Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIEU LUAN WORD pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.81 KB, 23 trang )

1

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BỘ MƠN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
TIỂU LUẬN

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1945-1954) VÀ ĐẾ
QUỐC MỸ (1954-1975) CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM.


Nhóm thực hiện: 16
Lớp học phần: 111200808
Khoa: Cơ khí.
Giảng viên hướng dẫn: Lê Văn Hùng.
Tp Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2011


2

DANH SÁCH NHÓM 16
STT

MSSV

HỌ TÊN



1

10241231

Nguyễn Lê Anh Thư
(NT)

2

11131341

Bùi Quang Mến

3

11057751

Nguyễn Trung Tín

4

11146461

Trần Văn Thuận

5

11146421


Lê Thanh Tuấn

6

11154121

Trần Quang Thiệu

7

11155311

Nguyễn Bảo Quân

8

11118411

Nguyễn Tiến Anh

9

11275291

Trần Minh Hiểu

10

11064601


Đinh Sỹ Đạt

ĐIỂM

NHIỆM VỤ
Tìm tài liệu
Làm bài
Tổng hợp
Tìm tài liệu
Làm bài.
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài
Tìm tài liệu
Làm bài

GHI CHÚ



3

LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam là một trong những môn học
đại cương, cơ bản nhất của tất cả các sinh viên bất kể ngành nghề, trình độ cao
đẳng hay đại học. Mơn học này giúp các tân sinh viên tìm hiểu thêm về chủ trương
chính sách đường lối của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam- từ cách mạng
dân tộc , dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, hiểu rõ quá trình đấu
tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm giành độc lập tự do cho đất nước, và quan trọng
nhất là nâng cao truyền thống yêu nước của dân tộc ta.
Đến với mơn học này, nhóm 16 gồm những sinh viên năm nhất của trường ĐH
Công nghiệp Tp Hcm, do thầy Lê Văn Hùng phụ trách quyết định làm tiểu luận tìm
hiểu đề tài: “ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)
VÀ ĐẾ QUỐC MỸ (1954-1975) CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM”.

Với đề tài này, nhóm 16 đã tìm hiểu được khá nhiều tư liệu từ các nguồn tư liệu
trên mạng, các sách lịch sử mang tính chuyên sâu và đặt biệt là vào ngày
6/10/2011, nhóm đã đến Bảo tàng chứng tích chiến tranh để được nghiên cứu thực
tế.
Thơng qua bài tiểu luận này, nhóm muốn làm rõ sự quan trọng của Đảng trong vai
trò lãnh đạo kháng chiến, những cột mốc lịch sử quan trọng trong 2 giai đoạn
chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc bé nhỏ mà vĩ đại- Việt Nam.
Cuối cùng, nhóm xin chân thành cảm ơn trường đại học Cơng nghiệp TpHCM,
khoa Lí luận- chính trị, thầy giáo phụ trách mơn học Lê Văn Hùng và viện bảo
tàng chứng tích Chiến tranh…đã tạo điều kiện, giúp nhóm tìm hiểu và hồn thành
tiểu luận.
Xin chân thành cảm ơn.

NHÓM 16.



4

Đề cương.

Chương 1:Mở đầu
Chương 2: Nội dung.
I.Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
1.Tình hình
2. Quá trình cách mạng.
3. Đường lối cách mạng Đảng.
4.Nguyên nhân thắng lợi.
5.Ý nghĩa lịch sử.
II.Đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975).
1. Tình hình
2. Quá trình cách mạng.
3. Đường lối cách mạng Đảng.
4.Nguyên nhân thắng lợi.
5.Ý nghĩa lịch sử.
III.Đường lối cách mạng của ta trong suốt q trình đấu tranh giành độc lập.
1.Chính sách, chủ trương của Đảng và kết quả đạt được.
2.Ý nghĩa.
3.Bài học kinh nghiệm.
Chương 3.Kết luận.
1.Đường lối kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
2.Vai trị của Đảng trong q trình đấu tranh giành độc lập.
3.Vai trị của Đảng trong tình hình đất nước hiện nay.
4.Tổng kết.



