 2007, khoảng cách là 6,3 phần trăm, tăng 2,8 phần trăm của năm
2006.
Samsung hy vọng sẽ dẫn đầu thị trường ti-vi kỹ thuật số Mỹ trong 3 năm tới.

Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
9
Bên cạnh Samsung, công ty điện tử Acer của Đài Loan cũng đã rất thành công
sau khi nhận được công nghệ chuyển giao từ các công ty Hoa Kì, Nhật Bản. Nổi
tiếng với các dòng điện tử giá rẻ, đặc biệt là Notebook, Acer đã lớn mạnh nhanh
chóng trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê gần đây của hãng nghiên
cứu thị trường iSuppli cho biết hiện tại Acer đã lần lượt vượt mặt các “đại gia”
điện tử Mĩ, Nhật như Dell, Toshiaba, IBM…để trở thành hãng Notebook lớn thứ 2
thế giới với thị phần toàn cầu lên tới 15,63% (đứng đầu là hãng máy tính HP với
thị phần 19.3%). Điều đáng chú ý ở đây là một năm trước khoảng cách giữa Acer
và Dell lên tới hơn 4%. Thương hiệu máy tính Đài Loan đã đạt được tốc độ tăng
trưởng mạnh nhất trong nhóm các "đại gia" đầu bảng - 68% so với cùng kỳ năm
trước. Riêng trong thị trường Netbook (dòng máy tính Notebook nhỏ gọn), tính
đến hết quý III năm 2008, Acer đang dẫn đầu thị trường với thị phần lên tới
38,3%, vượt qua và bỏ xa hãng sản xuất netbook hàng đầu hiện nay Asus tới 8%.
Dưới đây là bảng số liệu thị phần trong thị trường Netbook toàn cầu ba quý đầu
năm 2008 (Nguồn: Công ty nghiên cứu thị trường DisplaySearch).
Tại thị trường Việt Nam, Acer liên tiếp khẳng định vị trí “Thương hiệu máy
tính xách tay số 1” trong hai năm 2006 – 2007 theo đánh giá của Tập đoàn Nghiên
cứu thị trường Gfk, căn cứ trên số lượng máy tính xách tay được tiêu thụ trong
nước.
Trong những trường hợp tương tự đối với các công ty chuyển giao công nghệ,
việc thu được một khoản chi phí từ Chuyển giao công nghệ (royalty) không so

Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
10
sánh được việc bị mất thị trường. Hơn nữa, các công ty nhận công nghệ do làm ăn
có lãi, có tiềm lực và tài chính đã kịp phát triển năng lực R&D của chính mình
(thu hút nhân tài, mua thiết bị thí nghiệm hiện đại, mua patent chứ không mua
license công nghệ…), có thể sáng tạo ra công nghệ mới và tích cực cạnh tranh trên
thị trường hàng công nghệ cao.
Điều đáng nói là, các nước mới bước vào quá trình công nghiệp hóa mong
muốn lặp lại thành công của những “con rồng” Châu Á sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
là vì:
• Các công ty của các nước phát triển ngày càng trở nên thận trọng hơn trong
khi phải bộc lộ bí quyết công nghệ cao cấp của mình;
• Khoảng cách về công nghệ ngày nay đã trở nên quá rộng so với những năm
60-70, chiến lược đi lên từng bước mà các nước đã làm là “nhập khẩu, cải tiến, bắt
kịp” trong nhiều trường hợp không còn thích hợp nữa.
Cách khả dĩ là “nhảy cóc công nghệ - leapfrogging”, liên tục chuyển từ công
nghệ này sang công nghệ khác cao hơn, đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến
nhất. Một trong những giải pháp hữu hiệu để có thể nâng cao năng lực R&D- nhân
tố quyết định sự thành bại của sách lược “đi tắt đón đầu”, là phải chú trọng phát
triển nguồn lực con người, coi đó là “yếu tố hàm chứa công nghệ” quan trọng bậc
nhất đối với các nước đang phát triển- những công nghệ “thâm dụng trí thức”
trong thời đại hiện nay.
Cũng cần lưu ý rằng bản thân các nước đang phát triển cũng có những công
nghệ truyền thống, đặc thù cần bảo vệ và phát huy, do đó càng phải thận trọng khi
chuyển giao công nghệ cho người khác.
2.2. Một số rủi ro khác ở các nước đang phát triển đối với người chuyển
giao:
• Không nắm được thông tin đầy đủ về thị trường và về đối tác địa phương.
Từ đó dẫn đến việc dễ vướng mắc những sai lầm trong đầu tư như đầu tư vào
những nơi có môi trường kinh doanh không ổn định, độ rủi ro trong đầu tư cao.

