Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

quan điểm HCM trong việc xây dựng Đảng trong sạch,vững mạnh pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.21 KB, 20 trang )

ĐỀ TÀI:PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SẠCH,VỮNG
MẠNH.QUA ĐÓ VẬN DỤNG VÀO ĐẢNG TA

A)LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định
quan điểm và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và
rèn luyện ĐCSVN theo hướng đó. Đó là “Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, nghĩa là những thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc
kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân”.

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng có vững cách mạng mới thành công”.
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trước mỗi bước ngoặt lịch sử,
Người luôn nêu bật nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng. Hiện nay, cách
mạng nước ta đã chuyển sang thời kì mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” theo đúng nguyện ước của
Bác Hồ. Vì vậy càng đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh về chỉnh đốn,xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

B)NỘI DUNG
1)Xây dựng Đảng-quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Xây dựng ĐCSVN trong sạch vững mạnh chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh.Với Người xây Đảng là một
nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên
phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ Đảng viên hiểu rõ, hiều


đúng và thực hiện tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền
với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây
dựng, chỉnh đốn.
1

Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Hồ
Chí Minh lí giải hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau đây:
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục
của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
- Đối với toàn Đảng, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội,
là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt
và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực lạc hậu.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện,
giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân
dân giao phó, đặc biệt là giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng không thể buông lỏng việc thắt chặt công tác
kiểm tra, quản lý cán bộ đảng viên. Trên bình diện phát triển cá nhân, xây
dựng chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự hoàn
thiện, nhu cầu tự làm sạch nhân cách mỗi cán bộ, đảng viên.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng chỉnh
đốn Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc phải tiến hành thường
xuyên hơn cả Đảng.Nhận thức đúng sự tác động qua lại giữa môi trường xã
hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt phát triển tâm lí, nhân cách của
cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã đi đến một nhận định mang tính triết lý
và thực tiễn sâu sắc, có giá trị phổ quát trong vấn đề xây dựng, đổi mới
chỉnh đốn Đảng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua
là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngay mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa ca nhân.

Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng
mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh
đốn và đổi mới Đảng nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về
chính tri, tư tưởng và tô chức; làm cho đội ngũ cán bộ đảng viên không
ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày
càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng
sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư
tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền
cách mạng Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử
thách.
2) Nội dung xây dựng đảng cộng sản Việt Nam
a. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
2
Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng muốn vững mạnh thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như không có ngườ trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam”.Chủ nghĩa ấy là chủ nghĩa Mác-Lênin, theo Hồ Chí Minh chủ
nghĩa Mác-Lênin trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của ĐCSVN.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, cần lưu ý những
điểm sau:
+ Một là, việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải
phù hợp với từng đối tượng.
+ Hai là, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn phù hợp với từng hoàn
cảnh, nghĩa là phải tránh giáo điều, chống lại việc xa rời nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập kế thừa
những kinh nghiệm tốt của Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng
kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác-Lênin.Bên cạnh vận
dụng, Đảng còn phải biết sáng tạo để phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể

của đất nước.
+ Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta phải
biết làm giàu trí tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, học hỏi các tinh hoa văn hóa của nhân loại, để giành thắng
lợi cho Cách mạng.
b. Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị gồm các
nội dung: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực
hiện nghị quyết xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập
trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử
trong sự tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần phải coi trọng
những vấn đề, đường lối chính trị phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin vận dụng nó vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kì
trong xây dựng đường lối chính trị, phải học tập kinh nghiệm của các Đảng
cộng sản anh em.
3
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng biết tập
trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của Cách mạng.Đó là đường lối
cứng rắn, chiến lược mềm dẻo về sách lược linh hoạt về biện pháp đấu tranh,
tập hợp được lực lượng của toàn dân, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ
của quốc tế tạo thành sức vô địch của Cách mạng.
c. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
Hệ thống tổ của Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính
kỷ luật cao.Sức mạnh các tổ chức liên quan chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ
chức có chức năng nhiệm vụ riêng.

Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng:
• Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong Đảng là: Thiểu số phải phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả đảng viên phải chấp hành vô
điều kiện Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải
chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Người nói: “Phải thật sự mở
rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình ”.
Ở Hồ Chí Minh, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện
chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân
chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân
chủ ở ngoài xã hội song dân chủ không phải là vô chính phủ.
• Về “nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”:
Theo quan điểm của Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được
tất cả trí tuệ của đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của toàn dân tộc, vì "một người dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều
kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều mặt
của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn
đề. Vì vậy cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.
Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó,
góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt và có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới giải quyết chu đáo
khỏi sai lầm”. Nhưng theo Người, “tập thể lãnh đạo” mới chỉ là một vế.
Người cho rằng: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn
đi đôi với nhau”. Bởi lẽ Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái
tệ người này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không
ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu “Nhiều sãi
không ai đóng cửa chùa” là như thế.
• Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
4
Theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí sắc bén nhất để làm cho Đảng ta trong

sạch vững mạnh và là quy luật phát triển của Đảng. Người nhận thức sâu sắc
rằng, tuy Đảng ta gồm những người có tài, có đức, phần đông là những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất , nhưng "không phải
là người người đều tốt, việc việc đều hay”, do vậy trong Đảng phải luôn luôn
tự phê bình và phê bình, mà phê bình và tự phê bình" phải ráo riết", " triệt
để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt". Cách phê bình cũng phải
thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan. Thái độ phê bình phải có văn hoá,
mang tính chất xây dựng chứ không phải nói xấu nhau. Những người bị phê
bình thì phải vui vẻ nhìn nhận để sửa chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ
không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
• Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ Đảng, tất cả mọi
Đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ Đảng trước pháp luật Nhà
nước,trước mọi quyết định của Đảng.Tính nghiêm minh tự giác đòi hỏi ở
Đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống công tác.
• Đoàn kết thống nhất trong Đảng :
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là
chủ nghĩa Mác-Lênin, cương lĩnh điều lệ Đảng; đường lối quan điểm của
Đảng,nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp. “Đảng ta tuy đông người khi
tiến đánh chỉ như một người”.
• Cán bộ,công tác cán bộ của Đảng:
Cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu chung gian nối liền giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán
bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực,
trong đó đức, phẩm chất là gốc.
Công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng, nội dung của nó bao hàm các
mắt khâu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau.
d. Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh khẳng định:một Đảng chân chính Cách mạng phải có đạo
đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh

đạo hướng đến quần chúng nhân dân.
Đạo đức Cách mạng bao gồm: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Có đạo đức Cách mạng trong sáng Đảng ta mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạn, đồng bào sung sướng.Đó là
mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư cách số một của Đảng cầm quyền.
5
Giáo dục đạo đức Cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu
dưỡng, rèn luyện của cán bộ Đảng viên, nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật
sự trong sạch.
Trong mọi mối quan hệ, cán bộ, Đảng viên không ngừng học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để không ngừng hoàn thiện nhân
cách, giành được lòng tin yêu trọn vẹn của nhân dân.
II)Sự vận dụng của Đảng ta theo quan điểm Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch,vững mạnh
1) Công tác xây dựng ,chỉnh đốn Ðảng
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ khi thành lập Đảng đến
nay chúng ta luôn xây dưng và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong các kì đại hôi Đảng chúng ta luôn chú trọng việc xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Ngay cả khi nước ta còn đang trên con đường đấu tranh
giải phóng dân tộc đến khi bước vào công cuộc xây dưng đổi mới đất nước
cho đến nay.
Ngay sau khi Bác từ trần, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước
vào giai đoạn gay go, ác liệt nhất, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta biến
đau thương thành hành động cách mạng, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược, dấy lên cuộc vận động “Sống, chiến đấu, lao động và học tập
theo gương Bác Hồ vĩ đại” rộng khắp và tạo nên làn sóng thi đua sôi nổi trên
khắp các mặt trận, ở tất cả các ngành, các giới, ở mọi lứa tuổi.
Bước vào thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vai trò cầm quyền của
Đảng lại đứng trước những thách thức mới. Tại Đại hội IV, Đảng ta tự phê
bình: Chúng ta đã phạm sai lần nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn,

