Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bài Tập Kinh Tế Vĩ Mô: Tìm hiểu việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.98 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VẬN TẢI BIỂN
∞©∞
BÀI TẬP LỚN
Môn: kinh tế vĩ mô I
Đề bài : Tìm hiểu việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế của
Việt Nam thời kì 2000-2005
Ngày giao đề : 7/11/2008
Ngày nộp bài : 30/11/2008
Họ và tên : Đàm Thị Vân Anh
Lớp : KTB48-ĐH2
Giáo viên hướng dẫn : T.s Nguyễn Thúy Hồng


Hải Phòng, tháng 11 năm 2008
1
1.Lời mở đầu
Ổn định, tăng trưởng kinh tế và phân phối công bằng là những
mục tiêu cơ bản được đặt ra trong suôt quá trính phát triển kinh tế của
một đất nước. Nền kinh tế ở điều kiện lạm phát hay suy thoái đều gây
ra những tác động không tốt, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người
dan. Vì vậy Chính phủ phải dùng các công cụ là các chính sách kinh
tế vĩ mo để tác dộng vào nền kinh tế hướng nền kinh tế đến trạng thái
ổn định. Bước sang thế kỉ 21, toàn cấu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng
và tác động đến tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia
ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác
và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của mỗi quốc
gia, dân tộc trong qúa trình phát triển. Tuy nhiên các cuộc chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
đọng can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn thường xuyên xảy ra ở nhiều nơi
với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp. Thế kỉ 21


đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng nhiều thách
thức. Nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập được hưởng
những cơ hội lớn nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức
không nhỏ. Vì vậy trong điều kiện hiện nay, những mụ tiêu đó càng
trở nên quan trọng dối với nền kinh tê nước ta . Một nền kinh tế ổn
định, bền vững thì mới có thể phát triển, tăng trưởng và mới có thể
chống lại những nguy cơ đe doạ khi chúng ta gia nhập sân khấu quốc
tế. Có thẻ nói ổn định là mục tiêu rất quan trọng đối với nền kinh tế
trong mọi thời kì. Trong từng giai đoạn và từng thời kì khác nhau do
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì việc thực hiện mục tiêu này cũng
khác nhau. Dưới đây ta sẽ đi tìm hiểu một số nét về việc thực hiện
mục tiêu ổn định trong thời kì 2000-2005. Đây là thời kì sau khi đất
nước trải qua một thời kì dài lạm phát, chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng châu Á năm 1997, kinh tế đất nước còn gặp rất nhiều
khó khăn. Sau hơn 10 năm đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp
2
sang kinh tế thị trường, kinh tế Việt Nam cũng đạt được một số thành
tựu đáng kể. Trong thời kì mở cửa, hội nhập, chính sách của CP có
những thay đổi nhất định so với thời kì trước đặc biệt là chính sách
kinh tế đối ngoại. Đối với nước ta một nước nghèo kém phát
triển,nông nghiệp lạc hậu, trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng-xã hội
còn thấp , nhưng có nhưng có những tiềm năng chưa được khai thác.
Để đảm bảo đường lối xây dựng đát nước theo định hướng XHCN
phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học và công
nghệ với nước ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp
bách. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu dưới đây tình hình kinh tế-xã hội, lí
do và cách thức thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại vì mục tiêu ổn
định kinh tế của CP.
2.Nội dung chính:
Chương 1: Lí thuyết về các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu

a. Giới thiệu môn học ,vị trí môn học trong chương trình đại học
- Kinh tế học:
3
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như
thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất hàng hoá và dịch vụ
thoả mãn nhu cầu của cá nhân và của cả xã hội .
Kinh tế học được phân thành 2 ngành: kinh tế học vĩ mô và kinh
tế học vi mô.
- Kinh tế học vĩ mô:
Kinh tế học vĩ mô là một bộ phận của khoa học kinh tế, nghiên
cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất
nước trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân của một đất nước
nghĩa là kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia
trước các vấn đề kinh tế cơ bản bao gồm: tăng trưởng, thất nghiệp,
lạm phát, xuất nhập khẩu, sự phân phối nguồn lực và thu nhập giữa
các thành viên trong nền kinh tế
Loại hình này tương phản với kinh tế học vi mô chỉ nghiên cứu
về cách ứng xử kinh tế của cá nhân người tiêu dùng, nhà máy, hoặc
một loại hình công nghiệp nào đó.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên
cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân
thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng
vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của
các biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến số này
trong ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta khảo sát mỗi biến số
này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài
hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình
thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.
Tăng trưởng, ổn định, phân phối công bằng và các chính sách
kinh tế vĩ mô để thực hiện những mục tiêu đó. Tổng cầu, tổng cung