5

Mục lục.
Chương 1:Mở đầu ……………………………………………………………….6
Chương 2: Nội dung………………………………………………………………6
I.Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)………………………6
1.Tình hình………………………………………………………………………….7
2.Quá trình cách mạng..…………………………………………………………….8
3.Đường lối cách mạng Đảng .……………………………………………………..8
4.Nguyên nhân thắng lợi..…………………………………………………………12
5.Ý nghĩa lịch sử..…………………………………………………………………13
II.Đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975)……………………….13
1.Tình hình………………………………………………………………………...13
2. Quá trình cách mạng …………………………………………………………...13
3. Đường lối cách mạng Đảng ……………………………………………………13
3.1.Giai đoạn 1954-1964………………………………………………………….14
3.2.Giai đoạn 1965-1975………………………………………………………….16
4. Nguyên nhân thắng lợi …………………………………………………………18
5. Ý nghĩa lịch sử …………………………………………………………………18
III.Đường lối cách mạng của ta trong suốt q trình đấu tranh giành độc lập……19
1.Chính sách, chủ trương của Đảng và kết quả đạt được…………………………19
2.Ý nghĩa………………………………………………………………………….20
3.Bài học kinh nghiệm……………………………………………………………21
Chương 3.Kết luận……………………………………………………………….21
1.Đường lối kháng chiến chống giặc ngoại xâm………………………………….21
2.Vai trị của Đảng trong q trình đấu tranh giành độc lập………………….21
3.Vai trị của Đảng trong tình hình đất nước hiện nay…………………………22
4.Tổng kết………………………………………………………………………..22



6

Chương 1:Mở đầu.
Lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước của nhân dân ta từ sau chiến tranh Thế giới thứ
nhất đến nay trải qua nhiều thời kì, nhiều bước thăng trầm. Từ khi Nguyễn Ái Quốc đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin năm 1920 và Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, cuộc
đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo Đảng và chủ tịch Hồ
Chí Minh tuy phải chịu nhiều hy sinh gian khổ, nhưng cuối cùng đã giành được thắng lợi
vẻ vang. Sự thắng lợi đó là do nhân ta đồn kết một lịng, giàu lịng u nước, lao động
cần cù, sáng tạo, chiến đấu kiên cường dũng cảm vì độc lập tự do. Và quan trọng hơn cả
là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập
tự chủ. Nhân tố thắng lợi hàng đầu đó chi phối các nhân tố khác, đảm bảo sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Trải qua từng thời kỳ tình hình lịch sử khác nhau, đặc biệt ở hai cuộc chiến chống Pháp
và Mỹ kéo dài hơn 30 năm, Đảng có những chính sách, đường lối, định hướng khác nhau
phù hợp với giai đoạn đó nhưng vẫn nắm rõ mục tiêu giành độc lập tự do. Có thể nói, sự
lãnh đạo của Đảng là nền móng quan trọng và vững chãi nhất trong cơng cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước.

Chương 2: Nội dung.
I.Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
- Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, trong tình hình đất nước gặp
mn vàng khó khăn thử thách, nhân dân ta vừa xây dựng chính quyền cách mạng, giải
quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính, vừa đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nội
phản, bảo vệ chính quyền và từ cuối năm 1946, chống thực dân Pháp xâm lược cả nước.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp( 1945-1954) tiến hành trong điều kiện nước ta đã có độc
lập và chính quyền. Vì vậy, kháng chiến và kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng nước ta trong thời kỳ này:
+ Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, và từ năm 1950 chống cả sự can thiệp của
Mĩ, trải qua nhiều giai đoạn với các mốc chiến thắng Việt Bắc thu – đông 1947, chiến

thắng Biên giới thu- đông 1950, chiến thắng trong Đông- Xuân 1953- 1954. Điện Biên
Phủ là trận thắng quyết định đưa đến việc kí kết Hiệp định Gionevo năm 1954 về Đông
Dương, kết thúc chiến tranh.
+Kiến quốc nhằm xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phục vụ kháng chiến, phục
vụ dân sinh, tạo tiền đề để tiến lên xã hội chủ nghĩa sau khi chiến tranh kết thúc.