về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện; khuynh hướng tư tưởng chủ yếu
của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội, Đó
là biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh. Đất
nước trì trệ kéo dài và rơi vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng ở các nước
xã hội chủ nghĩa đến độ gay gắt, căng thẳng. Niềm tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng, vì thế, giảm sút nghiêm trọng.
Bài học vượt qua nguy cơ của Đảng ta ở giai đoạn này, là Đảng tiếp tục
củng cố, kiện toàn, chỉnh đốn về nhận thức, tư tưởng, tổ chức và các hoạt
động của Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng
đáng là người lãnh đạo ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.
Bước vào lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, công tác xây
dựng Đảng được tiến hành trong điều kiện có nhiều nhân tố mới trong và
ngoài nước tác động mạnh mẽ và sâu sắc.
6
Trước hết, bản thân công cuộc đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, phức tạp và
khi bắt đầu tiến hành, Đảng ta chưa có sự chuẩn bị tương đối chu đáo về lý
luận. Đối với nước ta vào thời điểm giữa những năm 80 thế kỷ XX, đổi mới
là cần thiết, là đòi hỏi bức bách và mệnh lệnh của cuộc sống. Lúc bấy giờ
nếu không đổi mới thì không thể vượt qua được khủng hoảng kinh tế - xã
hội đã đến mức nghiêm trọng và với những khó khăn hết sức gay gắt: sản
xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có
nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân lao động khó khăn; hiện tượng tiêu
cực xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm trọng; v.v.
Đồng thời, sớm xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong
công cuộc đổi mới.
Để lãnh đạo đất nước tiến hành đổi mới toàn diện, trong đó lãnh đạo
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp chặt chẽ ngay từ ngày đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, Đảng ta đã khẳng định: Công tác xây dựng

Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân có ý
nghĩa then chốt. Sự khẳng định của Đảng về tầm quan trọng của nhiệm vụ
xây dựng Đảng đã tạo ra trong toàn Đảng nhận thức đúng đắn về trách
nhiệm củng cố, xây dựng từng tổ chức đảng, góp phần vào công tác xây
dựng Đảng nói chung, khắc phục xu hướng hút vào các nhiệm vụ kinh tế, coi
nhẹ công tác xây dựng Đảng. Trên thực tế, nếu không coi trọng đúng mức,
tiến hành mạnh mẽ công tác xây dựng Đảng thì việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của cả hệ thống chính trị cũng gặp nhiều trở ngại, các hoạt động kinh
tế có thể có những lệch lạc.
Cuối cùng, chủ động mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tập
trung vào các trọng tâm chính là tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tổ
chức và cán bộ.
Các đại hội và hội nghị Trung ương từ khoá VI đến khoá VIII đã chỉ ra
những yếu kém, khuyết điểm trong Đảng và đề ra các biện pháp khắc phục.
Tình hình có chuyển biến nhất định, nhưng một số khuyết điểm chậm được
khắc phục, có mặt diễn biến xấu hơn. Đó là tình trạng thiếu thống nhất trong
Đảng về nhận thức, ý chí và hành động; là sự sa sút, thoái hoá, biến chất của
một bộ phận cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống, nhất là tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu; là tình trạng thực hiện không nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng v.v.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 3, khóa VII, tháng 6-1993, với
Nghị quyết về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” đã trở thành
một cuộc vận động lớn trong toàn Đảng.
7
Nghị quyết chỉ rõ: Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách,
có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta. Mục tiêu của đổi mới,
chỉnh đốn Đảng là, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình hình mới,

làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các
nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trọng tâm là phát triển kinh tế, làm
cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị.
Nguyên tắc của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, quán triệt và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; củng cố mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Yêu cầu và nội dung của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là, tăng cường xây
dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực
lãnh đạo của Đảng, trình độ, kiến thức, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên, khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng, tăng cường dân chủ và kỷ luật,
củng cố khối thống nhất trong Đảng và trong nhân dân; chỉnh đốn hệ thống
tổ chức của Đảng và tổ chức cơ sở đảng, trước hết là những cơ sở trọng yếu
về chính trị và kinh tế, bảo đảm sự lãnh đạo thống suốt đến mọi cơ sở; tạo
một bước chuyển quan trọng về công tác cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt
ở trung ương, tỉnh, thành phố, một số cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng, đáp
ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, khắc
phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân.
Phương châm đổi mới và chỉnh đốn Đảng là, gắn với đổi mới các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trước hết với quá trình thực hiện và hoàn thiện các
chính sách và cơ chế quản lý, với kiện toàn tổ chức chính trị, với phong trào
hành động của quần chúng, khơi dậy và phát huy óc sáng tạo của nhân dân;
các cấp ủy phải tiến hành chủ động và kiên quyết, không né tránh, hữu
khuynh, đồng thời có bước đi chủ động và phương pháp thích hợp, làm có
trọng điểm, từ lãnh đạo đến đảng viên, giải quyết tốt những vấn đề có tầm vĩ
mô đi đôi với củng cố cơ sở.

Cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng được chỉ đạo khá tập trung và kiên quyết,
từ đó tới cuối năm 1998, đạt những kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng
yêu cầu đề ra. Ngày 2-2-1999, Trung ương Đảng khóa VIII ra Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay” đã phát động trong toàn Đảng cuộc vận động
8
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là sự tiếp
nối Nghị quyết Trung ương 3, khoá VII, tháng 6-1993, nhưng có yêu cầu cao
hơn, nội dung tập trung hơn và chỉ đạo thực hiện với tinh thần quyết liệt
hơn. Với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và cách làm thích hợp, cuộc vận động
đã đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn và nguyện vọng của toàn Đảng,
toàn dân, nên đã tạo ra một không khí mới trong công tác xây dựng Đảng.
Sau mấy năm thực hiện cuộc vận động, công tác xây dựng Đảng đã đạt được
những kết quả quan trọng. Nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên được
nâng lên một bước, nhất là về đường lối, quan điểm của Đảng; về vị trí then
chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về sự kiên định đối với nguyên
tắc, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng; ý thức đề phòng, ngăn ngừa sự suy thoái
về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Nêu cao hơn tinh
thần trách nhiệm, coi trọng việc mở rộng và phát huy dân chủ. Xử lý được
nhiều việc nổi cộm, tồn đọng, thực hiện một bước chỉnh đốn, kiện toàn tổ
chức đảng các cấp; thi hành kỷ luật và thay đổi một số cán bộ vi phạm, trong
đó có cả cán bộ cao cấp, góp phần tích cực vào việc lựa chọn nhân sự đúng
tiêu chuẩn cho bầu cử đại biểu Quốc hội khúa XI, XII và nhân sự cho Đại
hội IX và X của Đảng. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng những kết quả thu
được là đáng ghi nhận, từ đó Đảng ta cũng rút ra một số kinh nghiệm để tiếp
tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong
tình hình mới.
Ưu điểm:
Ðảng đã kiên trì và nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng
Ðảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

- Công tác xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng được coi trọng. Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đang đi vào cuộc sống.
Ðã coi trọng và đẩy mạnh hơn công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận do thực tiễn công cuộc đổi mới
đặt ra. Ðã từng bước đổi mới công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên
cứu, học tập các nghị quyết của Ðảng, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh .Coi trọng hơn công tác tuyên truyền đường
lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nêu gương
người tốt việc tốt, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
cơ hội, lối sống thực dụng. Công tác tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận
thức, tính tích cực của cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin của nhân dân vào
đường lối đổi mới, tạo sự nhất trí trong Ðảng và sự đồng thuận trong xã hội,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
9
- Ðảng đã quan tâm xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức. Từng bước sắp
xếp tổ chức, bộ máy, biên chế cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân; điều chỉnh, bổ sung và quy định cụ thể hợp lý hơn chức
năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ chức.
Tăng cường tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp.
- Ðã tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng. Xác định
chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp hơn trong
điều kiện hoạt động mới. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn và một
bộ phận doanh nghiệp; chú ý hơn xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu,
vùng xa, bước đầu xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
bước đầu tạo nên một số chuyển biến tích cực, xuất hiện những mô hình tốt
và kinh nghiệm mới.
- Công tác phát triển đảng viên được quan tâm chỉ đạo và đạt được một