và sản lượng cân bằng, mức giá chung. Thất nghiệp, lạm phát, và mối
quan hệ giữa chúng cũng được đề cập. Không chỉ nghiên cứu kinh tế
vĩ mô trong nền kinh tế đóng mà ngày nay để phù hợp với điều kiện
4
mới còn phải nghiên cứu trong điều kiện mở. Tất các vấn đề trên đều
được đề cập trong môn học kinh tế vĩ mô.
b. Phân tích các chức năng của chính phủ và các mục tiêu kinh
tế vĩ mô chủ yếu
• Chức năng của chính phủ:
- Hiệu quả:
+ Trong nền kinh tế thị trường (kttt) tự do cạnh tranh có những
doanh nghiệp(DN) có kĩ thuật tốt hơn sẽ tìm được cách để giảm thiểu
chi phí sản xuất,bán sản phẩm với giá thấp để cạnh tranh với DN
khác,dần dần loại bỏ các đối thủ ra khỏi thị truờng để trở thành nguời
bán duy nhất.Như vậy độc quyền đã xuất hiện,nó gây ra hiện tượng
mất khôgn do sức mạnh độc quyền ,do nhà độc quyền đặt giá cao và
hạn chế sản lượng. Để đảm hiệu lực của thị trường tự do cạnh tranh,
CP phải can thiệp bằng cách đề ra đạo luật chống độc quyền.
+ “Những tác động bên ngoài ”(ngoại ứng ,ngoại tác) do các
DN hoặc cá nhân gây ra nhưng không phải trả chi phí hoặc không
nhận đúng số tiền lẽ ra được hưởng,bao gồm: tác động tiêu cực (như ô
nhiếm môi trường…),tác động tích cực (như hành động bảo vẹ môi
trường …)
Để hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài thì CP phải đề
ra đạo luật chống ô nhiếm môi trường, chống khai thác đến cạn kiệt
tài nguyên khoáng sản
+ “Hàng hoá công cộng” là những loại hàng hoá mà mọi người
có thể sử dụng nhưng chi phí về vốn rất lớn hoặc không thể thu được
lợi nhuận nên các DN tư nhân không có động cơ sản xuất ví vậy CP
phải tham gia sản xuất hàng hoá công cộng và cung cấp cho xã hội

,mọi người sử dụng hàng hoá công cộng và trả tiền bằng cách nộp
thuế
- Công bằng
Trong nền kttt, hàng hoá được đặt vào tay những người có nhiều
tiền nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất. Vì vậy ngay cả trong
5
nền kttt hoạt động có hiệu quả vẫn có thể tồn tại sự bất bình đẳng về
mức sống và thu nhập. CP phải thực hiện chức năng công bằng bằng
cách đánh thuế (thuế luỹ tiến ) cụ thể là thuế thu nhập.
Thực chất của chức năng công bằng là CP lấy được một phần thu
nhập của những người có thu nhập cao rồi chuyển trả lại cho những
người có thu nhập thấp hơn dưới dạng trợ cấp.
- Ổn định
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy có những thời điểm nền kinh
tế phát đạt với tỉ lệ lạm phát tương đối cao nhưng cũng có thời điểm
nền kinh tế suy thoái nặng nề kèm theo tỉ lệ thất nghiệp ngày càng
tăng. Để ổn định nền kinh tế, CP phải thực hiện các chính sách kinh tế
vĩ mô phù hợp nhằm giữu được đà tăng trưởng và ổn định trật tự xã
hội
• Các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu
- Các mục tiêu tổng quát
Mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là đạt được sự ổn định trong ngắn
hạn, tăng trưởng nhanh trong dài hạn, và phân phối của cải một cách
công bằng
+Sự ổn định: là kết quả của việc giải quyết những vấn đề kinh
tế cấp bách như lạm phát, thất nghiệp
+ Tăng trưởng kinh tế: đòi hỏi giải quyết các vấn đề dài hạn
hơn liên quan đến sự phát triển kinh tế
+ Phân phối công bằng: là vấn đề nền kinh tế phải giải quyết
thường xuyên để đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng

- Các mục tiêu cụ thể:
+ sản lượng:
Trong ngắn hạn: đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với
sản lượng tiềm năng
Trong dài hạn: làm tăng sản lượng tiềm năng để đảm bảo tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và bền vững
+ Việc làm: tạo được nhiều việc làm có thu nhập cao
6
+ Ổn định giá cả: giữ được giá cả không tăng hoặc không giảm
quá nhanh trong điều kiện kinh tế tự do
+ Kinh tế đối ngoại : ổn định tỉ giá hối đoái, đạt được cân bằng
cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại
+ Phân phối công bằng: Một số nước coi mục tiêu này là một
trong các mục tiêu quan trọng
Nhận xét: Những mục tiêu trên thể hiện nền kinh tế ở trạng thái lí
tưởng trong đó sản lượng ở mức toàn dụng nhân công, không có lạm
phát, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng, tỉ giá hối đoái ổn định.
Trên thực tế các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có thế tối thiểu hoá các
sai lệch so với trạng thái lí tưởng.
Các cặp mục tiêu trên có thể bổ sung cũng có thể mâu thuẫn nên
trong quá trính thực hiện các mục tiêu người ta phải sắp xếp thứ tự ưu
tiên, nghĩa là lựa chọn một mục tiêu và chấp nhận hi sinh các mục tiêu
khác
Trong dài hạn, thứ tự ưu tiên các mục tiêu cũng khác nhau. ở các
nước kém phát triển thì mục tiêu ưu tiên hàng đầu là sản lượng và việc
làm.
Ví dụ: năm 1987, chỉ số lạm phát của VN là 700%
Chọn mục tiêu ổn định giá cả: CP thực hiện chính sách tiền tệ,
tăng lãi suất (12%/tháng). kết quả C giảm,I giảm dẫn đến tổng cầu AD
giảm làm cho giá giảm (kiểm soát được lạm phát) nhưng Q giảm