Hoặc ngay cả trong việc mua bán license thuần túy thì việc nắm bắt thông tin đầy
đủ về thị trường cũng rất có ích. Giúp bên chuyển giao công nghệ tránh được việc
bán với mức giá thấp hơn rất nhiều so với những giá trị mà bên nhận công nghệ
chuyển giao sẽ thu được trong tương lai;
• Không đảm bảo sự bảo hộ, bảo vệ thích đáng với các quyền sở hữu công
nghiệp, bản quyền (nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, phần mềm máy
tính…). Ở những nước mà còn xem nhẹ vấn đề bản quyền thì bên chuyển giao cần
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
11
xem xét cặn kẽ trong việc quyết định chuyển giao công nghệ để tránh tình trạng
không thực hiện đúng những điều khoản trong hợp đồng chuyển giao công nghệ;
• Cơ sở hạ tầng về R&D vừa thiếu vừa yếum, vừa phân tán hoặc chỉ tập trung
vào một số lãnh vực do nhà nước quản lý gây khó khăn cho việc phát huy tính tích
cực của công nghệ được chuyển giao, vốn đầu tư…
• Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo thích đáng. Từ đó sẽ gây khó khăn
trong công tác quản lý, giám sát…
• Bảo hộ quá đáng hàng trong nước, có chính sách phân biệt đối xử sẽ tạo
nên những rào cản cho các công ty nhận công nghệ chuyển giao;
• Hy vọng quá cao của đối tác và chính quyền nước sở tại….
IV- TÌNH HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Như đã nêu ở mục trên, hoạt động chuyển giao công nghệ quốc tế không chỉ có
những tác dụng tích cực và nó còn chứa một số “rủi ro” tiềm tàng đối với các nước
chuyển giao công nghệ. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận được những
lợi ích to lớn mà chuyển giao công nghệ mang lại cho các nước chuyển giao. Việt
Nam là một quốc gia đang phát triển khá năng động ở khu vực Đông Nam Á với
một thị trường đầy tiềm năng, nguồn lao động rẻ cũng như nguồn nguyên nhiên
vật liệu dồi dào, nên luôn nhận được sự quan tâm của các nước phát triển, những
quốc gia có tiềm lực về công nghệ cao. Bên cạnh đó, tuy còn là một nước đang
phát triển và đang hội nhập dần vào sân chơi quốc tế, Việt Nam cũng đã bắt đầu

tham gia vào hoạt động chuyển giao công nghệ trong một số lĩnh vực nhất định mà
đặc biệt là các lĩnh vực nông nghiệp và năng lượng. Vì vậy trong mục này chúng
tôi sẽ xét về hai khía cạnh trong hoạt động chuyển giao công nghệ những năm gần
đây ở Việt Nam, đó là hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ vào Việt Nam
và hoạt động chuyển giao công nghệ ra nước ngoài.
1. Hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Việt Nam.
Trong khoảng hơn 20 năm qua kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiến hành Đổi mới,
“mở cửa” nền kinh tế và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài
vào Việt Nam đã diễn ra hết sức sôi động và đa dạng theo đúng nghĩa của nó.
Nhìn chung, công nghệ nước ngoài chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu theo 3
luồng chính: Chuyển giao công nghệ qua nhập cư của các chuyên gia, chuyển giao
công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chuyển giao công nghệ
theo các hợp đồng mua bán “thuần túy”.
1.1. Chuyển giao công nghệ qua nhập cư của các chuyên gia.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
12
Đây là loại chuyển giao công nghệ vô hình hầu như không thông qua các hợp
đồng thương mại nên bên nhận không chịu những ràng buộc do bên giao hoặc do
chính phủ nước bên chuyển giao áp đặt. Bằng luồng chuyển giao này chúng ta có
khả năng nhận được những công nghệ cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nhất
với giá rẻ mà chúng ta không thể nào đạt được bằng các luồng chuyển giao công
nghệ khác. Việt Nam là một nước có tiềm năng rất lớn trong luồng chuyển giao
công nghệ này. Theo thống kê, hiện nay ngoài Việt Nam có khoảng hơn 3 triệu
Việt kiều sinh sống trên hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có khoảng hơn
1,5 triệu người sống tại Hoa Kỳ, hơn 250.000 người sinh sống tại Pháp và 180.000
người sinh sống tại Úc…Đa số Việt kiều đã định cư ở nước ngoài và có nhiều
người đã trở thành các chuyên gia có trình độ khá cao. Tuy vậy hiện nay thực
trạng chuyển giao công nghệ trong luồng này lại không đáng kể so với tiềm năng
do nhiều lí do mà trước hết là cơ chế, chính sách chưa hợp lí, thiếu đồng bộ trong