số kết quả, nhất là ở những vùng trọng yếu, những nơi có ít hoặc chưa có
đảng viên. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng
viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, là nữ,
người dân tộc thiểu số, trí thức ngày càng tăng, góp phần thay đổi cơ cấu đội
ngũ đảng viên theo hướng tích cực.
- Công tác cán bộ có một số đổi mới về nội dung và cách làm. Ðã giữ
vững và thực hiện quan điểm Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ, thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ, coi
trọng hơn việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và người đứng đầu các tổ chức; bước đầu tổ chức để nhân dân tham
gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ sở. Tiếp tục cụ thể hóa một bước
và xác định một số giải pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII
về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước". Triển khai tương đối đồng bộ các khâu công tác cán bộ: đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện
chính sách cán bộ. Công tác luân chuyển và quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý bước đầu có chuyển biến tiến bộ, góp phần đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ và khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt về cán bộ.
- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan
tâm chỉ đạo, góp phần bảo vệ Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đã làm
rõ và kết luận nhiều trường hợp về lịch sử chính trị của cán bộ, đảng viên,
góp phần nâng cao chất lượng công tác bố trí, sử dụng cán bộ, kết nạp người
vào Ðảng.
- Việc tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và Kết luận Hội nghị lần thứ tư
10
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí đã đạt một số kết quả nhất định.
- Ban Chấp hành Trung ương và các cấp ủy đã quan tâm hơn việc kiểm
tra chấp hành đường lối, chủ trương, Ðiều lệ Ðảng và công tác cán bộ; xây

dựng chương trình kiểm tra và thực hiện kiểm tra theo chương trình, tập
trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những lĩnh vực, địa bàn có
vấn đề phức tạp. Việc xử lý nghiêm hơn đối với một số cán bộ, đảng viên có
sai lầm, kể cả cán bộ cao cấp, có tác dụng giáo dục, răn đe, được nhân dân
đồng tình.
- Ðảng đã từng bước cụ thể hóa và thể chế hóa các quan điểm của Cương
lĩnh về phương thức lãnh đạo của Ðảng, phát huy tốt hơn vai trò của các cơ
quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, khắc phục dần khuynh
hướng Ðảng bao biện làm thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh
đạo của Ðảng. Dân chủ trong Ðảng, trong quan hệ giữa Ðảng với Nhà nước,
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và dân chủ trong xã hội có tiến bộ.

Khuyết điểm, yếu kém:
- Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, tự phê bình và phê bình trong
các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được
chuyển biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham
nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa
nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những người đứng đầu để xảy
ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp thời, kiên
quyết.
- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; tính
định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao; thiếu chủ
động và sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hòa bình", chống
tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, bác bỏ các quan điểm sai
trái; thiếu những hình thức, biện pháp cụ thể, có sức thuyết phục để xây
dựng, củng cố niềm tin, giải đáp những băn khoăn, vướng mắc, những vấn
đề phức tạp và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình đổi mới; chưa
làm tốt chức năng dự báo tình hình, chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên
chủ động đi vào kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế với khu vực và thế

giới. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống còn chung
chung, kém hiệu quả. Công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo kịp
yêu cầu của công cuộc đổi mới. Trong chỉ đạo, quản lý cũng như hoạt động
của báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật còn nhiều yếu kém, khuyết điểm
chậm được khắc phục, nhất là chưa ngăn chặn có hiệu quả khuynh hướng xa
11
rời tôn chỉ mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân,
cục bộ.
- Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng. Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ
chức và cơ chế giám sát trong Ðảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của
nhân dân đối với hoạt động của Ðảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. Còn
thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh
đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp
dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất
dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
- Nhìn chung, việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức chưa đạt yêu cầu
tinh gọn, hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu, trách
nhiệm không rõ, hiệu lực, hiệu quả thấp. Mối quan hệ về trách nhiệm giữa
tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu chưa được quy định cụ thể; chưa
phát huy đúng mức vai trò của cá nhân và tập thể, khó đánh giá được kết quả
công tác và quy rõ trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm.
- Tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức. Một số
thôn bản ở vùng sâu, vùng xa chưa có tổ chức đảng và đảng viên. Một số
loại hình tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan hành chính, sự nghiệp còn lúng túng về tổ
chức và phương thức hoạt động. Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng
lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc đánh

giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ít trường hợp chưa đúng thực
chất, còn hình thức.
- Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc
phục, nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác.
Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Chưa kiên quyết và thiếu những quy chế có
hiệu lực để sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ
yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ; hầu như chỉ khi cán
bộ bị kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật mới thay thế được. Chưa có chính sách
đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài vào các lĩnh vực quan
trọng. Chậm khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở các
địa phương, ngành.
- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc
xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay; chậm bổ sung và sửa
đổi một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75-QÐ/TW; tổ chức bộ
12
máy và cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ chậm được kiện toàn.
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
- Công tác kiểm tra trong Ðảng còn yếu, chất lượng và hiệu quả kiểm tra
chưa cao; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm
được phát hiện và khắc phục; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy
nhân tố tích cực. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra
và thi hành kỷ luật trong Ðảng. Công tác giám sát trong Ðảng và giám sát
của nhân dân đối với các hoạt động của Ðảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên
chưa được quan tâm, chưa đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Ðảng trong
tình hình mới.
- Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng còn chậm và lúng túng.
Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Ðảng
lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức

trong hệ thống chính trị. Thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện
đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Ðảng. Chưa
thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc, thực hiện nói đi đôi
với làm; tình trạng nói nhiều làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm còn diễn
ra ở nhiều nơi.
Những thành tựu và yếu kém trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của
Ðảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Ðảng.
Công cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử; đường lối đổi mới của Ðảng là đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam; Ðảng luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng
và khoa học, trung thành với giai cấp và dân tộc, kiên định, vững vàng trước
mọi thách thức, sáng suốt lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta
tiến lên. Qua đó, Ðảng ngày càng tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm;
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bên cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng Ðảng còn nhiều yếu kém,
khuyết điểm, chưa theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới; nổi lên là sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân.

2)Phương hướng và mục tiêu xây dựng Đảng
Phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Ðảng, tăng cường bản chất giai cấp
công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Ðảng; xây dựng Ðảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
13
tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong
sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với

nhân dân. Cụ thể là:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách; tổ chức thực hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối.
- Coi trọng công tác tư tưởng, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận vững chắc cho sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững mục tiêu lý tưởng, giữ vững niềm tin,
bảo đảm thống nhất giữa nhận thức và hành động.
- Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, nâng cao tính tiên
phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, đề ra
và thực hiện các biện pháp có hiệu lực chống tư tưởng cơ hội, thực dụng,
chủ nghĩa cá nhân; ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu và
những biểu hiện tiêu cực khác.
- Thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng; xây
dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ,
thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu
lực, hiệu quả. Ðặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng; gắn xây dựng tổ chức cơ sở đảng với xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sở; nâng cao chất lượng sinh hoạt Ðảng.
- Tiếp tục đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, tạo chuyển biến
cơ bản, vững chắc trong công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, thật sự vì
Ðảng, vì dân, có bản lĩnh và trí tuệ, đi đầu trong công tác và gương mẫu
trong đạo đức lối sống, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và thực
hiện chính sách phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Ðổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Ðảng và
trong cả hệ thống chính trị. Kiểm tra nhận thức, năng lực lãnh đạo, xây dựng
và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà
nước; kiểm tra phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên. Xây dựng các quy chế và biện pháp thực hiện sự giám sát của nhân dân

đối với hoạt động của Ðảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên.

- Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò
lãnh đạo của Ðảng, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm của Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và người đứng đầu;
khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.