(kinh tế suy thoái)
Chọn mục tiêu sản lượng: CP thực hiện chính sách tiền tệ , giảm
lãi suất (giảm từ 10,4% xuống 0,5%). kết quả C tăng ,I tăng dấn đến
tổng cầu tăng, sản lượng tăng (kinh tế thoát khỏi suy thoái)
c.Trình bày các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm mục tiêu ổn định
và phương thức tác động của mỗi chính sách đối với nền kinh tế trong
điều kiện suy thoái và lạm phát.
• Chính sách tài khoá
7
- ĐN: chính sách tài khoá là việc CP dúng thuế khoá và chi tiêu
công cộng để tác động đến nền kinh tế hướng nền kinh tế đến mức sản
lượng và việc làm mong muốn
- Công cụ: chi tiêu chính phủ (G) và thuế (T)
- Đối tượng: Quy mô của chi tiêu công cộng ,chi tiêu của khu vực
tư nhân, sản lượng
- Mục tiêu:
Trong ngắn hạn: tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát
nhằm ổn định nền kinh tế.
Trong dài hạn: tác động đến sản lượng tiềm năng thông qua việc
làm thay đổi cơ cấu sản xuất nền kinh tế, hướng nền kinh tế đến sự
phát triển lâu dài.
- Phương thức tác động nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: tăng thuế và giảm chi tiêu CP
hoặcthựchiện đồng thời cả hai thì tổng cầu giảm dẫn đến sản lượng
giảm ,giágiảm và nền kinh tế thoát khỏi lạm phát
Trong nền kinh tế suy thoái: giảm thuế và tăng chi tiêu CP thì
tổng cầu tăng dẫn đến sản lượng tăng, tỉ lệ thất nghiệp giảm và nền
kinh tế thoát khỏi lạm phát
• Chính sách tiền tệ
- ĐN: là chính sách tác dộng đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh

tế tới mức sản lượng và việc làm mong muốn
- Công cụ: mức cung tiền (MS) và lãi suất (i)
- Đối tượng: đầu tư, chi tiêu của các hộ gia đình, tiết kiệm,tỷ giá
hối đoái
- Mục tiêu: giống chính sách tài khoá
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: tăng lãi suất, giảm mức cung tiền hoặc
thực hiện đồng thời cả hai sẽ làm tổng cầu giảm, sản lượng giảm, giá
giảm và nền kinh tế thoát khỏi lạm phát
8
Trong điều kiện suy thoái: giảm lãi suất và tăng mức cung tiền
hoặc thực hiện đồng thời cả hai sẽ làm tăng tổng cầu, tăng sản lượng ,
tỉ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế thoat khỏi suy thoái
• Chính sách thu nhập
- ĐN: bao gồm các biện pháp mà CP sử dụng nhằm tác động
trực tiếp đến tiền công, giá cả và để kiềm chế lạm phát
- Công cụ: tiền lương danh nghĩa (Wn)
- Đối tượng tác động: chi tiêu của các hộ gia đình và tổng cung
nhắn hạn
- Mục tiêu: để kiềm chế lạm phát
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: cố định tiền lương danh nghĩa trong
một thời kì để kiềm chế lạm phát
Chính sách này sử dụng nhiều lọai công cụ, từ các công cụ có
tính chất cứng rắn như giá, đồng lương, những chỉ dẫn chung để ấn
định tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi
giá cả và tiền lương… đến những công cụ mềm dẻo hơn như việc
hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập
VD : W tăng => Ctăng => AD tăng => Q tăng => thất nghiệp
giảm, P tăng.

Mặt khác, W tăng => SAS giảm => Q giảm => U tăng => P tăng.
Tóm lại W tăng => P tăng => để khắc phục phải cố định lương
trong 1 khoảng thời gian nào đó.
• Chính sách kinh tế đối ngoại
- ĐN: là chính sách nhằm ổn định tỉ giá hối đoái giữ cho thâm hụt
cán cân thanh toán quốc tế ở mức có thể chấp nhận được
- Công cụ: thuế quan, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái
- Đối tượng tác động: hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước
ngoài
9
- Mục tiêu: chống suy thoái và lạm phát, ổn định tỉ giá hối đoái
và các cân thanh toán quốc tế
- Phương thức tác động đến nền kinh tế:
Trong điều kiện lạm phát: giảm tỉ giá đòng nước ngoài sa với
đòng Việt Nam, tăng nhập siêu nhưng trong giới hạn cho phép…
Trong điều kiện suy thoái: tăng tỉ giá đồng nước ngoài so với
đồng Việt Nam, giảm nhập siêu…
VD: để chống suy thoái, quyết định phá giá đồng Việt Nam => e
giảm => X tăng, IM giảm => xuất khẩu ròng : NX tăng => X tăng ,
IM giảm => AD tăng => Q tăng, U giảm, P tăng.
Để chống lạm phát, quyết định tăng giá đồng Việt Nam => e tăng
=> X giảm, IM tăng => NX giảm => AD giảm => Q giảm, U tăng, P
giảm.
d. Phân tích cú sốc cầu và cú sốc cung để rút ra bản chất của
kinh tế và các chính sách thích ứng
 Cú sốc cầu
- ĐN: cú sốc cầu là sự thay đổi tổng cầu một cách đột biến do các
tác nhân bên trong và bên ngoài hệ thống kinh tế gây ra
Giả sử nền kinh tế đang cân bằng ổn định tại E tương ứng với
mức sản lượng Q