1.Tình hình


7

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với mn vàng khó khăn,
thử thách. Quân đội các nước Đồng Minh dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật đã lũ lượt
kéo vào nước ta.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 van quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào đóng ở Hà Nội
và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là tay sai thuộc địa các tổ chức phản động như Việt
Nam Quốc dân đảng ( Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội ( Việt Cách) về
nước hịng cướp chính quyền của ta. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện
cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động trong
nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng.
Ngồi ra, trên cả nước ta, cịn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân Nhật
theo lệnh quân Anh đánh lại lực lượng vũ trang của ta, tạo điều kiện cho quân Pháp mở
rộng phạm vi chiếm đóng.
Trong khi đó chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực lượng
vũ trang còn non yếu. Nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề; hậu quả của nạn đói cuối năm 1944- đầu năm 1945 chưa khắc phục
được. Tiếp đó là nạn lụt lớn, làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa
tổng số ruộng đất không canh tác được. Nhiều xí nghiệp cịn nằm trong tay tư bản Pháp.
Các cơ sở công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả
tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

Ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, kho bạc nhà nước chỉ cịn hơn 1,2 triệu
đồng. Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đơng Dương. Trong lúc đó,
quân Trung Hoa dân quốc lại tung ra thị trường các loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm
cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân , phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90%
dân số khơng biết chữ.
Đất nước đứng trước tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, thuận lợi của chúng ta
bây giờ rất cơ bản. Nhân dân ta giành quyền làm chủ, bước đầu được hưởng quyền lợi do
chính quyền cách mạng đưa lại nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ. Cách mạng nước ta
có Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lãnh đạo. Trên thế giới, hệ thống
xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào đấu tranh vì hịa bình, dân chủ phát triển ở
nhiều nước tư bản.

NẠN ĐÓI NĂM 1945 LÀM CHẾT HƠN 2 TRIỆU NGƯỜI.


8

2. Quá trình cách mạng.
Do thực dân Pháp bội ước, từ ngày 19-12-1946 nhân dân ta đã bước vào cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược (1946-1954), ta đã xây dựng lực lượng mọi mặt,
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài và bước đầu giành thắng lợi quan trọng với chiến
thắng Việt Bắc thu- đông năm 1947 và Biên giới thu-đông năm 1950.
Bước sang giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, có sự giúp đỡ của đế quốc Mĩ được đẩy mạnh; lực lượng kháng chiến của ta trưởng
thành về mọi mặt, quân dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện, tiếp tục giữ
vững quyền chủ động trên chiến trường.
Bước vào đông –xuân 1953-1954, Pháp-Mĩ âm mưu giành thắng lợi quân sự quyết định
nhằm “kết thúc chiến tranh trong danh dự”; quân ta mở rộng cuộc Tiến công chiến lược
Đông –Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch

Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã
buộc thực dân Pháp kí hiệp định Gionevo năm
1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở
Đơng Dương.

Hàng ngàn lượt máy bay đã thi
nhau trút bom xuống Hà Nội.

“Rồng lửa” SAM trong chiến thắng

“Điện Biên Phủ trên không”.

3. Đường lối cách mạng Đảng.
Đường lối kháng chiến cùa Đảng được hình thành từng bước trong quá trình chỉ đạo
Nam bộ kháng chiến, qua sự theo dõi âm mưu, thủ đoạn của địch cũng như thực tiễn
chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng tám thành công, trong chỉ thị Kháng chiến, kiến
quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá quá trình chỉ đạo
cuộc kháng chiến ở Nam bộ, trung ưởng Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu


9

tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưa của thực dân Pháp định
tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc
lần thứ nhất, do tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “ khơng xớm
thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Hội nghị đề ra
những chủ trương, biên pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn

sàng bước vào cuộc chiến mới. Trong chỉ thị “cơng việc khẩn cấp bây giờ” ( 5-11-1946),
Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến, tồn cụ khi bước khi bước vào cuộc
kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba
văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ. Đó là chỉ thị Tồn dân kháng chiến của Ban thường vụ Trung ương Đảng (
22-12-1946), lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20-12-1946), tác
phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh ( các bài viết đang trên báo Sự
Thật đầu năm 1947, được xuất bản thành sách 0-1947).
Nội dung đường lối
Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng tháng tám, “ đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất kháng chiến: Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Nhiệm vụ kháng chiến: “ Cuộc kháng chiến này chính là chiến tranh cách mạng có
tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do… nhằm hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân
tộc và phát triển dân chủ mới”.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến tồn dân: “ tất cả già trẻ, trai gái không phân biệt đảng phái, tôn giáo,
hễ là người Việt Nam phải đứng lên chiến đấu”, là thực hiện mỗi người dân một chiến sĩ,
một làng xóm là một pháo đài.
Kháng chiến tồn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao. Trong đó:
Về chính trị: thực hiện đồn kết tồn dân , tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; Đoàn kết với Miên – Lào và các dân tộc u chuộng tự do, hịa bình.
Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt
địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến,
đánh chính quy, là “ Triệt để dung du kích, vận động chiến. Bảo tồn thực lực, kháng
chiến lâu dài…. Vừa đánh vừa võ trang them; vừa đánh vừa tạo thêm cán bộ”.
Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển

nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và cơng nghiệp quốc phịng.
Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới
theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: thực hiện them bạn bớt thù, biểu dương thơcj lực. “Liên hiệp với dân tộc
Pháp, chống phản động thực dân Pháp” , sẵn sang đàm phán nếu Pháp công nhận Việt
Nam
độc
lập,….
Kháng chiến lâu dài ( trường kỳ ): là để chống dâm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của


10

Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “ thiên thời, địa lợi, nhân hịa” của ta, chuyển hóa
tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía.
Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ dự giúp đỡ của các nước, xong lúc đó cũng khơng
được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của đảng với những nội dung cơ bản nêu trên là đúng đắn và sáng
tạo, vừa kế thừa kinh nghiệm của tổ tiên đúng với nguyên lý về chiến tranh cách mạng
của chủ nghĩa Mác- Lênin vừa phù hợp với thực tế của ta lúc bấy giờ. Đường lối kháng
chiến của Đảng được cơng bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào
ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Phát triển đường lối kháng chiến theo phương châm hoàn thành giải phóng dân tộc, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội (1951-1954).
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947-1950 Đảng được tập trung chỉ
đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đo thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại
cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương,
chống phá thủ đoạn “ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dung người Việt đánh người Việt”

của thực dân Pháp; chủ trương thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước quan hệ chủ
nghĩa. Thắng lợi của chiến dịch biên giới cuối năm 1950 đã giáng một địn nặng nề vào ý
chí xâm lược của địch, quân ta dành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính
Bắc Bộ.
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giời và cách mạng Đơng Dương có nhiều chuyển biến
mới. Đó là sự lớn mạnh của xã hội chủ nghĩa làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng
trên trường quốc tế có lợi cho hịa bình và cách mạng. Nước ta được các nước xã hội chủ
nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông
Dương đã dành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của
thực dân Pháp, đế quốc Mĩ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương. Điều kiện
lịch sử đớ đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi. Đặc biệt là yêu cầu của Đảng phải ra hoạt động công khai để lãnh
đạo cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn cao hơn.
Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2 năm 1951 , Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại
biểu lần thứ 2 tại tỉnh Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành báo cáo chính trị của ban
chấp hành trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết chia tách Đảng Đông
Dương thành 3 Đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3 dân tộc đi đến thắng
lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam.
Báo cáo hồn thành giải phóng dân tộc phát triển dân chủ nhân dân tiến tới xã hội chủ
nghĩa của tổng bí thư Trường Chinh trình bày tại đại hội của Đảng Lao Động Việt Nam
đã hoàn chỉnh đường lối kháng chiến và phát triển thành đương lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng Lao Động
Việt Nam. Nội dung cơ bản là:
Tính chất xã hội: “Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một
phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu
thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc


11


địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt
Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Đối tượng cách mạng: Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: Đối tượng chính là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng
phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cách mạng: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi
bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song
nhiệm vụ chính trước mắt là hồn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập
trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược”.
Động lực của cách mạng: Gồm có bốn giai cấp: cơng nhân, nơng dân, tiểu tư sản thành
thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và
tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng là cơng
nhân, nơng dân và lao động trí thức.
Đặc điểm của cách mạng: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân lao
động làm động lực, cơng nơng và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân
lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Cách mạng đó khơng phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là
cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dan chủ tư sản lối mới tiên tiến
thành cách mạng xã hội chũ nghĩa”.
Triển vọng cách mạng: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa
Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: “Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải
qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc;
giai đoạn hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến,
thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kĩ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân
dân; giai đoạn thứ 3, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên
thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ, xen
kẽ nhau”.

Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: “Người lãnh đạo của cách mạng là giai cấp công
nhân”. “Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao
động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân tộc dân chủ nhân dân, tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do hạnh phúc cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”. Chính sách
của Đảng : Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm
móng cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hịa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ
của xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xơ; thực hiên đồn kết
Việt –Trung- Xơ và đồn kết Việt-Miên-Lào…
Đường lối cách mạng Việt Nam thơng qua Chính cương Đãng lao động Việt Nam đã tiếp
tục được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung ương.


12

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất(3-1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế,
trong nước và nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến
tranh, “củng cố và gia cường bộ đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và quân dân du
kích”, “tăng cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính”, “Thực hiện việc khuyến khích, giúp
đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển cơng thương nghiệp”,
“Tích cực tham gia phong trào bảo vệ hịa bình thế giới”, “Củng cố Đảng về tư tưởng
chính trị và tổ chức”.
Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 2( họp từ ngày 27-9 đến 5-10-1951), đã nêu lên
chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là “Ra
sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự”, “Ra sức pha âm nưu thâm độc
của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, đẩy mạnh
kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, “Củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn quốc,
toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết”.
Tại Hội nghị Trung Ương lần thứ 4 (tháng 1-1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được

Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô,
chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng “Muốn kháng chiến hoàn toàn
thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh
tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ năm (11-1953), Đảng quyết định phát động quần
chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. “Cải cách ruộng
đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”, “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của
cả nước, nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau”.
“Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở
nông thôn rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị thật đầy đủ, kế hoạch phải
rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ…”
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc,phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế giai đoạn 1951-1954.

4.Nguyên nhân thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nhờ có sự lãnh đaok sang suốt
của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng
tạo; toàn dân, toàn quân ta đồn kết một lịng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao
động sản xuất.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược giành được thắng lợi
cũng là nhờ có hệ thống chính quyền trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được
cũng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng
lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào
và Campuchia được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ
thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân
chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

5.Ý nghĩa lịch sử



13

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm
dứt ách thống trị thực dân của Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta; miền Bắc nước
ta được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân
dân ta giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ Quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đã giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm
lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến Tranh thế giới thứ Hai, góp phần
làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
các nước Châu Á, châu Phi, và Mĩ Latinh.
Tuy vậy, miền Nam nước ta chưa được giải phóng, nhân dân ta cịn phải tiếp tục cuộc
đấu tranh gian khổ chống đế quốc Mỹ nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, thống nhất đất nước.

II.Đường lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975).
1.Tình hình.
Hiệp định Gionevo năm 1954 về Đơng Dương được kí kết đã chấm dứt cuộc chiến tranh
xâm lược ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia của thực dân Pháp, có sự giúp sức của đế
quốc Mĩ.
Thực hiện hiệp định Gionevo, ngày 10-10-1954, quân ta tiến vào tiếp quản Hà Nội trong
khơng khí tưng bừng của ngày hội giải phóng. Ngày 1-1-1955, Trung ương Đảng, chính
phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân Thủ đơ. Tốn lính Pháp cuối cùng rút khỏi
đảo Cát Bà( Hải Phòng) ngày 16-5-1955. Miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng.
Giữa tháng 5-1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương
tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định
Gionevo.
Ngay sau khi Hiệp định Gionevo năm 1954 về Đông Dương được kí kết, Mĩ liền thay thế
Pháp, dựng lên chính quyền Ngơ Đình Diệm ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt
Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ

ở Đơng Dương và Đơng Nam Á.
Do đó, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước chưa hoàn thành,
nhân dân ta vừa phải hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà.

2. Q trình cách mạng.
Do âm mưu của đế quốc Mĩ và chính quyền Ngơ Đình Diệm, nước ta tạm thời bị chia cắt
làm hai miền với hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau. Trong tình hình đó, miền Bắc vừa
tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vừa
thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền
Nam tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu
tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và chính quyền tay sai.
Trong những năm 1965-1973, nhân dân ta ở hai miền Nam-Bắc cùng chiến đấu đánh bại
liên tiếp chiến lược “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” và chiến tranh
bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc của đế quốc Mĩ. Miền Bắc vừa chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất, thực hiện nghĩa vụ hậu phương chi viện cho
tiền tuyến miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và Campuchia.


