Tải bản đầy đủ (.ppt) (48 trang)

Bệnh lý học thú y_c1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.57 KB, 48 trang )


Môn bệnh lý học thú y
Môn bệnh lý học thú y
(Chuyên ngành Chăn nuôi Thú y)
(Chuyên ngành Chăn nuôi Thú y)
1. Tên môn học: Bệnh lý học thú y
1. Tên môn học: Bệnh lý học thú y
Veterinary Pathology
Veterinary Pathology
2. Số đơn vị học trình: 4
2. Số đơn vị học trình: 4
3. Giáo viên phụ trách: TS. Nguyễn Hữu Nam.
3. Giáo viên phụ trách: TS. Nguyễn Hữu Nam.
4. Mục tiêu của môn học:
4. Mục tiêu của môn học:
Mục tiêu của môn học
Mục tiêu của môn học
nhằm trang bị cho học viên những nguyên lý chung
nhằm trang bị cho học viên những nguyên lý chung
nhất, phơng pháp suy luận tổng hợp và khả năng vận
nhất, phơng pháp suy luận tổng hợp và khả năng vận
dụng những hiểu biết đã đợc học trong phần kiến
dụng những hiểu biết đã đợc học trong phần kiến
thức cơ bản, cơ sở để giải thích tại sao và do đâu mà
thức cơ bản, cơ sở để giải thích tại sao và do đâu mà
có những triệu chứng ở cơ thể bệnh, nhằm cung cấp
có những triệu chứng ở cơ thể bệnh, nhằm cung cấp
các thông tin cơ sở cho việc chăm sóc lâm sàng và
các thông tin cơ sở cho việc chăm sóc lâm sàng và
điều trị bệnh.
điều trị bệnh.



Các chơng
Các chơng

- Các khái niệm cơ bản
- Các khái niệm cơ bản

- Rối loạn tuần hoàn cục bộ
- Rối loạn tuần hoàn cục bộ

- Rối loạn chuyển hoá các chất
- Rối loạn chuyển hoá các chất

- Viêm
- Viêm

- Sốt
- Sốt

- Bệnh lý học hệ hô hấp
- Bệnh lý học hệ hô hấp

- Bệnh lý học hệ tiêu hoá
- Bệnh lý học hệ tiêu hoá

- Bệnh lý học chuyên khoa
- Bệnh lý học chuyên khoa
+ Bệnh chung giữa ngời và động vật
+ Bệnh chung giữa ngời và động vật
+ Bệnh lợn

+ Bệnh lợn
+ Bệnh gia cầm
+ Bệnh gia cầm

CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CƠ BẢN
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CƠ BẢN

Trong quá trình phát triển của khoa học nói
Trong quá trình phát triển của khoa học nói
chung, y học và thú y học nói riêng bao giờ
chung, y học và thú y học nói riêng bao giờ
cũng hình thành một số khái niệm cơ bản. Đây
cũng hình thành một số khái niệm cơ bản. Đây
là những vấn đề lớn, khái quát hoá các mối
là những vấn đề lớn, khái quát hoá các mối
quan hệ giữa các hiện tượng bệnh lý, các quy
quan hệ giữa các hiện tượng bệnh lý, các quy
luật đúc kết từ thấp đến cao.
luật đúc kết từ thấp đến cao.

Những khái niệm cơ bản bao gồm khái niệm về
Những khái niệm cơ bản bao gồm khái niệm về
bệnh, về yếu tố bệnh nguyên, về cơ chế sinh
bệnh, về yếu tố bệnh nguyên, về cơ chế sinh
bệnh, quá trình lành bệnh, tử vong và bệnh lý
bệnh, quá trình lành bệnh, tử vong và bệnh lý
miễn dịch.
miễn dịch.

Nắm vững các khái niệm cơ bản có vai trò

Nắm vững các khái niệm cơ bản có vai trò
quan trọng việc chẩn đoán và điều trị bệnh.
quan trọng việc chẩn đoán và điều trị bệnh.