o
và mức giá chung P
o
như hình vẽ:
10
• Cú sốc làm tăng tổng cầu
Giả sử các tác nhân kinh tế lạc quan hơn về sự phát triển kinh tế,
quy định chỉ tiêu nhiều hơn làm tổng cầu tăng nhanh. Đường tổng cầu
dịch chuyển sang phải từ AD sang AD
1
xác lập điểm cân bằng mới E
1
tương ứng với mức sản lượng cân bằng Q
1
và mức giá chung P
1
đều
tăng tạo nên cú sốc cầu
Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ thắt chặt để ổn
định lại kinh tế. Chính sách tài khoá (giảm chi tiêu ,tăng thuế hoặc
thực hiện đồng thời cả hai ). Chính sách tiền tệ (tăng lãi suất,giảm
mức cung tiền hoặc đồng thời cả hai )
Kết quả tổng cầu giảm, đường tổng cầu AD
1
dịch chuyển về AD ,
khôi phục điểm cân bằng E ,Q
o
,P
o
• Cú sốc làm giảm tổng cầu

Giả sử các tác nhân kinh tế bi quan về sự phát triển và kinh tế và
quyết định cắt giảm các khoản chi tiêu làm cho tổng cầu giảm. Đường
tổng cầu dịch chuyển sang trái từ AD sang AD
2
xác lập điểm cân bằng
mới E
2
tương ứng với P
2
và Q
2
đề giảm
Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới
lỏng hay mở rộng.Chính sách tài khoá (tăng chi tiêu, giảm thuế hoặc
P
Q
AS
LR
AS
SR
AD
1
AD
AD
1
0
Q
2
Q
0

Q
1
E
1
E
E
2
P
1
P
0
P
2
11
đồng thời cả hai. Chính sách tiền tệ (giảm lãi suất, tăng mức cung tiền
hoặc đồng thời cả hai)
Kết quả là tổng cầu tăng dần, đường tổng cầu AD
2
dịch chuyển
dần trở về AD, xác lập lại điểm cân bằng E, Q
o
, P
o
 cú sốc cung
- ĐN: cú sốc cung là sự thay đổi đột biến của tổng cung do các
nguyên nhân bên trong và bên ngoài hệ thống gây ra, thường do sự
thay đổi giá của các yếu tổ sản xuất
giả sử nền kinh tế đang cân bằng ổn định tại E tương ứng với
mức giá chung P
o

và mức sản lượng Q
o
• cú sốc cung có lợi: là cú sốc cung làm tăng tổng cung
• cú sốc cung bất lợi: là cú sốc cung làm giảm tổng cầu
Giả sử giá dầu thế giới tăng làm cho chi phí sản xuất tăng dẫn
đến tổng cung ngắn hạn giảm, dịch chuyển sang trái từ AS
SR
sang
AS
SR1
xác lập điểm cân bằng mới E
1
tương ứng với mức giá chung P
1
và mức sản lượng chung Q
1
< Q
o
và P
1
>P
o
, nền kinh tế suy thoái và
lạm phát.
P
Q
12
Nếu CP chọn mục tiêu sản lượng thì sử dụng chính sách tài
khoá và tiền tệ mở rộng. Kết quả tăng sản lượng,Q
1

tiến dần về mức
sản lượng tiềm năng Q
o
, đường cầu dịch chuyển sang phải từ AD

sang
AD
1
,xác lập cị trí cân bằng mới E
2
giải quyết được vấn đề sản lượng
nhưng giá P
2
>P
1
dẫn đến lạm phát hơn
Nếu CP chọn mục tiêu ổn định giá cả thì sủ dụng chính sách
tài khoá và tiền tệ thắt chặt. Kết quả giảm giá P
1
về P
o,
tổng cầu dịch
chuyển sang trái từ AD sang AD
2
, xác lập vị trí cân bằng mới E
3
giải
quyết được vấn đề ổn định giá cả nhưng Q
2
< Q

1
, nền kinh tế càng suy
thoái.
Vậy khi nền kinh tế gặp cú sốc cung bất lợi thì xảy ra hiện
tượng suy thoái kèm theo lạm phát, các nhà hoạch định chính sách
không thể dịch chuyển đường tổng cầu theo hường triệt tiêu sự sụt
giảm của sản lượng và sự gia tăng của mức giá.
Tóm lại: Những biến động của nền kinh tế có thể coi là những
dao động ngắn hạn xung quanh đường xu hướng trong dài hạn. Nền
kinh tế có thể bị tác động của nhiều cú sốc.Các cú sốc như vậy có thể
tạo ra những biến động không hiệu quả. Do đó CP có thể sử dụng các
chính sách ổn định để chống lại chu kì kinh doanh.
Chương 2: Đánh giá việc thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại
của mục tiêu ổn định kinh tế của Việt Nam thời kì 2000-2005.
a.Nhận xét chung tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam để đưa
ra lí do phải thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam còn nhiều mặt yếu kém, đã trải qua
hầu hết các loại lạm phát như lạm phát phi mã trong thời kỳ 1986-
1988 với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 463,9%/năm; lạm phát cao
trong thời kỳ 1989 - 1992, với tỷ lệ lạm phát bình quân năm tương
ứng là 46,7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ 1996 - 1999 và 2001 -
13
2003 với tỷ lệ lạm phát tương ứng là 4,4%/năm và 4,3%/năm; thậm
chí là giảm phát trong năm 2000 (-0,6%).
Năm 2000 là năm đầu tiên Hiệp định Thương mại Song phương Việt-
Mỹ vừa mới được ký kết (tháng 7/2000), cho nên được hy vọng là sẽ tạo ra “cú
hích” đẩy nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc nhờ hai nguồn động lực. Đó
trước hết là xuất khẩu sẽ tăng đột biến nhờ thị trường nhập khẩu có thể ví như
“chiếc thùng không đáy” so với năng lực xuất khẩu cực kỳ nhỏ của nước ta (kim