14

Sau hiệp định Paris năm 1973 về Việt Nam, Mĩ rút hết quân về nước. Nhân dân miền Bắc
khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội, ra sức chi viện
cho miền Nam. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống địch “bình định – lấn chiếm”, tạo
thế và lực tiến tới cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy giải phóng hồn tồn miền Nam, giành
toàn vẹn lãnh thổ Tổ Quốc.

ẤP CHIẾN LƯỢC.


3. Đường lối cách mạng Đảng.
3.1.Giai đoạn 1954-1964.
Yêu cầu bức thiết đặc ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường lối
đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước vừa phù hợp với xu thế
chung của thời đại.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra nghị quyết về “tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách
mới của Đảng”. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc
cách mạng Việt Nam “bước vào một giai đoạn mới”là: “Từ chiến tranh chuyển sang hịa
bình ; Nước nhà tạm chia thành hai miền; Từ nông thôn chuyển vào thành thị; Từ phân
tán chuyển đến tập trung”.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng
nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hịa bình thực hiện thống nhất,
hồn tồn độc lập và dân chủ, đều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ
và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12-1957, Tại hội nghị Trung Ương lần thứ mười ba, Đảng ta đã xác định: “Mục
tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền bắc
đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hịa bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 ra quyết định quyết định về cách mạng
miền Nam. Hội nghị nhận định “ Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao
gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau,
nhưng quan hệ hữu cơ với nhau,…nhằm phương hướng chung là giữ vững hịa bình, thực
hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là : “giải phóng


15

miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và

người cày có ruộng, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con người
phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền
về tay nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền
thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
“Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hồ bình phát triển, tức
là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có
lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta khơng gạt bỏ khả năng đó,
mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng chiến đấu khó khăn của cách mạng.
Q trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là q trình
hình thành đường lối chiến lược cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần
thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Đại
hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới. Cụ thể là:
Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc nhân dân ở
miền Nam, thực hiên thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một
nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Nhiêm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ
chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà hoàn thành độc và dân chủ trong cả nước”.
Mục tiêu chiến lược: “Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền
Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của
mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm thời bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải

quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hịa bình thống nhất tổ quốc”.
Mối quan hệ cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên “Hai
nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trò, nhiệm vụ cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước,
hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa về
sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt
Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.


16

Con đường đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến cách
mạng, Đảng kiên trì con đường hịa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp định Gionevo,
sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con
đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung
của thế giới. “Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với
mọi tình thế”. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây chiến tranh hịng
xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn
toàn độc lập và thống nhất Tổ quốc”.
Triển vọng cách mạng Việt Nam: cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là
một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân
dân ta. Nam Bắc nhất định sum họp một nhà cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ý nghĩa đường lối:
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội

lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp
với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp sức
mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của cách mạng trên
thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xơ và Trung Quốc. Do đó đã
tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối cách mạng Việt Nam đã
thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn
đề khơng có tiền lệ trong lịch sử, vừa đúng với thực tiễn của Việt Nam vừa phù hợp với
lợi ích nhân loại và xu thế thời đại.
Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để
Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong lịch sử xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến
tranh của các đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

3.2. Giai đoạn 1965-1975.
Khi Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các hội nghị chính trị
của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế
tấn công mà ta dành được sau cuộc “ Đồng Khởi” năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mơ tồn miền. Bộ chính trị chủ
trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh
đấu tranh chính trị. Đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang lên 1 bước mới, ngang tầm với đấu
tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đẩy mạnh đánh địch
bằng 3 mũi giáp cơng: quân sự, chính trị, binh vận.
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 9 (tháng 11 năm 1963) ngoài việc xác định đúng đắn
quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền
Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả 2 đều có vai



