Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

kinh te nong lam ngu nghiep pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.72 KB, 14 trang )

BÀI TIỂU LUẬN: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHÀNH NÔNG, LÂM.
NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA, PHƯƠNG
HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TIẾP THEO
Sinh viên thực hiện:HOÀNG NGHĨA NAM
Lớp: Trắc địa A-K52
Giáo viên hướng dẫn:
Để đi sâu vào tìm hiểu về nghành nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt nam trong
những năm gần đây trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu qua về tổng quan nền
kinh tế Việt nam như sau:
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số đông, trong hơn 30 năm
qua đang phải phục hồi khỏi sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát chỗ dựa
về tài chính sau khi Liên bang Xô viết tan rã và sự cứng nhắc của nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung. Sau nhiều năm với các cuộc chiến tranh kéo dài,
trong hoàn cảnh bị cô lập về chính trị và trì trệ về kinh tế, Việt Nam đang
nhanh chóng hòa mình vào dòng chảy chung của kinh tế và chính trị thế
giới. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách Đổi Mới (cải
cách kinh tế), hướng tới một nền kinh tế thị trường. Trong môi trường tự do
đầu tư, những nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang thể hiện rõ sự quan
tâm chưa từng có đối với Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp. Khu vực
đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và đồng bằng sông Cửu Long ở miền
Nam là hai khu vực nông nghiệp chủ yếu với những nông sản chính bao gồm
gạo, hồ tiêu, đay, cao su, đường mía, cà phê, chè, cây họ lạc và thuốc lá.
Nhờ những cải cách lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, chẳng hạn việc áp dụng
hình thức khoán, cùng với sự tăng lên của đầu tư trực tiếp, các ưu đãi về
thuế và giá thu mua lương thực cao hơn từ Chính phủ, tổng sản lượng lương
thực gia tăng lên đáng kể từ 1988 trở đi
Bằng sự nỗ lực phấn đấu của Đảng,Nhà nước và Nhân dân,trong 5 năm từ
năm 2001-2005 nền kinh tế nước ta nói chung và nghành nông,lâm,ngư
nghiệp nói riêng đã thu được nhiều kết quả đáng chú ý:
-Tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng 7,5%/năm


-Gía trị sản xuất nông,lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,5%/năm
-Tỷ trọng nghành nông,lâm nghiệp và thủy sản trong GDP năm 2005 đạt
20,9%
Một trong những tác động của sự phát triển quá nhanh của công nghiệp ở
Việt Nam chính là việc đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang đất khu công
nghiệp. Điều này phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: tỉ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm từ 20,6% năm 2006 xuống còn 20,5% năm 2007.
(Ngành công nghiệp và dịch vụ đóng góp tới hơn 90% tổng tăng trưởng
GDP năm 2007) Sản lượng chè, cà phề và cao su tự nhiên đã giúp đẩy mạnh
xuất khẩu trong ngành nông nghiệp. Nhu cầu tăng cao từ các thị trường
nước ngoài cũng giúp củng cố thêm sức tăng trưởng của ngành ngư nghiệp.
Hiện tại Việt Nam là nước sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất thế giới,
đứng thứ 2 sau Thái Lan về xuất khẩu gạo, thứ 2 sau Bra-xin về cà phê và
sau Ấn Độ về hạt điều, đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu cao su và thứ 7 thế
giới về xuất khẩu chè. Chính phủ đang tập trung mạnh vào các cây hoa màu
với tiềm năng xuất khẩu cũng như tập trung vào xây dựng ngành công
nghiệp chế biến nông sản. Với mục đích khuyến khích nông dân đầu tư lâu
dài và tăng năng suất, Luật Đất đai mới đã được kì họp Quốc hội vào tháng
7 năm 1993 thông qua, trong đó công nhận những quyền của nông dân trong
việc trao đổi, chuyển giao, cho thuê và thừa kế phần đất đã được phân phối.
Cơ cấu thuế cũng đã có thêm một số thay đổi liên quan đến chuyển giao
quyền sử dụng đất để đảm bảo sự cân bằng trong mức thu thuế của chính
quyền trung ương và địa phương. Mặc dù vậy, đất đai vẫn thuộc sở hữu của
Nhà nước, phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%,
GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt
trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi
năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành

nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế
giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ
nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng
trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản
phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất
khẩu.
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5
năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá
trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ
lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông,
lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% trong tổng số lao động xã hội, năm 2000 còn
56,8%.
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5
năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá
trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.
Năm 2008 là năm đầy khó khăn thiên tai,lũ lụt trong nước cùng với khó
khăn bên ngoài tác động là khủng hoảng tài chính nhưng nghành nông
nghiệp vẫn tăng trưởng 3,79% trở thành nghành kinh tế duy nhất trong cả
nước có mức tăng trưởng cao hơn so với mức tăng của năm 2007
Thương mại nông lâm sản Việt nam cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt nam
xuất siêu trong năm 2008
VIệT NAM: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu – 2008
Triệu USD
1 Dầu thô 10450
2 Dệt may 9108
3 Da giầy 4697

4 Hải sản 4562
5 Lúa gạo 2902
6 Đồ gỗ 2779
7 Điện tử, máy tính 2703
8 Cà phê 2022
9 Cao su 1597
10 Than đá 1444
11 Dây & cáp điện 1014
12 Khác 19622
Nhìn vào bảng trên ta thấy các sản phẩm nông,lâm,thủy sản chiếm tỷ trọng
khá lớn trong tổng kim nghạch xuất khẩu của các mặt hang trên.
Trong giai đoạn 5 năm từ 2006-2010 sự phát triển nghành nông,lâm,ngư
nghiệp có những điểm đáng chú ý như sau:
-Tăng trưởng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6,7%/năm, thấp hơn giai
đoạn trước 0,6%.Tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP
liên tục giảm, từ 35,4% năm 2005 xuống còn 27,9% năm 2010, ngành công
nghiệp - xây dựng tăng từ 26,5% năm 2005 lên 34,2% năm 2010, dịch vụ
giảm từ 38,1% năm 2005 xuống còn 37,9% năm 2010.
-Cơ cấu ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản chiếm 6,5-7%.Cơ cấu nội ngành
nông nghiệp chuyển biến rõ nét và đúng hướng, tỷ trọng chăn nuôi và dịch
vụ tăng dần, từ 28,8% năm 2005 lên 34%; trồng trọt từ 71,2% năm 2005
giảm xuống 66%.
- Sản xuất lương thực liên tục được mùa, trồng rừng kinh tế phát triển mạnh,
kinh tế nông nghiệp nông thôn có bước chuyển biến mạnh mẽ.
-Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển tiến bộ khá toàn diện, đã phát huy
có hiệu quả những lợi thế về đất đai, khí hậu để chuyển đổi cơ cấu cây trồng
theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng sản xuất
hàng hóa như: lúa, ngô, chè, chuối, dứa… được hình thành khá rõ và bước
đầu xây dựng các vùng sản xuất có hiệu quả như: cây thuốc lá, rau an toàn,
hoa, cây ăn quả ôn đới.

- Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi vào sản xuất, đặc biệt
là kỹ thuật giống, thâm canh, tăng vụ, trên 90% diện tích lúa, ngô, đậu
tương, lạc được trồng giống mới có năng suất cao. Sản xuất tăng vụ được
mở rộng đem lại hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu mùa vụ. Năng suất, sản
lượng các loại cây trồng đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản
lượng lương thực có hạt đạt 228 nghìn tấn, bằng 114% KH. Giá trị sản xuất
trên đơn vị canh tác đạt 33 triệu đồng, bằng 165% KH.
-Chăn nuôi đại gia súc phát triển theo hướng hàng hoá; đàn trâu bình quân
hằng năm tăng 5,57%, đàn bò 6,18%, đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn
nuôi và bước đầu hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, theo hình thức
trang trại, phương thức công nghiệp, sử dụng giống tốt, đảm bảo an toàn
dịch bệnh, do vậy kết quả chăn nuôi tăng khá. Giá trị sản xuất tăng bình
quân trên 11%/năm.
-Ngành lâm nghiệp đã chuyển hướng mạnh từ lâm nghiệp nhà nước thuần
tuý sang lâm nghiệp xã hội có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế;
trồng rừng phòng hộ và rừng kinh tế được tích cực triển khai và đạt nhiều
kết quả: Dự kiến đến hết năm 2010, toàn tỉnh trồng mới 4.774 ha rừng
phòng hộ, đạt 119,4% KH; trồng 24.330 ha rừng kinh tế, đạt 152% KH. Độ
che phủ rừng tăng từ 45% năm 2005 lên 49,5% năm 2010, vượt 1,5% so
KH; giá trị sản xuất trên một ha rừng năm 2010 ước đạt trên 18 triệu đồng,
gấp 1,5 lần so năm 2005.
-Thủy sản phát triển mạnh, đã bước đầu khai thác có hiệu quả những ưu thế
về mặt nước, khí hậu để nuôi trồng đa dạng; chú trọng ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, nhất là trong khâu sản xuất giống nên bước đầu chủ động
cung cấp giống tốt cho nuôi trồng thuỷ sản trong tỉnh; nhiều mô hình giống
mới hiệu quả cao như cá nước lạnh; diện tích nuôi thâm canh quy mô ngày
càng lớn, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh. Giá trị sản xuất bình
quân trên 1 ha nuôi trồng thuỷ sản từ 18,1 triệu/ha năm 2005, lên 53,3
triệu/ha.
Nông nghiệp nông thôn có bước phát triển theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, chuyển giao ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá
ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần
nông, một số làng nghề truyền thống được khôi phục. Trang trại nông thôn
phát triển khá ở quy mô vừa và nhỏ. Hợp tác xã được chuyển đổi, củng cố,
sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là
đường giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, chợ…được chú
ý đầu tư. Công tác phòng chống bão lũ, thiên tai và sắp xếp ổn định dân cư
được đẩy mạnh. Hằng năm, đã cân đối, bố trí từ 65- 70% tổng vốn đầu tư
phát triển từ ngân sách nhà nước địa phương để đầu tư cho vùng nông thôn,
vùng cao. Vì vậy đến nay: 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 80%
số xã có đường cho xe cơ giới đến tất cả các thôn bản; 87% số thôn bản có
đường giao thông liên thôn; hệ thống thuỷ lợi đã đảm bảo nước tưới cho
85% diện tích ruộng; 100% số xã có trường, lớp học kiên cố tại trung
tâm,65% thôn, bản có điểm trường kiên cố; 100% số xã có điện lưới quốc
gia đến trung tâm xã với 77% hộ ở nông thôn được dùng điện; 100% số xã
có trạm y tế xã; 74% số hộ được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; cơ bản
xoá nhà tạm cho hộ nghèo tại khu vực nông thôn, trên 6.000 lao động vùng
nông thôn được đào tạo nghề; sắp xếp ổn định dân cư được đẩy mạnh, đã bố
trí, di chuyển gần 6.000 hộ dân về nơi ở mới Đã có trên 250 trang trại quy
mô vừa và nhỏ tập trung chủ yếu ở huyện Bảo Thắng và Bát Xát, 190 HTX
với gần 10.000 xã viên và 13.780 lao động; Nghị quyết Trung ương 7 khoá
X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” được triển khai mạnh mẽ, đã thu
được kết quả bước đầu. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá
ngành nghề và kinh tế trang trại. Đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
nhân dân, đặc biệt vùng nông thôn, vùng cao được cải thiện rõ rệt.
Theo thông tin mới nhất của Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư ngày 24/10/2011 có một số vấn đề nổi lên trong ngành nông, lâm, ngư
nghiệp tháng 10 năm 2011 như sau:
1. Nông nghiệp