I.KHÁI NIỆM VỀ BỆNH
I.KHÁI NIỆM VỀ BỆNH

Người thày thuốc muốn chữa bệnh có hiệu
Người thày thuốc muốn chữa bệnh có hiệu
quả thì phải hiểu rõ đối tượng của mình tức là
quả thì phải hiểu rõ đối tượng của mình tức là
phải có quan niệm đúng đắn về bệnh. Vậy
phải có quan niệm đúng đắn về bệnh. Vậy
bệnh là gì? Câu hỏi này đã được đặt ra từ
bệnh là gì? Câu hỏi này đã được đặt ra từ
ngàn xưa, khi con người có mặt trên trái đất,
ngàn xưa, khi con người có mặt trên trái đất,
nhưng câu trả lời lại luôn luôn thay đổi qua
nhưng câu trả lời lại luôn luôn thay đổi qua
các thời đại. Nó phản ánh sự tiến bộ của khoa
các thời đại. Nó phản ánh sự tiến bộ của khoa
học và các quan điểm triết học đương thời,
học và các quan điểm triết học đương thời,
phản ánh trình độ hiểu biết giới tự nhiên của
phản ánh trình độ hiểu biết giới tự nhiên của
con người.
con người.



1. 1. Sơ lược khái niệm về bệnh qua các
1. 1. Sơ lược khái niệm về bệnh qua các
thời đại
thời đại



Trong thời đại nguyên thuỷ
Trong thời đại nguyên thuỷ

Vào buổi sơ khai con người con hoàn toàn bất
Vào buổi sơ khai con người con hoàn toàn bất
lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi thứ
lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi thứ
đều ghê gớm, thần bí, với ông sấm, bà sét, ông
đều ghê gớm, thần bí, với ông sấm, bà sét, ông
thiện ông ác, với ma tà và quỷ dữ, với thiên
thiện ông ác, với ma tà và quỷ dữ, với thiên
đường và địa ngục. Do đó quan điểm mắc
đường và địa ngục. Do đó quan điểm mắc
bệnh là do trời đánh, thánh vật, do quỷ tha,
bệnh là do trời đánh, thánh vật, do quỷ tha,
ma bắt. Và tất nhiên với quan điểm như vậy thì
ma bắt. Và tất nhiên với quan điểm như vậy thì
việc chữa bệnh phải cần đến thày cúng, thày
việc chữa bệnh phải cần đến thày cúng, thày
phù thuỷ hoặc phải cầu xin thượng đế phù hộ.
phù thuỷ hoặc phải cầu xin thượng đế phù hộ.





Nền văn minh cổ đại
Nền văn minh cổ đại

Nhân loại đã trải qua những nền văn minh cổ đại phát
Nhân loại đã trải qua những nền văn minh cổ đại phát
triển khá cao, đặc biệt là về lĩnh vực y học như ở
triển khá cao, đặc biệt là về lĩnh vực y học như ở
Trung Quốc, Ai cập, Ấn Độ, Hylạp - La mã.
Trung Quốc, Ai cập, Ấn Độ, Hylạp - La mã.

Trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan điểm về vũ trụ là
Trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan điểm về vũ trụ là
vạn vật đều do hai lực âm - dương và năm nguyên tố
vạn vật đều do hai lực âm - dương và năm nguyên tố
(kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ) hình thành. Âm và
(kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ) hình thành. Âm và
Dương đã được coi như 2 lực đối kháng và bổ cứu cho
Dương đã được coi như 2 lực đối kháng và bổ cứu cho
nhau trong sự hình thành vạn vật như đực với cái,
nhau trong sự hình thành vạn vật như đực với cái,
nóng với lạnh, sống với chết. Ngũ hành tuân theo quy
nóng với lạnh, sống với chết. Ngũ hành tuân theo quy
luật tương sinh, tương khắc (Tương sinh: Mộc sinh
luật tương sinh, tương khắc (Tương sinh: Mộc sinh
Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ
Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ
sinh Mộc, Tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim,
sinh Mộc, Tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim,

Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ).
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ).

Vßng trßn ©m d¬ng



Trong vũ trụ và vạn vật, mọi trạng thái đều
Trong vũ trụ và vạn vật, mọi trạng thái đều
phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa hai lực
phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa hai lực
Âm - Dương và ngũ hành, khi có rối loạn cân
Âm - Dương và ngũ hành, khi có rối loạn cân
bằng Âm - Dương hoặc có thay đổi trong quy
bằng Âm - Dương hoặc có thay đổi trong quy
luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành sẽ
luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành sẽ
sinh ra bệnh tật. Chính vì vậy các thuật ngữ âm
sinh ra bệnh tật. Chính vì vậy các thuật ngữ âm
thịnh dương suy, chân thuỷ, chân hoả, thể hàn
thịnh dương suy, chân thuỷ, chân hoả, thể hàn
thể nhiệt thường được dùng trong y học cổ đại.
thể nhiệt thường được dùng trong y học cổ đại.