17

trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền
Bắc, hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền
Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác triển khai mọi mặt sẵn sang đối phó với âm mưu đánh phá
của địch.
Trước hành động gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc của đế quốc Mỹ, hội nghị trung ương lần thứ XI (3-1965) và lần thứ XII (12-1965) đã
tập trung đánh giá tình hình và đề ra đương lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: trung ương Đảng cho rằng cuộc “chiến
tranh cục bộ” mà Mỹ đang thực hiện ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu
thuẫn chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, trung ương Đảng quyết định phát động cuộc
chiến tranh chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng
liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược” , “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước tiến tới thực hiện hào bình thống nhất nước nhà”.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống lại
chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là
chính càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để
mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời gian dành thắng lợi quyết định trong thời gian
tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh của miền Nam: giữ vững và phát triển thế
tấn công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến cơng. Tiếp tục kiên trì phương châm kiên quyết
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện 3 mũi giáp công, đánh địch trên cả 3

vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp
và giữ 1 vị trí quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững vàng về kinh tế và quốc phịng trong điều kiện có chiến tranh, tiến
hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững
chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người và của ở mức cao nhất để chi viện cho
cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch
trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu của 2 miền: trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ
miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc cho
cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện cho miền
Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây khơng tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó
nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “ tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”…
Ý nghĩa đường lối:


18

Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung
nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng.
-Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc
lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng
đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
-Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hồn
cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối
cảnh quốc tế.

-Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính được phát triển trong hồn cảnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.

4.Nguyên nhân thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi nhờ sự lãnh đạo sang suốt của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ đúng
đắn, sáng tạo, đường lối tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, với phương pháp đấu tranh linh hoạt,
kết hợp quân sự -chính trị - ngoại giao.
Nhân dân ta giàu lịng u nước, đồn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm
vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc thống nhất nước nhà.
Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc
chiến đấu ở hai miền.
Cuộc kháng chiến thắng lợi nhờ có sự phối hợp chiến đấu, đồn kết giúp đỡ nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của ba dân tộc ở Đông Dương, sự đồng tình, ủng hộ,
giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hào bình, dân chủ trên thế giới, nhất là của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; phong trào nhân dân Mỹ và
nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ.

5.Ý nghĩa lịch sử
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ
và 30 năm chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc từ sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân – đế quốc trên đất nước ta.
Trên cơ sở đó, hồn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thống nhất đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mở ra một kỷ nguyên mới của lịch
sử dân tộc- kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mỹ đã tác động mạnh đến tình hình nước
Mỹ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là đối

với phong trào giải phóng dân tộc.
Thắng lợi đó “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi
nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và


19

trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

III.Đường lối cách mạng của ta trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập.
1.Chính sách, chủ trương của Đảng và kết quả đạt được.
Trải qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng đã đưa ra những chủ trương, chính sách
khác nhau để kịp thời ứng phó với địch với mục tiêu cuối cùng là giành độc lập nước nhà.
Trước năm 1930, khi cuộc đấu tranh của dân tộc ta do các tổ chức, cá nhân đại biểu cho
giai cấp phong kiến địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản lãnh đạo, dù đã diễn ra liên tục,
anh dũng song kết cục đều thất bại.
Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào dân tộc dân chủ của nhân dân ta
mới từng bước đi tới thắng lợi.
Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn được đề ra trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng với nồng cốt là
khối liên minh công, quần chúng cách mạng được rèn luyện qua nhiều cuộc tổng diễn
tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa
hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Cách mạng tháng 8-1945 thành cơng, nhưng các thế lực đế quốc thực dân và tay sai câu
kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng xác định độc lập
dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên, kịp thời đưa
ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ nước, thực hiện đoàn kết
dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo

vệ được chính quyền cách mạng trong hồn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”.
Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của chúng lên
toàn cõi nước ta. Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên kháng
chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân dân, kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng đã từng bước
lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau cuộc tiến công
chiến lược Đông-Xuân 1953-1954.
Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế giới và
trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ tìm tịi và
cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược chung sáng
suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền Nam, hịa bình
thống nhất tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa xuân 1975.
Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng vội nên
kinh tế -xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Tử năm 1986, với đường lối đổi mới được
đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có những bước
chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó khăn, chuyển
sang thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực lượng tăng cường, vị thế
quốc tế được nâng cao.


