Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

đề tài: đeQuan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.75 KB, 19 trang )

Tiểu luận Triết học

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài
: Quan điểm lịch sử cụ thể với
công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam
1
Tiểu luận Triết học
MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
NỘI DUNG 3
I. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ 3
1- Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 3
2- Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể. 3
3- Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình
xây dựng nền KTTT định hướng xhcn ở Việt Nam.
4
II.Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN
dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
5
1-Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây
dựng nền KTTT định hướng XHCN.
5
2- Thực trạng xây dựng nền KTTT 8
III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo
định hướng XHCN.
12
KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
1


Tiểu luận Triết học
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có
những bước tiến quan trọng trong công cuộc trinh phục thế giới.
Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và
trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài
người lên một tầm cao mới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó,
Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính
đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một
thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề
của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế.
So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn
yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của
nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng
có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các
mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy
việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin
vào qúa trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết.
Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới
kinh tế ở Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được
hướng đi đúng đắn. Vì vậy, trong bài viết tiểu luận triết học của
mình em đã chọn đề tài: “Quan điểm lịch sử cụ thể với công
cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
1
Tiểu luận Triết học
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp sẽ không tránh khỏi nhiều
sai xót. Do vậy, em kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của

các thầy cô trong khoa để bà viết của em có kết quả tốt hơn.
Hà Nội, tháng 3 năm 2005
Sinh viên: Đỗ Hoàng Anh Tuấn
2
Tiểu luận Triết học
B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ
1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật
hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều
kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất,
đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì
tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay
đổi hòan toàn bản chất của sự vật.
2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải
đặt nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó,
phải phân tích xem những điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng
như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải
phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật, hiện
tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa
học nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm
nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn
3
Tiểu luận Triết học

chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác
dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn
phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng
XHCN cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một
dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin.
Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam cũng tồn
tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý, quy luật của
triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không
gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng
của Đảng ta và nhân dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn
chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh
tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý kinh
tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT
năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm.
Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền
4
Tiểu luận Triết học
KTTT là quá muộn so với các nước trên thế giới và khu vực khi
mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu, đã tiến hành cơ chế
thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng
triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế -

xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh
hành chính, văn minh công cộng, con người nhậy cảm tinh tế với
khả năng sáng tạo và có cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến
tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày
càng lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã
hội Tuy nhiên, là nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có cơ
hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại mà trước
hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ những khuyết tật của
nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan
điểm lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
II. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a. Những điều kiện trong nước
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế
của nước ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế
5
Tiểu luận Triết học
Việt Nam năm trước đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm
không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài rất lớn. Thu
nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90%
thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên
ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài
lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh
tế rơi vào tình trạng khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở
mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô

phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém
kéo dài đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém
với nền KH - CN, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy
móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong
chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều
vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự
phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc
điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và
phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và
Đông Nam Á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của
giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều
loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải
biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố
không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và
6
Tiểu luận Triết học
thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai
thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các
vùng. Về dân số, nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào
nhưng phân bố cũng không đồng đều.
Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh
tế quyết định chính trị “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện
để thực hiện mục đích kinh tế.” Lênin đã chỉ rõ: “để thoả mãn
những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng

làm phương tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin không có
nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị
mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế. Vấn
đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem
xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy
chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất
biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống
nhất đất nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường
XHCN - đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì
không qua giai đoạn TBCN, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và
bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững
mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu của
công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu
7
Tiểu luận Triết học
tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước
Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng và
nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế
lực phản động không ngừng tìm cách phá hoại, lật đổ chế độ
CNXH ở nước ta.
b. Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn
nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác là xu thế chủ
đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến
vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật
liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá
cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động
quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay, không

một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế.
Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay
đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa
bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng
ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ
chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á),
WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU,
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông
Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có
nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới
8
Tiểu luận Triết học
trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực như
Singapore, Thái Lan, Inđônêsia đều đã tiến hành nền KTTT được
mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp
mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về
mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam
nhiều thách thức trong qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến
nền KTTT định hướng XHCN.
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
2.1 Giai đoạn 1986 - 1991
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do
chưa nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến
nền kinh tế nên ta đã có một số chính sách chưa đúng.
Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung
công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công
nghiệp nặng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất

nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi lúc này với xuất phát
điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, công nghệ còn quá lạc
hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học
tài giỏi.
Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công
nghiệp nhẹ. Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu
đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nông sản đa
9
Tiểu luận Triết học
dạng phong phú và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có thể phát triển
những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công nghiệp
chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng
trong giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất
lượng còn chưa tốt. Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có
sức cạnh tranh trên thị trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần
lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra thị
trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông
vận tải yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển
kinh tế phù hợp với từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào
tình trạng đầu tư phát triển kinh tế tràn lan, không tập trung, gây
nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề
đáng quan tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới
như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát
triển, chủ yếu vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân
của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở
hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa

có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và
tư bản Nhà nước phát triển.
10
Tiểu luận Triết học
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số
thành tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các
cơn sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi
nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước hẳn ra sự khủng
hoảng của những năm trước đổi mới.
2.2Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những
điều kiện, nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế
Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
và tương đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung
bình 3,9% thì đến giai đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ
cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn.
Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi
lĩnh vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tương đối
mạnh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho số
lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng được
cải tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới
nên hàng hoá đã đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế
thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu
nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng, Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường
lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng
11
Tiểu luận Triết học

định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào ưũy đạo cạnh
tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền KTTT của ta
chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh
hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước
trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ
vào năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế
giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, cần có nhiều biện pháp để
phát triển theo kịp các quốc gia khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến
bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các
giai đoạn phát triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được
áp dụng trên nhiều quốc gia. Nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng
cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và
luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn
bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng
có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác
động của chính nền KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại
hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng
và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam ngày càng
phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng chi tiết kịp thời
từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan
điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN Việt Nam.
12
Tiểu luận Triết học
III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định
hướng XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây
dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT

định hướng XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm hiểu các
yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những
mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn đề bức thiết.
Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài với những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản.
Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một hành lang pháp lý chung
cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một
sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong
nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng
đầu, từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú
trọng phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội
nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững
vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT
theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng
13
Tiểu luận Triết học
trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục
đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động.
Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng an
ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài
nước; Tích cực cải tạo xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham
nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm môi trường, giữ
vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận thức con
người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng

sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có
phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế
trong những năm tới.
14
Tiểu luận Triết học
C. KẾT LUẬN
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc
đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế
thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN
với những thành tựu hết sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm
về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ
tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản
xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu
kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ
trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP
năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1%
năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan hệ sản xuất được
điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản xuất. Số hộ
có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta
vẫn còn những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát
triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các
giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự
vận dụng đến sự vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT
hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những
sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có
thêm tự tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội

15
Tiểu luận Triết học
mới. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát
triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở
thành một nước công nghiệp phát triển trong tương lai không xa.
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SÁCH:
- Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm
1996.
- Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB
Chính trị quốc gia, 1997.
2. TẠP CHÍ:
- Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998.
- Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998.
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997.
- Cộng sản số 4 (2-2000).
- Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997.
- Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999.
- Triết học số 2 - 2001
Và một số tạp chí khác.
16
Tiểu luận Triết học

17

×