Về mặt triết lý thì khoẻ mạnh là nhờ tình trạng
Về mặt triết lý thì khoẻ mạnh là nhờ tình trạng
cân bằng hoà hợp của vật chất trong cơ thể
cân bằng hoà hợp của vật chất trong cơ thể
nên quan điểm này cũng phù hợp với quan
nên quan điểm này cũng phù hợp với quan

điểm duy vật biện chứng, tuy còn thô sơ song
điểm duy vật biện chứng, tuy còn thô sơ song
quan điểm cổ đại này cũng rất tiến bộ và y học
quan điểm cổ đại này cũng rất tiến bộ và y học
cổ truyền cũng đã tích luỹ được nhiều kinh
cổ truyền cũng đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm chữa bệnh quý báu.
nghiệm chữa bệnh quý báu.


Quan niệm cổ Ai cập cho rằng: sự sống là do
Quan niệm cổ Ai cập cho rằng: sự sống là do
chất "khí"(
chất "khí"(
pneuma
pneuma
) và hô hấp là thu chất khí
) và hô hấp là thu chất khí
đó vào trong cơ thể. Khi chất khí trong sạch thì
đó vào trong cơ thể. Khi chất khí trong sạch thì
khoẻ mạnh còn khi chất khí nhơ bẩn thì sinh ra
khoẻ mạnh còn khi chất khí nhơ bẩn thì sinh ra
bệnh tật.
bệnh tật.

Triết lý về sự sống thời cổ của Ấn Độ là triết lý
Triết lý về sự sống thời cổ của Ấn Độ là triết lý
của đạo phật và
của đạo phật và
sống - chết

sống - chết
chỉ là luân hồi,
chỉ là luân hồi,
chết chỉ là một giai đoạn của sống, cơ thể vật
chết chỉ là một giai đoạn của sống, cơ thể vật
chất vô tri vô giác mà trong đó linh hồn vận
chất vô tri vô giác mà trong đó linh hồn vận
động, đảm bảo sự thống nhất các bộ phận của
động, đảm bảo sự thống nhất các bộ phận của
cơ thể, sự lành mạnh bình thường của các chức
cơ thể, sự lành mạnh bình thường của các chức
phận. Khi linh hồn rời cơ thể để sang một thế
phận. Khi linh hồn rời cơ thể để sang một thế
giới khác thì đó là sự chết.
giới khác thì đó là sự chết.
Vậy bệnh chính là
Vậy bệnh chính là
sự đấu tranh của linh hồn nhằm duy trì hoạt
sự đấu tranh của linh hồn nhằm duy trì hoạt
động bình thường của cơ thể.
động bình thường của cơ thể.

Nền văn minh Hy lạp - La mã cổ cũng có nhiều
Nền văn minh Hy lạp - La mã cổ cũng có nhiều
nhà bác học nổi tiếng trong lĩnh vực y học.
nhà bác học nổi tiếng trong lĩnh vực y học.
Hypocratus (460- 377 tr.cn) xây dựng thuyết
Hypocratus (460- 377 tr.cn) xây dựng thuyết
thể dịch cho rằng chức năng của cơ thể do
thể dịch cho rằng chức năng của cơ thể do

hoạt động cân bằng của 4 loại dịch là: Đỏ do
hoạt động cân bằng của 4 loại dịch là: Đỏ do
máu của tim tiết ra và biểu hiện tính nóng; Đen
máu của tim tiết ra và biểu hiện tính nóng; Đen
do máu của lách quyết định biểu hiện tính ẩm;
do máu của lách quyết định biểu hiện tính ẩm;
Mật Vàng ở gan biểu hiện tính khô và dịch
Mật Vàng ở gan biểu hiện tính khô và dịch
Trắng ở não biểu hiện tính lạnh. Từ đó rút ra
Trắng ở não biểu hiện tính lạnh. Từ đó rút ra
nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại sự cân
nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại sự cân
bằng nhờ các toa thuốc mát hay thuốc nóng.
bằng nhờ các toa thuốc mát hay thuốc nóng.
Đây chính là những cơ sở lâm sàng đầu tiên
Đây chính là những cơ sở lâm sàng đầu tiên
trong y học.
trong y học.