việc thu hút nguồn lực quan trọng này.
1.2. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là luồng chuyển giao công nghệ chính từ nước ngoài vào Việt Nam. Theo
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương thì có đến 90% hợp đồng chuyển
giao công nghệ là vào các doanh nghiệp FDI. Ưu điểm rõ rệt của luồng chuyển
giao này là vốn để thực hiện các công nghệ được chuyển giao chủ yếu là vốn của
các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, quy mô của luồng này tùy thuộc vào cơ hội và
môi trường đầu tư tại Việt Nam hơn là phụ thuộc vào khả năng tài chính của các
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, công nghệ được chuyển giao trong luồng này
thường là các công nghệ khá tiên tiến so thế giới. Chính vì những ưu điểm của
luồng chuyển giao công nghệ này, việc thu hút các doanh ngiệp FDI luôn được
Chính phủ tập trung quan tâm. Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp
lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tăng thêm sức hấp dẫn của môi
trường đầu tư Việt Nam, trong thời gianqua, Chính phủ đã tập trung thực hiện một
số giải pháp như cải thiện cơ sở hạ tầng, đào tào nguồn nhân lực…Vì vậy Việt
Nam đã thu được những thành tựu to lớn trong thu hút nguồn vốn FDI. Nếu năm
2007, Việt Nam thu hút được 22 tỉ USD vốn FDI đăng kí, tăng hơn 2 lần so với
năm 2006 ( vốn FDI đăng kí năm 2006 đạt 10,2 tỉ USD), thì đến năm 2008 tổng
vốn FDI đăng kí đã đạt trên 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Những con số
trên là những kết quả rất đáng ghi nhận cho nỗ lực thu hút FDI của Việt Nam.
Dưới đây là biểu đồ tăng trưởng trong thu hút FDI vào Việt Nam trong giai
đoạn 2002-2008 ( đơn vị tỉ USD) ( Số liệu tổng hợp).
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
13
Nhìn từ biểu đồ trên cho thấy Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn trong mắt các
nhà đầu tư nước ngoài và các nguồn vốn FDI từ các nước phát triển đổ vào Việt
Nam sẽ tạo tiền đề cho khoa học công nghệ trong nước sẽ phát triển mạnh mẽ
trong tương lai.
1.3. Chuyển giao công nghệ theo các hợp đồng mua bán “thuần túy”.
Đây là luồng chuyển giao công nghệ điển hình nhất vì lợi ích trước mắt cũng

như lâu dài của bên nhận chuyển giao công nghệ được đảm bảo tốt nhất. Trên thực
tế, luồng chuyển giao công nghệ này đã hình thành lâu ở Việt Nam kể từ khi Miền
Bắc được giải phóng cho đến năm 1987. Nói chung các trường hợp này hầu hết là
nhập kĩ thuật từ nước ngoài ( chủ yếu là Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Ấn Độ
và một số nước khác) với vốn sử dụng hầu hết là vốn viện trợ ( vốn vay ưu đãi
hoặc vốn viện trợ không hoàn lại). Tuy vậy do những nhận thức sai lầm trong
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
14
quan niệm của các cơ quan, đơn vị Nhà nước về vai trò của chuyển giao công
nghệ và phần mềm công nghệ mà tuyệt đại đa số các trường hợp chuyển giao công
nghệ này đều không phát huy hiệu quả.
Kể từ khi thực hiện Đổi mới và mở cửa, do yêu cầu bức xúc của việc nâng cao
hiệu quả đối với công nghệ của các doanh nghiệp trong nước thì quy mô của luồng
chuyển giao công nghệ này đã có những sự tăng trưởng khá tích cực (khoảng 6-
7% số hợp đồng chuyển giao công nghệ), tuy vậy vẫn còn rất khiêm tốn, chưa
tương xứng với tiềm năng thực sự nó.
2. Hoạt động chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài.
Do những lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ quốc tế cũng như nhằm chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực tham gia
vào hoạt động chuyển giao công nghệ ra nước ngoài. Hoạt động chuyển giao công
nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài chủ yếu theo hai luồng chính, đó là đầu tư trực
tiếp nước ngoài và chuyển giao theo hợp đồng mua bán công nghệ (chủ yếu là
trong lĩnh vực nông nghiệp).
2.1.Chuyển giao công nghệ ra nước ngoài theo đầu tư FDI
Công nghệ từ Việt Nam được chuyển giao sang nước ngoài cùng đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI của các doanh nghiệp Việt Nam trong các lĩnh vực năng
lượng, sản xuất điện năng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, trong đó đặc biệt là
lĩnh vực năng lượng, lĩnh vực trồng cây công nghiệp. Nền kinh tế kinh tế tiếp tục
tăng trưởng tạo điều kiện nhiều doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính
cũng như kinh nghiệm để đầu tư ra nước ngoài. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt

Nam cũng nhận thức được lợi ích của việc đầu tư ra nước ngoài (tận dụng được
nguồn nguyên liệu tại chỗ, lao động tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển sản phẩm,
thâm nhập vào thị trường của nước sở tại .v.v.) trong bối cảnh hội nhập sâu vào
đời sống kinh tế khu vực và quốc tế. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 12 năm 2008, qua gần 20 năm thực hiện hoạt
động đầu tư ra nước ngoài, Việt Nam có 368 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu
lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,39 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ
USD, chiếm 27% tổng vốn đăng ký. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tại 43
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Riêng đầu tư vào thị trường châu Á có 257
dự án, với tổng vốn đầu tư là 2.852 triệu USD, chiếm 69,8% về số dự án và 64,9%
tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó tập trung đầu tư sản xuất điện- khai thác khoáng
sản, trồng cây công nghiệp tại Lào. Đầu tư vào châu Phi có 10 dự án, tổng vốn
đăng ký 291,3 triệu USD. Số còn lại thuộc châu Âu và châu Mỹ, chiếm 23,6%
tổng vốn đầu tư đăng ký, trong đó, Liên bang Nga có 17 dự án, vốn đầu tư là 945
triệu USD, chiếm 21,5% tổng vốn đăng ký; Hoa Kỳ có 40 dự án, tổng vốn đầu tư
là 80 triệu USD, chiếm 1,8% tổng vốn đăng ký. (Xem phụ lục 2, trang 17 )
Những con số trên chứng tỏ sự trưởng thành rõ rệt của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu cũng như cho thấy sự chủ
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
15
động của các doanh nghiệp trong nước tham gia vào sân chơi kinh tế khu vực và
quốc tế.
2.2. Chuyển giao công nghệ theo hợp đồng mua bán, chuyển giao công
nghệ.
Đây là hình thức chuyển giao công nghệ khá phổ biến từ Việt Nam ra nước
ngoài. Với những thế mạnh sẵn có trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, Việt
Nam đã tích cực chuyển giao công nghệ của mình ra thế giới, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nông nghiệp, đặc biệt là ở các nước kém phát triển tại châu Phi.
Ví dụ : Việc chuyển giao các loại máy nông nghiệp như máy sấy, máy xay xát…
cũng như các giống lúa, cây trồng năng suất từ Việt Nam qua châu Phi và một số

quốc gia châu Á (Philippines, Myanmar, Lào, Campuchia, Bangladesh…).
V- TỔNG KẾT
Chuyển giao công nghệ quốc tế luôn là một trong những trọng tâm của tất cả
các quốc gia không chỉ là các quốc gia đang phát triển mà còn của các quốc gia
phát triển. Với những luận điểm đã được đề cập và nghiên cứu như trên chúng tôi
nhận thấy rằng chuyển giao công nghệ quốc tế có những lợi ích to lớn, nhưng bên
cạnh đó nó cũng không ít những tác động tiêu cực cho các nước chuyển giao. Do
vậy các quốc gia chuyển giao bên cạnh việc tăng cường chuyển giao công nghệ ra
nước ngoài thì cũng cần phải định lượng đúng và kiểm tra chặt chẽ những rủi ro có
thể xảy ra để đảm bảo lợi ích hàng đầu cho mình.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
16
$803
M
il