20

2.Ý nghĩa.
Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt Nam đã
phải bước vào một cuộc chiến đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và các thế lực
thù địch trong hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược ta, với ý chí “thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Đảng đã phát

động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến tồn dân,
tồn diện lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi tới
thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn
đối với nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hồn tồn ý
chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân
tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước là
miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu
phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm sức mạnh
vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín cho dân tộc và cho Đảng
trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước
sau đó…Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm dứt chiến tranh
và lập lại hịa bình ở Đơng Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam, Lào, Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người tiên phong trong
việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các
dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền Bắc được hồn
tồn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ pha hoại hiệp định Gionevo, đưa cố vấn
quân sự rồi quân viễn chinh xâm lược Việt Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động,
lãnh đạo nhân dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng,
nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hịa bình
thống nhất Tổ quốc. Với tinh thần “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, nhân dân cả
nước ta đã vừa xây dựng, bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện
tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đánh bại các
âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta, thắng
lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách mạng, hơn một
thế kỉ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất tron vẹn cho đất nước ta;
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc

dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh lớn
về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân
tộc trên trương quốc tế; để lại nhiều bài học có giá trị cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc…
Đối với thế giới, thắng lợi này góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của
đế quốc Mĩ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tơc


21

dân chủ của nhân dân thế giới, mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược đã khẵng định một chân lí lịch sử là một dân tộc đất không rộng, người
không đơng nếu có Đảng Cộng Sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối đúng, phát
huy sức mạnh của khối đại đồn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh sáng
tạo, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hồn tồn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.

3.Bài học kinh nghiệm.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
được đại hội VII(1991) thông qua, Đảng đã nêu lên năm bài học lớn mà đến nay vẫn có
giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc.
1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng để sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân.
3. Khơng ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.


Chương 3.Kết luận.
1.Đường lối kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Từ khi ra đời, Đảng đã thể hiện vai trò lãnh đạo của mình một cách xuất sắc. Bằng việc
tìm hiểu, nắm rõ tình hình đất nước trong từng giai đoạn cụ thể, đưa ra những quyết định
sáng suốt đưa đất nước thoát khỏi những khó khăn trước mắt. Đồng thời dọn đường cho
độc lập thống nhất đúng nghĩa của dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) tiến hành trong điều kiện nước ta đã có độc
lập và chính quyền.Vì vậy, kháng chiến và kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta trong thời kì này.
Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954 đến ngày 30-4-1975, xuất
phát từ tình hình đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Đảng đề ra nhiệm vụ cho
cách mạng từng miền và nhiệm vụ chung cho cách mạng cả nước, mối quan hệ giữa cách
mạng hai miền, xác định vai trị vị trí cách mạng từng miền. Nhiệm vụ chung là “kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước”.

2.Vai trò của Đảng trong quá trình đấu tranh giành độc lập.
Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong của
giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mac-lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy
sinh nhưng cũng kết thúc vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã giành
được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trị, cơng lao to lớn


22

của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và

nhân dân ta.

3.Vai trị của Đảng trong tình hình đất nước hiện nay.
Hiện nay, để đảm bảo cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức chú trọng
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đảm bảo
cho Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức…Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn
mạnh: “Đảng Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân,
của nhân dân lao động và của cả dân tộc”; phải “Tiếp tục tự đổi mới, tự chính đốn Đảng,
tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh về chính trị tư
tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm
trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, ln gắn bó với nhân dân”, coi đó là “địi
hỏi có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và nhân dân ta”. Từ đó, Đảng ngày càng hồn
thiện, khẳng định vai trị quan trọng của mình đối với đất nước. Những chính sách định
hướng của Đảng đã phát huy hiệu quả, giúp đất nước Việt Nam đi lên, phát triển tầm cao
mới trên thế giới và đạt được nhiều thành tựu trong hiện tại cũng như tương lai.

4.Tổng kết.
Cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và
chủ tịch Hồ Chí Minh tuy phải chịu nhiều hy sinh gian khổ, nhưng cuối cùng đã giành
được thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi nối tiếp thắng lợi, mở đầu là thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám, tiếp đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ
và nay là thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi
đó có nhiều nguyên nhân, cơ bản nhất là sự đóng góp của Đảng. Đảng Cộng sản Việt
Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, là đội tiên phong và là đại biểu trung thành cho
lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ là nhân tố
hàng đầu chi phối cá nhân tố khác của cách mạng Việt Nam.



23

PHỤ LỤC
1. Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Bộ giáo dục và đào tạo. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia-2006.
2. Đề cương bài giảng Đường lối Cách mạng Việt Nam. Trườn Đại Học Công
nghiệp. Khoa Mác-lenin.3/2009.
3. Sách giáo khoa Lịch sử 12. Bộ giáo dục và đào tạo. Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam. 3/2010.
4. …



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×