ngạch xuất khẩu của nước ta ở thời điều này chỉ bằng 1,12% kim ngạch xuất khẩu
của Mỹ).
Tiếp theo, đó là chỉ cần một phần rất nhỏ trong nguồn vốn
đầu tư cũng cực kỳ lớn của “người khổng lồ” này cũng có thể khiến
nền kinh tế nước ta tăng tốc. Mục tiêu tăng trưởng vượt bậc 7,5% năm
2001 của các nhà quản lý sau khi nền kinh tế thoát khỏi tình trạng liên
tục “tụt dốc” do những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu
vực đạt được tốc độ phát triển ngoạn mục 6,79% năm 2000 có lẽ
không ngoài ý tưởng nắm bắt thời cơ này để “thừa thắng xông lên”.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự kiện ngày 11/9 đúng vào lúc nền kinh tế
thế giới đang trên đà giảm tốc chính là “thủ phạm chính” khiến cho
mục tiêu này đã không trở thành hiện thực.
Trước hết, các số liệu thống kê xuất khẩu hàng hoá của
nước ta cho thấy, tính đến hết tháng 8/2001, tốc độ tăng của đầu ra
này vẫn còn đạt 11,5% và với “tập quán đủng đỉnh” trong những
tháng đầu năm, để rồi tăng tốc vào những tháng cuối năm, chúng ta có
thể hy vọng đạt được mục tiêu tăng 16% cả năm, nhưng ngay trong
tháng 9, tốc độ tăng xuất khẩu đã bắt đầu “rơi tự do” và cứ sau mỗi
tháng lại “tụt dốc” thêm một bậc.
Hiển nhiên, tuy thị trường Mỹ khổng lồ nhất thế giới, nhưng
ở thời điểm này, tác động trực tiếp của nó đối với việc xuất khẩu của
nước ta “rơi tự do” như vậy là rất nhỏ, bởi hai lẽ. Trước hết, xét về
quy mô, kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ năm
2001 chỉ mới đạt 1,065 tỷ USD và chỉ chiếm 7,09% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
14
Những điều đó có nghĩa là, những tác động gián tiếp của sự
kiện 11/9 đến sự “tụt dốc” của “đoàn tàu xuất khẩu” nước ta mới là
chủ yếu. Bởi lẽ, trong khi kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang thị
trường Mỹ tăng phi mã như vậy, thì xuất khẩu sang hầu như tất cả các

thị trường khác, trước hết là các thị trường chủ yếu ở khu vực châu Á,
hoặc là giảm, hoặc “giậm chân tại chỗ hoặc chỉ giảm nhẹ. Sở dĩ như vậy là do
xuất khẩu của hầu hết các quốc gia này cũng có “đích đến” rất quan trọng là thị
trường Mỹ, và một khi “đích đến” này bị thu nhỏ, tất yếu sẽ gây ra tình trạng trì
trệ dây chuyền. Việc tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm 2000 tăng phi mã
13,28%, nhưng năm 2001 đột ngột giảm 3,86%, còn thị trường Mỹ chiếm tới 19-
19,5%, “rổ hàng hoá nhập khẩu” này thì cặp số liệu tương ứng là 18,74% và
-6,15% cho thấy rất rõ điều đó.
Bên cạnh đó, khoảng thời gian hơn một năm cũng là quá ngắn để
các nhà đầu tư Mỹ có thể tăng vốn đầu tư vào thị trường nước ta.
Bằng chứng là, sau khi sự kiện 11/9 khiến cả thế giới rung
chuyển đã diễn ra được gần 3 tuần lễ, nhưng dựa trên tốc độ xuất khẩu
ước thực hiện 10,5% của 9 tháng, Tổng cục Thống kê vẫn cho rằng sẽ
không diễn ra các bước “tụt dốc” nói trên, cho nên đã dự báo cả năm
2001 đạt 16 tỷ USD, tương ứng với tốc độ tăng “không tưởng” 10,7%,
nhưng thực tế chỉ đạt xấp xỉ 3,8% và đây cũng là một căn cứ rất quan
trọng để đưa ra một dự báo “không tưởng” khác là tốc độ tăng GDP
cả năm sẽ đạt 7,1% (thực tế chỉ đạt 6,89%), bởi khoản kim ngạch xuất
khẩu bị “hụt” so với dự báo gần 1 tỷ USD, tương ứng với 3,05% GDP
của năm này.
Trong khi đó, cảnh báo về tác động dây chuyền khiến tốc độ xuất
khẩu của nước ta “rơi tự do” dẫn đến sự giảm tốc của nền kinh tế thì
bị coi là “lạc lõng”, là dự báo bi quan.
Ước tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 4 năm 2001-2004 (tính
theo giá 2000) khoảng 731.000 tỷ đồng, đạt khoảng 88% kế hoạch 5
năm đề ra. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm
21,9%; vốn tín dụng đầu tư của nhà nước chiếm 14,7%, vốn đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước chiếm 17,7%; vốn đầu tư của tư nhân và
15
dân cư chiếm 25,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,3%.