Cu
mulati
vely
Millions
FY84
FY85
FY86
FY87
FY88
FY89
FY90
FY91
FY92
FY93

FY94
FY95
FY96
FY97
FY98
FY99
FY00
FY01
PHỤ LỤC:
Thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ của Colombia, từ 1984-2001:
$180
$160
$140
$120
$100
$80
$60
$40
$20
$0
LICENSE EQU
IT
Y
RESEARCH LEGAL OTHER
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
17
Phụ lục 3: Đầu tư ra nước ngoài phân theo quốc gia (tính từ ngày 19/12/2008 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
STT Nước tiếp nhận Số dự án TV§T
1 Lào 147 1,531,259,492
2 Liên Bang Nga 17 945,347,407

3 Malaysia 7 812,472,740
4 Angiery 1 243,000,000
5 Campuchia 39 211,259,268
6 Madagascar 1 117,360,000
7 Irắc 1 100,000,000
8 Iran 1 82,070,000
9 Hoa Kì 40 80,114,754
10 Indonesia 3 46,180,000
11 Cuba 1 44,520,000
12 Cameroon 2 42,785,714
13 Singapore 21 29,796,564
14 Cu Ba 1 18,970,000
15 Hồng Kông 9 12,645,099
16 CHLB Đức 5 11,542,372
17 Trung Quốc 6 10,824,150
18 Thái Lan 4 10,405,200
19 Ba Lan 2 7,900,000
20 Cayman Islands 2 4,050,000
21 Angola 5 3,732,387
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
18
22 Tajikistan 2 3,465,272
23 Ukraina 4 3,357,286
24 Nhật Bản 8 2,803,050
25 Australia 7 2,137,200
26 Hàn Quốc 7 2,103,500
27 Cộng hòa Séc 2 1,935,900
28 Bỉ 2 1,052,000
29 Côt Điavoa 1 999,700
30 Nam Phi 1 950,000

31 British Virgin Islands 1 900,000
32 Ả rập 1 850,000
33 Braxin 1 800,000
34 Thụy Điển 1 687,500
35 Cộng hòa Síp 1 676,000
36 Uzbekistan 1 650,000
37 Samoa 1 500,000
38 Vương Quốc Anh 3 500,000
39 Đài Loan 3 484,667
40 Italia 1 350,000
41 Pháp 2 300,000
42 CH Uzbekistan 1 200,000
43 Bungari 1 152,280
44 Ấn Độ 1 150,000
Tổng số: 365
4,391,737,22
2
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
19
MỤC LỤC
I- Giới thiệu đề tài 1
II- Công nghệ và chuyển giao công nghệ 1
1. Công nghệ 1
1.1. Khái niệm công nghệ 1
1.2. Phân loại công nghệ 2
2. Chuyển giao công nghệ 2
2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ 2
2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ 3
III- Tác động của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao 4

1.Tác động tích cực của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao 4
2. Tác động tiêu cực của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao 7
2.1 Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình (hiệu ứng Bumerang) 7
2.2 Một số rủi ro khác ở các nước đang phát triển đối với người chuyển giao 7
IV- Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam trong những năm gần đây 10
1. Hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Việt Nam 11
1.1. Chuyển giao công nghệ qua nhập cư của các chuyên gia 11
1.2. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 11
1.3. Chuyển giao công nghệ theo các hợp đồng mua bán “thuần túy” 12
2. Hoạt động chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài 13
1.4. Chuyển giao công nghệ ra nước ngoài theo đầu tư FDI 13
1.5. Chuyển giao công nghệ ra nước ngoài theo hợp đồng mua bán chuyển giao công nghệ 14
V-Tổng kết 14
Phụ Lục 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình chuyển giao công nghệ, Đại học Ngoại thương, 1998.
2) Quan hệ Kinh tế Quốc tế Lí thuyết và Thực tiễn, Nhà Xuất bản Hà Nội, 1997.
3) Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH11 ngày 29/11/2006
4) Website chính thức của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: www.chinhphu.vn.
5) Website của Bộ Ngoại giao: .
6) Website của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: .
7) Báo điện tử Vietnamnet: www.vietnamnet.vn.
8) Báo điện tử Sài gòn Giải phóng: www.sggp.org.vn.
9) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: www.vi.wikipedia.org.
10) Báo điện tử Dân trí: www.dantri.com.vn
11) Báo Điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam: www. vneconomy .com.vn
12) Website Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kì: www.vietnamembassy.us
Và một số tài liệu và website khác.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
21

×