14
3)Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, trong giai đoạn hiện
nay
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát
triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm
bắt thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ.
Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chúng tay xây dựng Đảng ta thực sự
trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những
nội dung, công việc chính sau đây:
1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi
mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới
Đảng ta là Đảng cầm quyền.
Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh
chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế
giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”.
Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao

tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh
hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy
sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường
lối, chủ trương của Đảng.
Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh
đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.
2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây đựng Đảng lả
nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành
– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của
tổ chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến
mất ổn định chính trị – xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng
15
trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để
giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện
trong các điểm sau:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.
Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Xây
dựng xã hội mới là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là
rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư
hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc

chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục
toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (12).
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước
Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan
tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh
của toàn dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự
nghiệp cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực
khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm
nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy
tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của
Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy,
toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức
đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để
tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là
đạo đức, là văn minh”.
3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối,
chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều
16
chỉnh mọi quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng

lực cầm quyền của Đảng.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị – xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng
mở rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung,
phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh
đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Cần quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Đảng không thể
đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và trung thực nhất. Chỉ trong đấu
tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách
đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị
lãnh đạo”

4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu
nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng,
cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.
– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay
đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới.
Sự phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán
bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng”
liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân
sinh,… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình
thường trong mối quan hệ máu thịt này.
– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị,
quy định, quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu
quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị
nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng

bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của
mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy
đảng.
– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các
ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được
thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách
được ban hành phải theo mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải
là công bộc của dân, “vì nhân dân phục vụ”; các biện pháp thực hiện phải
17
dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân… Điều quan trọng là mọi hoạt
động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng
Ngày 4-8-2009, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ
các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Chỉ thị số
37-CT/TW). Theo Chỉ thị, Trung ương Đảng đã quyết định tổ chức Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI vào nửa đầu tháng 1-2011. Chỉ thị đã xác định
các yêu cầu và nội dung tiến hành đại hội Đảng các cấp. Học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta trong sạch,
vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” phải trực tiếp phục vụ cho việc tổ
chức tốt đại hội các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng.
– Trong Báo cáo chính trị trình đại hội các cấp phải gắn kiểm điểm việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị với kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, qua đó để phát huy
vai trò và gắn trực tiếp Cuộc vận động với nội dung tiến hành Đại hội.
– Trong việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội phải phát huy dân chủ, tăng
cường đoàn kết, giữ vững kỷ cương, coi trọng chất lượng. Phát huy cao nhất
trí tuệ, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên
trong công tác xây dựng Đảng. Tổ chức thật tốt việc thảo luận những quan
điểm, chủ trương, định hướng lớn nêu trong dự thảo các văn kiện trình Đại
hội XI và các văn kiện đại hội đảng bộ. Báo cáo của mỗi cấp bộ đảng trước

đại hội cần tập trung vào những vấn đề quan trọng, cấp bách trước mắt và có
ý nghĩa lâu dài của địa phương, đơn vị. Tổ chức lấy ý kiến góp ý của các
tầng lớp nhân dân về các văn kiện dự thảo.
– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu
điểm, khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của
những yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.
– Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự bầu vào cấp ủy các cấp căn cứ vào
tiêu chuẩn chung quy định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII về Chiến lược cán bộ. Trong điều kiện hiện nay, quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo, cần đặc biệt nhấn mạnh tiêu
chuẩn về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ được giao; uy tín trong Đảng và trong xã hội; có tư duy đổi
mới, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý các vấn đề mới và vấn đề phức tạp
mới nảy sinh; khả năng đoàn kết, quy tụ; phong cách làm việc khoa học, dân
chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại
18
hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác
xây dựng Đảng, trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu thang của
công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi
của đông đảo cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.
C)KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong
sạch,vững mạnh là một nguồn tài sản vô giá của Đảng ta và của cả dân tộc
ta,đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua muôn vàn khó khăn thử
thách,lãnh đạo Cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa

lịch sử và thời đại.Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
tục là bó đuốc soi đường cho Đảng ta trưởng thành,phát huy được thời
cơ,khắc phục được nguy cơ trong thời kỳ mới để đưa nước ta phát triển vì
mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ văn minh.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong
sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
19
TI LIU THAM KHO:
- Giáo trình t tởng HCM- nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản
năm 2009 (trang 146-163)
- Giáo trình t tởng HCM- hội đồng biên soạn chuẩn quốc gia, xuất
bản năm 2003 (trang 154-163)
- T tởng HCM- tài liệu dạy và học chơng trình chính trị trong trờng
đại học- nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân
- HCM- nhà t tởng lỗi lạc- giáo s Song Thành
- Sách báo và các nguồn t liệu khác
20

×