Thời kỳ trung cổ
Thời kỳ trung cổ
- Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ
- Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ
12, khoa học nói chung hầu như không phát
12, khoa học nói chung hầu như không phát
triển. Đó là một thời kỳ trì trệ, tôn giáo và
triển. Đó là một thời kỳ trì trệ, tôn giáo và
phong kiến đã kìm hãm mọi phát triển khoa
phong kiến đã kìm hãm mọi phát triển khoa
học. Y học nằm trong tay các thày dòng, cha

học. Y học nằm trong tay các thày dòng, cha
cố,… Nhà thờ thiên chúa giáo cho rằng bệnh
cố,… Nhà thờ thiên chúa giáo cho rằng bệnh
tật là sự trừng phạt của đấng tối cao đối với
tật là sự trừng phạt của đấng tối cao đối với
những tội lỗi mà con người và chúng sinh đã
những tội lỗi mà con người và chúng sinh đã
mắc phải, muốn khỏi bệnh thì phải cầu nguyện
mắc phải, muốn khỏi bệnh thì phải cầu nguyện
cho đức chúa buông tha.
cho đức chúa buông tha.


Thời kỳ phục hưng
Thời kỳ phục hưng
: Cuối thời kỳ trung cổ
: Cuối thời kỳ trung cổ
nhiều nhà khoa học đã dũng cảm NCKH nên Y
nhiều nhà khoa học đã dũng cảm NCKH nên Y
học có nhiều tiến bộ vượt bậc, năm 1543 Andre
học có nhiều tiến bộ vượt bậc, năm 1543 Andre
Vesale, người Bỉ đã xuất bản quyển sách " Cấu
Vesale, người Bỉ đã xuất bản quyển sách " Cấu
trúc cơ thể người“ - đặt nền móng cho các môn
trúc cơ thể người“ - đặt nền móng cho các môn
hình thái học.
hình thái học.

Năm 1616, William Harvey đã phát minh ra
Năm 1616, William Harvey đã phát minh ra

tuần hoàn của máu. Harvey cho rằng cơ thể bị
tuần hoàn của máu. Harvey cho rằng cơ thể bị
bệnh là khi bộ máy sinh vật bị hư hỏng giống
bệnh là khi bộ máy sinh vật bị hư hỏng giống
như máy hết nhiên liệu hoặc các bánh răng
như máy hết nhiên liệu hoặc các bánh răng
mòn, gãy…
mòn, gãy…

Sylvius nghiên cứu các dịch lại cho rằng bệnh
Sylvius nghiên cứu các dịch lại cho rằng bệnh
tật là do rối loạn hoá học trong cơ thể.
tật là do rối loạn hoá học trong cơ thể.




Đến thế kỷ 18 - 19:
Đến thế kỷ 18 - 19:
Kính hiển vi đã ra đời và
Kính hiển vi đã ra đời và
ngày càng hoàn thiện, thuốc nhuộm TB cũng
ngày càng hoàn thiện, thuốc nhuộm TB cũng
được sử dụng rộng rãi trong NC hình thái vi
được sử dụng rộng rãi trong NC hình thái vi
thể, do đó nảy nở khái niệm giải phẫu cục bộ
thể, do đó nảy nở khái niệm giải phẫu cục bộ
về bệnh, NC về bệnh cảnh lâm sàng được so
về bệnh, NC về bệnh cảnh lâm sàng được so
sánh với tổn thương thấy được khi mổ khám

sánh với tổn thương thấy được khi mổ khám
xác chết.
xác chết.

Wirchov đã cho rằng nguyên nhân của bệnh là
Wirchov đã cho rằng nguyên nhân của bệnh là
do TTTB: bệnh sẽ chỉ xuất hiện tại các chỗ mà
do TTTB: bệnh sẽ chỉ xuất hiện tại các chỗ mà
tác nhân gây bệnh làm TTTB, theo ông thì
tác nhân gây bệnh làm TTTB, theo ông thì
không phải toàn bộ cơ thể phản ứng với các
không phải toàn bộ cơ thể phản ứng với các
yếu tố gây bệnh mà chỉ cục bộ các nhóm TB
yếu tố gây bệnh mà chỉ cục bộ các nhóm TB
tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh. Quan niệm
tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh. Quan niệm
này coi cơ thể đa bào chỉ là sự liên kết đơn
này coi cơ thể đa bào chỉ là sự liên kết đơn
thuần chứ không phải là một khối thống nhất
thuần chứ không phải là một khối thống nhất
toàn vẹn.
toàn vẹn.