Trong 4 năm 2001-2004 cam kết ODA dự kiến đạt khoảng 10,5tỷ
USD; giải ngân ODA ước đạt khoảng 6,2 tỷ USD.
Các quan sát viên kinh tế thế giới đã nhìn thấy những dấu hiệu từ
cuối năm 2000 về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu, mà chủ yếu là
do kinh tế Mỹ tăng chậm lại đáng kể, những quan ngại về sự phục hồi
trong kinh tế Nhật Bản, viễn cảnh tăng trưởng ở mức vừa phải của
châu Âu, và khả năng suy giảm tăng trưởng ở một số nền kinh tế mới
nổi, đặc biệt là những nền kinh tế có mối liên hệ mật thiết với công
nghệ và viễn thông toàn cầu, sau cuộc sụt giá nặng nề của các cổ
phiếu trong ngành công nghệ thông tin và viễn thông từ tháng 3-2000,
nhất là sau biến cố khủng bố tại Mỹ vào ngày 11-9-2001. Do đó, mức
tăng trưởng cho nền kinh tế thế giới năm 2001 đã liên tục được ước
lượng thấp đi, từ 3,4% (ước lượng tháng 4-2001 bởi IMF) xuống chỉ
còn 2,4% vì ảnh hưởng của khủng bố, theo tính toán sau cùng (tháng
12-2001) của IMF, so với mức tăng của năm 2000 là 5%, và năm
1998 với khủng hoảng tài chính châu Á là 6%.
Trong nước, vấn đề ngoại thương còn nhiều yếu kém:quy mô còn
nhỏ bé, cơ cấu xuất khẩu lạc hậu, thị trường bấp bênh, nhiều doanh
nghiệp chưa giữ được chữ tín với doanh nghiệp nước ngoài, công tác
quản lí còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó phải nói đến chất lượng các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém .
Về tình hình thiên tai; lũ lụt đặc biệt ở các tỉnh miền Trung năm
nào cũng gây ra những mất mát rất lớn về tính mạng và tài sản cho
nhân dân nơi đây. Các đợt nắng nóng ở miền Bắc làm ảnh hưởng đến
sản lượng lúa, ảnh hưởng đến đới sống nông dân.
Tóm lại: nền kinh tế việt nam trong giai đoạn này tuy có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn các giai đoạn trước nhưng cũng có nhiều khó
khăn cần khắc phục. Lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn còn ảnh hưởng
đén nền kinh tế, nền kinh tế vẫn còn yếu kém, đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn. Hơn nữa đây là giai đoạn chịu nhiều ảnh hưởng của

16
tình hình thế giới, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế ngoại thương thì càng
chịu nhiều ảnh hưởng do các đối tác nước ngoài của chúng ta rơi vào
khó khăn. Vì có những bất ổn về kinh tế như vậy, CP Việt Nam phải
kịp thời đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt chính sách kinh
tế đối ngoại trong giai đoạn này là rất cần thiết để vừa giữ gìn sự ổn
định của nền kinh tế vừa thực hiện mục tiêu tăng trưởng, vừa hội
nhập, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế vừa bảo vệ nền kinh tế nước
nhà trước những cơn biến động của thế giới.
b. Thu thập các thông tin về các chính sách mà CP Việt Nam sử
dụng để ổn định nền kinh tế và phân tích kết quả thực tế thu được
• Các chính sách mà CP Việt Nam sử dụng:
- Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kì hội nhập:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ ,rộng mở,đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế ,chủ động hội nhập quốc tế với
phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”. Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh
nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Tỷ giá hối đoái:
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng
cơ chế tỷ giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo
hướng ngày càng linh hoạt hơn. NHNN đang thực thi lộ trình linh
hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ
các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất
(tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các
ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần
chứng từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004).

17
Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn đô la Mỹ và
tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn
(tháng 6-2005). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều
chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá
thả nổi hoàn toàn (independent floating ). Rõ ràng trong điều hành
chính sách tỷ giá, NHNN luôn coi trọng tính thị trường, đã cung ứng
cho thị trường nhiều công cụ để xác lập tỷ giá cân bằng. Điều này
chứng minh rằng NHNN không hề có ý định và cũng không thể “ém”
tỷ giá như một số nhận định. Hiệu quả điều hành chính sách suy cho
cùng là những hệ quả mà chính sách đó mang lại: thị trường ngoại hối
ổn định, cán cân thương mại được cải thiện, dự trữ quốc tế ròng tăng
mạnh là những vấn đề cần được tham chiếu khi đánh giá chính sách
tỷ giá. Có thể nói trong “dung dịch thả nổi có điều tiết” của cơ chế tỷ
giá đã lựa chọn thì “nồng độ thả nổi” ngày càng tăng lên và vai trò
“điều tiết” đích thực của NHNN chỉ là tạo điều kiện cho thị trường có
được một kỳ vọng hợp lý.
Việt Nam đã ổn định được VND so với đồng USD bằng cách áp
dụng chính sách tỷ giá hối đoái giới hạn biên độ giao dịch, theo đó,
VND được phép dao động trong một biên độ hẹp. Việt Nam cũng duy
trì kiểm soát giá cả đối với các mặt hàng chủ chốt và thuế quan. Nhờ
vào chính sách như vậy mà nền kinh tế Việt Nam đã có được sự ổn
định về mặt giá cả trong thời gian dài.
Tỷ giá VND/USD hàng ngày được xác định bằng cách cho
phép tỷ giá liên ngân hàng cố định trong ngày hôm trước được dao
động trong biên độ tối đa +/- 0.25%. Cơ chế này có thể được coi là
“thả nổi có quản lý” và trong những tháng gần đây nó đã đòi hỏi phải
can thiệp nhiều hơn.Mặc dù vậy, dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng trong
vòng vài tháng qua.
- Xuất nhập khẩu:

18
Nhà nước dảm bảo tín dụng xuất khẩu : là hình thức khuyến
khích xuất khẩu bằng cách nhà nước đứng ra lập các quỹ bảo hiểm
xuất khẩu, quỹ này thực hiẹn đảm bảo gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm
mà các nhà xuất khẩu bán hàng hóa cho nước ngoài với phương thức
thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. hình thức này hiện nay
được thực hiện khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới để mở rộng
xuất khẩu thâm nhập thị trường mới. đặc biệt xuất khẩu thiết bị máy
móc thời hạn bảo đảm tín dụng có khi tới 15 năm hoặc 20 năm.
Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu.:mở rộng xuất khẩu bằng
cách nhà nước cho nước ngoài vay vốn với quy mô lớn ( lãi suất ưu
đãi ) để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay.
nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước và việc cho vay
thường kem theo các điều kiện chính trị và kinh tế có lợi cho nước
cho vay.
+ ) trợ cấp xuất khẩu : khuyến khích xuất khẩu bằng cách nhà
nước dành sự ưu đãi về mặt tài chính cho nhà xuất khẩu thông qua trợ
cấp trực tiếp hoặc gián tiếp.
+) bán phá giá hàng hóa : chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu bằng
cách bán hàng theo giá rẻ hơn giá cả cầu thị trường thế giới. nhiều
trường hợp giá bán hàng xuất khẩu còn thấp hơn gía trị thực của hàng
hóa. Đây là hình thức đánh bại đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước
ngoài. về lâu dài có thể thu được lợi nhuận tối đa nhưng trước mắt lợi
nhuận bị giảm hoặc thua lỗ. nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện bán
phá giá sản phẩm xuất khẩu là nguồn ngân sách nhà nước tài trợ.
+) bán phá giá hối đoái.
Bán phá gía hối đoái thể hiện việc xúat khẩu hàng hóa với giá
thấp hơn giá cả đối thủ cạnh tranh do sử dụng lợi nhuận phụ thu thêm
được do sự mất gía của đồng tiền. khác với bán phá giá hàng hóa,
trong phá giá hối đoái

+) miễn giảm thuế và hoàn thuế.
Chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng
có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu;
góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước
trong khu vực.
Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm
xuất khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế
biến sâu bằng công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng
xuất khẩu sử dụng nguyên, vật liệu chất lượng cao trong nước với
19
công nghệ mới; cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở nuôi, trồng, sử dụng
các loại giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và công nghệ chế
biến thích hợp đi đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường; phải có
quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm; quy trình quản
lý sản xuất phải được tổ chức lại một cách khoa học và tiết kiệm nhất;
từng bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng
hóa xuất khẩu với nhãn hiệu ''sản xuất tại Việt Nam''.
Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng
của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã
hàng hoá. Mỗi loại hàng hóa phải hình thành được các thị trường
chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng
thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ buôn bán; phải có đối sách cụ thể
với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các thị
trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để
duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở châu á,
đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào
các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập, tăng dần

tỷ trọng xuất khẩu vào các thị trường Đông Âu, Nga, SNG và khu vực
châu Mỹ, châu Phi.
Hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất
được và sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế; tăng
cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn và có khả
năng đầu tư hiệu quả như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản
- Hạn ngạch, thuế quan:
Bộ Thương mại thực hiện phân bổ các hạn ngạch đối với các
mặt hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp đặc biệt là ngành dệt may.
Đây cũng là biện pháp nhằm sử dụng có hiệu quả tối đa nguồn hạn
20
ngạch và tăng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, bộ thương mại quyết
dịnh bổ sung các hạn ngạch cho ngành dệt may Việt Nam để giảm
tình trạng doanh nghiệp muốn xuất khẩu nhưng lại thiếu quota.
Tóm lại: Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
• Kết quả:
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, kinh tế đối ngoại có bước
tiến lớn, đạt được những kết quả rất quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày
càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đang
tích cực đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Đến năm 2005, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 221
nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương với
các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối
ngoại.

Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt
khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt
hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm. Tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập
siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng
giảm dần.
21
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ
trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000
xuống còn 36% năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29%
xuống 24%; hàng công nghiệp nhập và tiểu thủ công nghiệp tăng từ
38,8% lên 39,8%.
Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới với những thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất
khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang những nền
kinh tế lớn. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất
khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất
về hạt tiêu.
Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, tăng
trưởng GDP bình quân 4 năm 2001-2004 khoảng 7,2% (năm 2001
tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,3%, năm 2004 tăng
7,6%)…
- Tổng quan kinh tế : Việc áp dụng các chính sách kinh tế đối
ngoại cùng với các chính sách tài khóa và tiền tệ, đến cuối năm 2005
nền kinh tế nước ta đã giành được một số thành tựu :

Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được những
nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc (tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có
thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân hoá giầu nghèo
thấp).

Dưới đây là bảng tổng kết giai đoạn 2000-2005:
Tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu và tốc độ tăng bình quân hàng năm
(Triệu USD)
22
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Xuất khẩu 7032 17156 51825 110830
Chỉ số phát triển 5 năm (%) 130.7 119.3 122.1 117.9
Tốc độ tăng bình quân năm
(%)
28.0 17.8 21.6 17.5
Nhập khẩu 12685 22784 61615 130151
Chỉ số phát triển 5 năm (%) 108.5 127.3 115.0 119.1
Tốc độ tăng bình quân năm
(%)
.2 24.3 13.9 18.8
Cán cân Thương mại -5653 -5628 -9789 -19321
Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu (Triệu USD)
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tổng số 19716.7 39940.2 113438.8 240981.8
Châu Á 4116.6 28597.8 80985.0 159808.9
Tỷ trọng (%) 20.9 71.6 71.4 66.3
Trong đó: Đông Nam Á 1449.7 10898.5 28319.5 49490.5
Tỷ trọng (%) 7.4 27.3 25.0 20.5
Châu Âu 12870.8 6600.1 20683.6 40274.9
Tỷ trọng (%) 65.3 16.5 18.2 16.7

Trong đó: Đông Âu 11249.2 2053.8 13901.4 13617.6
Tỷ trọng (%) 57.1 5.1 12.3 5.7
Châu Mỹ 120.8 758.9 4952.2 26844.1
Tỷ trọng (%) 0.6 1.9 4.4 11.1
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế:
Về đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế: công tác quản lí yếu
kém, công tác quy hoạch còn chậm …Việc sử dụng ngoại hối, vốn
đầu tư từ nước ngoài có khối lượng lớn nhưng chưa được sử dụng hợp
lí và chưa đạt được hết hiệu quả của dòng vốn khổng lồ này.
23
c. Trình bày ý kiến và quan điểm của mình về cách thức ổn định
nền kinh tế mà CP đã thực hiện.
Chính sách đối ngoại trong thời kì hội nhập đã phát huy tác dụng
của nó. Mở rộng quan hệ kinh tế ra nước ngoài có lợi cho việc tiếp
nhận kĩ thuật tiên tiến làm cho năng suất lao động tăng lên ,thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư ,phát triển kinh tế hạ tầng, góp phần
thực hiện công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa của đất nước . Mở
rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới sẽ tạo thị trường cho
hàng hóa Việt Nam từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều
việc làm cho người lao động , giải quyết vấn đề việc làm. Như vậy các
chính sách của CP nhằm mở rộng quan hệ hợp tác, tạo môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa ra nước
ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam… đã có những
hiệu quả nhất định, những thành công ban đầu góp phần đạt được
mục tiêu ổn định nền kinh tế. Ta đa cơ bản hoàn thành được kế hoạch
năm năm 2001-2005, tuy vậy vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.
Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị cho việc gia nhập WTO của VN vào
năm 2006. Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại đã làm nâng cao vị
thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. tạo tiền đề cho nước
ta gia nhập WTO.

3. Kết luận
Mục tiêu ổn định không chỉ là mục tiêu trong giai đoạn
2000-2005 mà còn là mục tiêu lâu dài của CP trong tất cả các giai
đoạn kinh tế. Khi thực hiện mục tiêu ổn định cần cân nhắc với mục
tiêu tăng trưởng. Ổn định kinh tế phải tạo điều kiện cho tăng trưởng
và ngược lại từ đó bảo đảm phân phối công bằng cho xã hội Qua
24
nghiên cứu chính sách kinh tế đối ngoại để thực hiện mục tiêu ổn định
trong giai đoạn này ta thấy được vai trò quan trọng của chính sách
này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế đối ngoại là
một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế,
xây dựng kinh tế thị trướng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên để thực hiện được mục tiêu ổn định, cần kết hợp chính sách
kinh tế đối ngoại với các chính sách về tài khóa và tiền tệ và áp dụng
từng chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh từng thời kì. Hiện nay VN
đã gia nhập WTO, trở thành viên của thành viên không thường trực
của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, Viẹt Nam đã nâng cao vị thế
của mình trên trường quốc tế. Trong hơn 20 năm thực hiện đổi mới ,
Việ Nam đã dành được những thành tựu nhất định về tăng trưởng kinh
tế, nâng cao đời sống nhân dân. Đất nước ta từ nền kinh tế bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường, từ một nước nghèo, lạc hậu, thiếu
ăn nay đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn . Việt Nam với nhiều
tiềm năng đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Đất
nước trên đà phát triển, đời sốgn của nhân dân đã được cải thiện…Tất
cả những điều đó đã chứng tỏ sự sáng suôt và kịp thời của CP trong
viêc điều hành nền kinh tế vĩ mô bằng các chính sách kinh tế.
25

×