Clot Becna (1865) nêu lên mối quan hệ khăng
Clot Becna (1865) nêu lên mối quan hệ khăng
khít giữa nội môi và ngoại môi. Ngoại môi luôn
khít giữa nội môi và ngoại môi. Ngoại môi luôn
luôn thay đổi nên để giữ cho nội môi không
luôn thay đổi nên để giữ cho nội môi không

thay đổi, cơ thể sống phải có hàng loạt các
thay đổi, cơ thể sống phải có hàng loạt các
chức năng bảo vệ và điều hoà, bệnh và chết
chức năng bảo vệ và điều hoà, bệnh và chết
chỉ là sự tan vỡ hoặc rối loạn cơ chế điều hoà
chỉ là sự tan vỡ hoặc rối loạn cơ chế điều hoà
đó.
đó.

Đến nửa sau của thế kỷ 19, nhờ những đóng
Đến nửa sau của thế kỷ 19, nhờ những đóng
góp to lớn của Pasteur (1821- 1895), Koch
góp to lớn của Pasteur (1821- 1895), Koch
(1843 - 1900), Metnhicop, Eclich (1854 - 1915),
(1843 - 1900), Metnhicop, Eclich (1854 - 1915),
tìm ra vai trò gây bệnh của nhiều loại vi sinh
tìm ra vai trò gây bệnh của nhiều loại vi sinh
vật.
vật.


Đến thể kỷ 20
Đến thể kỷ 20
- Thế kỷ của điện tử và cũng là thế kỷ
- Thế kỷ của điện tử và cũng là thế kỷ
của sinh học, các ngành sinh học phát triển mạnh mẽ
của sinh học, các ngành sinh học phát triển mạnh mẽ
như: di truyền học, MD học, sinh học phân tử nên
như: di truyền học, MD học, sinh học phân tử nên
cũng có rất nhiều khái niệm về bệnh.

cũng có rất nhiều khái niệm về bệnh.

Pavlov đưa ra học thuyết TK của bệnh. Theo thuyết
Pavlov đưa ra học thuyết TK của bệnh. Theo thuyết
này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất mà
này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất mà
trong đó hoạt động của TK cao cấp đóng một vai trò
trong đó hoạt động của TK cao cấp đóng một vai trò
quyết định khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội
quyết định khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội
môi) đối với những thay đổi của bên ngoài, theo
môi) đối với những thay đổi của bên ngoài, theo
Pavlov: trong mỗi bệnh có hai quá trình tồn tại song
Pavlov: trong mỗi bệnh có hai quá trình tồn tại song
song, quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại
song, quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại
bệnh lý; " Bệnh là do rối loạn hoạt động phản xạ của
bệnh lý; " Bệnh là do rối loạn hoạt động phản xạ của
hệ TK; rối loạn tương quan giữa những khu vực khác
hệ TK; rối loạn tương quan giữa những khu vực khác
nhau của hệ TK.", quan niệm này quá nhấn mạnh vai
nhau của hệ TK.", quan niệm này quá nhấn mạnh vai
trò của TKTW.
trò của TKTW.

Hans Selye cho rằng bệnh là sự rối loạn khả năng
Hans Selye cho rằng bệnh là sự rối loạn khả năng
thích nghi. Trong khi NC phản ứng không đặc hiệu của
thích nghi. Trong khi NC phản ứng không đặc hiệu của
cơ thể chống lại các tác nhân stress bên ngoài, Selye

cơ thể chống lại các tác nhân stress bên ngoài, Selye
nhận thấy bao giờ cơ thể cũng đáp ứng bằng sự thay
nhận thấy bao giờ cơ thể cũng đáp ứng bằng sự thay
đổi hoạt động của hệ nội tiết - thần kinh hạ não -
đổi hoạt động của hệ nội tiết - thần kinh hạ não -
thượng thận; kết quả là có sự đối kháng giữa 2 loại
thượng thận; kết quả là có sự đối kháng giữa 2 loại
hormon corticoit, loại thứ nhất tiết ra nhằm dồn
hormon corticoit, loại thứ nhất tiết ra nhằm dồn
nguyên liệu trong cơ thể tới chỗ bị đe doạ, nó ức chế
nguyên liệu trong cơ thể tới chỗ bị đe doạ, nó ức chế
quá trình viêm và quá trình phát triển tổ chức xơ, còn
quá trình viêm và quá trình phát triển tổ chức xơ, còn
loại thứ hai có tác dụng làm vết thương mau lành
loại thứ hai có tác dụng làm vết thương mau lành
bằng cách tăng sinh chất keo và phát triển TCLK.
bằng cách tăng sinh chất keo và phát triển TCLK.
Hai hệ thống này hoạt động cân bằng nhau nhằm bảo
Hai hệ thống này hoạt động cân bằng nhau nhằm bảo
vệ cơ thể, khi mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh - dạng
vệ cơ thể, khi mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh - dạng
bệnh thích nghi.
bệnh thích nghi.

Mỗi q
Mỗi q
uan điểm chỉ giải thích được cơ chế sinh
uan điểm chỉ giải thích được cơ chế sinh
bệnh của một nhóm bệnh mà thôi.
bệnh của một nhóm bệnh mà thôi.

Từ những quan niệm như vậy về sinh vật,
Từ những quan niệm như vậy về sinh vật,
chúng ta có thể nêu lên một khái niệm về bệnh
chúng ta có thể nêu lên một khái niệm về bệnh
một cách tương đối như sau:
một cách tương đối như sau:
" Bệnh là sự rối
" Bệnh là sự rối
loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật
loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật
do tác động của các yếu tố gây bệnh khác
do tác động của các yếu tố gây bệnh khác
nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp
nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp
giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện
giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện
tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng
tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng
thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh"
thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh"


1.2. Những điều cần chú trọng trong khái niệm
1.2. Những điều cần chú trọng trong khái niệm
về bệnh
về bệnh
Bệnh có TC một cân bằng mới kém bền vững
Bệnh có TC một cân bằng mới kém bền vững

Cơ thể sống là một cân bằng động. Khi có yếu tố gây

Cơ thể sống là một cân bằng động. Khi có yếu tố gây
bệnh tác động vào cơ thể thì cân bằng bị phá vỡ,
bệnh tác động vào cơ thể thì cân bằng bị phá vỡ,
nhưng lập tức cơ thể đó có phản ứng bảo vệ, sẽ có
nhưng lập tức cơ thể đó có phản ứng bảo vệ, sẽ có
những hoạt động nhằm khôi phục tình trạng cân bằng
những hoạt động nhằm khôi phục tình trạng cân bằng
bị nhiễu loạn bởi yếu tố ấy. Chính cuộc đấu tranh này
bị nhiễu loạn bởi yếu tố ấy. Chính cuộc đấu tranh này
tạo ra một cân bằng mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý,
tạo ra một cân bằng mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý,
phản ứng bảo vệ và các sản phẩm của chúng), nhưng
phản ứng bảo vệ và các sản phẩm của chúng), nhưng
cân bằng mới này không kéo dài, thường có xu hướng
cân bằng mới này không kéo dài, thường có xu hướng
phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, khi không
phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, khi không
thể phục hồi được thì tiến triển càng bất lợi cho cơ
thể phục hồi được thì tiến triển càng bất lợi cho cơ
thể, vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể dẫn đến tử
thể, vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể dẫn đến tử
vong. Đó cũng là tính kém bền vững của cân bằng
vong. Đó cũng là tính kém bền vững của cân bằng
mới. Như vậy: sống và chết; lành và bệnh là hai mặt
mới. Như vậy: sống và chết; lành và bệnh là hai mặt
của hiện tượng sinh học.
của hiện tượng sinh học.





Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể
Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể
Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại
Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại
đòi hỏi một tình trạng hằng định tương đối thì cơ thể
đòi hỏi một tình trạng hằng định tương đối thì cơ thể
luôn luôn phải tìm cách thích ứng với biến đổi của
luôn luôn phải tìm cách thích ứng với biến đổi của
ngoại cảnh. Trước những thay đổi mạnh mẽ của môi
ngoại cảnh. Trước những thay đổi mạnh mẽ của môi
trường bên ngoài, cơ thể phải vận dụng những cơ chế
trường bên ngoài, cơ thể phải vận dụng những cơ chế
thích ứng mạnh mẽ, thậm chí có thể dẫn đến một tình
thích ứng mạnh mẽ, thậm chí có thể dẫn đến một tình
trạng bệnh lý mà Selye đã coi như “bệnh thích nghi”.
trạng bệnh lý mà Selye đã coi như “bệnh thích nghi”.

Khi yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh lý, khả
Khi yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh lý, khả
năng thích nghi của cơ thể sống vẫn còn nhưng đã bị
năng thích nghi của cơ thể sống vẫn còn nhưng đã bị
hạn chế, Thí dụ khi sốt, khả năng điều hoà nhiệt của
hạn chế, Thí dụ khi sốt, khả năng điều hoà nhiệt của
cơ thể vẫn còn nhưng rất hạn chế chứ không thể như
cơ thể vẫn còn nhưng rất hạn chế chứ không thể như
cơ thể khoẻ mạnh. Trong công tác điều trị người thày
cơ thể khoẻ mạnh. Trong công tác điều trị người thày
thuốc phải tìm cách phát huy tối đa khả năng thích
thuốc phải tìm cách phát huy tối đa khả năng thích

nghi của cơ thể để mang lại hiệu quả điều trị cao.
nghi của cơ thể để mang lại hiệu quả điều trị cao.


II. KHÁI NI M V NGUYªN NHÂN B NHỆ Ề Ệ
II. KHÁI NI M V NGUYªN NHÂN B NHỆ Ề Ệ

Nguyên nhân bệnh học là môn khoa học
Nguyên nhân bệnh học là môn khoa học
nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh và điều
nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh và điều
kiện phát sinh ra bệnh. Việc nghiên cứu
kiện phát sinh ra bệnh. Việc nghiên cứu
nguyên nhân bệnh có ý nghĩa rất lớn trong
nguyên nhân bệnh có ý nghĩa rất lớn trong
công tác phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm.
công tác phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm.
Vì có nắm được nguyên nhân bệnh thì mới
Vì có nắm được nguyên nhân bệnh thì mới
định ra được phương pháp điều trị bệnh chính
định ra được phương pháp điều trị bệnh chính
xác và có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa sự
xác và có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa sự
xâm nhập của chúng vào cơ thể.
xâm nhập của chúng vào cơ thể.

2.1. M t s quan ni m sai l m v nguyªn ộ ố ệ ầ ề
2.1. M t s quan ni m sai l m v nguyªn ộ ố ệ ầ ề
nh©n b nh h cệ ọ
nh©n b nh h cệ ọ



Thuyết nguyên nhân đơn thuần
Thuyết nguyên nhân đơn thuần
cho rằng VK là
cho rằng VK là
nguyên nhân của mọi bệnh, cứ có VK là có
nguyên nhân của mọi bệnh, cứ có VK là có
bệnh, với thái độ cực đoan quá nhấn mạnh đến
bệnh, với thái độ cực đoan quá nhấn mạnh đến
vai trò gây bệnh của VK, thuyết này đã bỏ qua
vai trò gây bệnh của VK, thuyết này đã bỏ qua
vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố khác trong
vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố khác trong
quá trình phát sinh bệnh, cũng không quan
quá trình phát sinh bệnh, cũng không quan
tâm đến cơ chế bảo vệ của cơ thể. Trong thực
tâm đến cơ chế bảo vệ của cơ thể. Trong thực
tế hiện nay nhiều bệnh không phải do VK gây
tế hiện nay nhiều bệnh không phải do VK gây
ra và nhiều khi tiêm VK vào cơ thể cũng không
ra và nhiều khi tiêm VK vào cơ thể cũng không
gây được bệnh.
gây được bệnh.

Thuyết điều kiện đơn thuần
Thuyết điều kiện đơn thuần
cho rằng bệnh tật
cho rằng bệnh tật
là do kết quả tác động tổng hợp của một số

là do kết quả tác động tổng hợp của một số
điều kiện và những điều kiện đó có thể gây
điều kiện và những điều kiện đó có thể gây
bệnh mà không cần nguyên nhân bệnh đặc
bệnh mà không cần nguyên nhân bệnh đặc
hiệu.
hiệu.

Quan niệm này hoàn toàn sai lầm, vì các điều
Quan niệm này hoàn toàn sai lầm, vì các điều
kiện chỉ làm cho các quá trình phát sinh bệnh
kiện chỉ làm cho các quá trình phát sinh bệnh
dễ dàng hơn chứ không thể thay thế được
dễ dàng hơn chứ không thể thay thế được
nguyên nhân bệnh. Học thuyết này mang tính
nguyên nhân bệnh. Học thuyết này mang tính
tiêu cực, gây trở ngại cho công tác phòng trị
tiêu cực, gây trở ngại cho công tác phòng trị
bệnh.
bệnh.
Thuyết thể tạng
Thuyết thể tạng
cho rằng nguyên nhân bệnh
cho rằng nguyên nhân bệnh
không phải từ bên ngoài tới mà là do đặc điểm
không phải từ bên ngoài tới mà là do đặc điểm
của cơ thể, do thể tạng của con vật. Đây là
của cơ thể, do thể tạng của con vật. Đây là
quan niệm của thuyết di truyền máy móc, nó
quan niệm của thuyết di truyền máy móc, nó

không đề cập tới các yếu tố ngoại cảnh, như
không đề cập tới các yếu tố ngoại cảnh, như
vậy nó chống lại khâu vệ sinh phòng bệnh
vậy nó chống lại khâu vệ sinh phòng bệnh
nhằm ngăn ngừa bệnh tật.
nhằm ngăn ngừa bệnh tật.


2.2. Quan ni m khoa h c v nguyªn nh©n ệ ọ ề
2.2. Quan ni m khoa h c v nguyªn nh©n ệ ọ ề
b nh h cệ ọ
b nh h cệ ọ
Quan niệm đúng đắn về nguyên nhân bệnh
Quan niệm đúng đắn về nguyên nhân bệnh
học phải nêu lên được mối quan hệ chặt chẽ
học phải nêu lên được mối quan hệ chặt chẽ
giữa nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh.
giữa nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh.

Nguyên nhân bệnh có vai trò quyết định và
Nguyên nhân bệnh có vai trò quyết định và
điều kiện thì phát huy tác dụng của nguyên
điều kiện thì phát huy tác dụng của nguyên
nhân bệnh. Nguyên nhân bệnh là yếu tố có hại,
nhân bệnh. Nguyên nhân bệnh là yếu tố có hại,
khi tác động lên cơ thể sẽ quyết định bệnh
khi tác động lên cơ thể sẽ quyết định bệnh
phát sinh và các đặc điểm phát triển của bệnh.
phát sinh và các đặc điểm phát triển của bệnh.
Yếu tố gây bệnh phải đạt tới một cường độ

Yếu tố gây bệnh phải đạt tới một cường độ
nhất định (độc lực, liều lượng ) mới gây bệnh
nhất định (độc lực, liều lượng ) mới gây bệnh
được.
được.




Như vậy, khi có nguyên nhân bệnh thì bệnh sẽ
Như vậy, khi có nguyên nhân bệnh thì bệnh sẽ
phát ra trong những điều kiện nhất định,
phát ra trong những điều kiện nhất định,
ngược lại, nếu có đầy đủ các điều kiện mà
ngược lại, nếu có đầy đủ các điều kiện mà
không có nguyên nhân bệnh thì bệnh cũng
không có nguyên nhân bệnh thì bệnh cũng
không thể phát ra được.
không thể phát ra được.

Trong những điều kiện nhất định thì nguyên
Trong những điều kiện nhất định thì nguyên
nhân bệnh có thể trở thành điều kiện gây
nhân bệnh có thể trở thành điều kiện gây
bệnh, thí dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân
bệnh, thí dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân
của bệnh suy dinh dưỡng, thiếu Vitamin là
của bệnh suy dinh dưỡng, thiếu Vitamin là
nguyên nhân của bệnh thiếu Vitamin, nhưng
nguyên nhân của bệnh thiếu Vitamin, nhưng

nó lại là điều kiện để con vật bị nhiễm khuẩn,
nó lại là điều kiện để con vật bị nhiễm khuẩn,
là điều kiện của các bệnh truyền nhiễm.
là điều kiện của các bệnh truyền nhiễm.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×