1.1. Trồng trọt
Sản xuất nông nghiệp tháng 10 năm 2011 tập trung chủ yếu vào thu hoạch
lúa mùa tại các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa hè thu, thu đông và gieo
cấy lúa mùa tại các địa phương phía Nam.
Lúa mùa: Tính đến ngày 15/10/2011, các địa phương phía Bắc thu hoạch
được 434,5 nghìn ha lúa mùa, chiếm 35% diện tích gieo cấy và bằng 48,7%
cùng kỳ năm trước. Vùng đồng bằng sông Hồng thu hoạch 188,1 nghìn ha,
chiếm 32,5% diện tích gieo cấy và bằng 45,3% so cùng kỳ (Vĩnh Phúc đạt
100%, Hà Nội đạt 72,3%, Hải Dương 44,5%, Hải Phòng 13%, Thái Bình
19,5% so cùng kỳ). Tiến độ thu hoạch lúa năm nay chậm hơn so với cùng kỳ
chủ yếu do gieo cấy vụ muộn hơn so vơi năm trước. Trong những ngày cuối
tháng 9 và đầu tháng 10 do ảnh hưởng của cơn bão số 5, số 6 và không khí
lạnh gây mưa đã làm cho nhiều diện tích trà lúa đầu sắp thu hoạch bị đổ ngã,
rụng bông, người dân phải thu hoạch khi cây còn xanh; cây lúa trà cuối giảm
khả năng đậu hạt, ngoài ra sâu bệnh cũng phát sinh trên các trà lúa, đặc biệt
là sâu đục thân và rầy nâu gây ảnh hưởng, làm giảm năng suất thu hoạch.
Theo đánh giá sơ bộ của các tỉnh, năng suất lúa mùa miền Bắc vẫn tăng nhẹ
so cùng kỳ năm 2010 do các địa phương đã chủ động bơm tiêu úng kịp thời
nhằm giảm thiệt hại đến mức tối thiểu.
Tính đến trung tuần tháng 10, các địa phương phía Nam gieo cấy được 497,8
nghìn ha lúa mùa, bằng 69,4% so với cùng kỳ, chủ yếu do thu hoạch vụ hè
thu năm nay muộn hơn năm 2010 và mưa nhiều. Trước tình hình trên, một
số tỉnh chỉ đạo những diện tích thu hoạch hè thu chậm hoặc tại các vùng
trũng, thấp hay ngập lụt không gieo cấy vụ mùa để tránh ngập úng hư hại và
chuyển sang trồng đông xuân sớm.
Lúa hè thu + thu đông: Tính đến 15 tháng 10, cả nước đã thu hoạch 2145,4
nghìn ha lúa hè thu và thu đông, chiếm 81,3 diện tích xuống giống. Các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch được khoảng 86% diện tích lúa hè
thu và thu đông, trong đó lúa thu đông thu hoạch 46% diện tích xuống giống
(Đồng Tháp 77%, Vĩnh Long 75%, Cần Thơ 97%, An Giang 5% diện tích

lúa thu đông). Nước lũ tại Vùng này lên cao nhất trong 10 năm gần đây, làm
ngập và hư hại nhiều diện tích lúa, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng
(Đồng Tháp khả năng mất trên 10 nghìn tấn lúa thu đông).
Lúa hè thu chính vụ ở các vùng khác đã cơ bản thu hoạch xong, ước tính
diện tích, năng suất và sản lượng đều tăng ở tất cả các vùng.
Cây hàng năm khác: Cùng với việc thu hoạch lúa mùa, các tỉnh miền Bắc bắt
tay vào sản xuất vụ đông nhưng do nhiều diện tích lúa mùa chưa thu hoạch
và mưa nhiều nên tiến độ gieo trồng một số cây vụ đông năm nay giảm rõ rệt
so với năm trước. Tính đến ngày 15/10, diện tích gieo trồng ngô cả nước đạt
124,2 nghìn ha, bằng 80,2%; khoai lang đạt 15,6 nghìn ha, bằng 50,8%; rau
đậu đạt 59,7 nghìn ha bằng 80,6%; đậu tương đạt 25,7 nghìn ha, bằng 1/3
cùng kỳ năm trước.
Thiệt hại do mưa lũ: Mưa lũ lớn xảy ra liên tiếp trong tháng qua đã gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tại các tỉnh: Quảng Ninh,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Lâm Đồng, An Giang, Đồng Tháp, Kiên
Giang. Theo ước tính ban đầu, có gần 42 nghìn ha lúa mùa, hè thu, thu đông
và rau màu bị ảnh hưởng, trong đó gần 20 nghìn ha bị mất trắng: QuảngNinh
mất trắng 3900 ha lúa và rau màu; Hà Tĩnh có 3851 ha lúa hè thu bị ngập
úng, trong đó 460 ha mất trắng; Bình Thuận có khoảng 415 ha thanh long,
280 ha lúa và 100 ha hoa màu khác bị ngập nước, 1.100 ha lúa mới trồng bị
hỏng phải gieo sạ lại; Mưa kéo theo lũ quét cũng làm hỏng gần 6400 ha rau
màu của tỉnh Lâm Đồng, Riêng tại vùng lúa trọng điểm ĐBSCL, đã có hơn
8000 ha lúa thu đông bị mất trắng trong tổng số 15000 ha lúa và rau màu bị
ngập úng do lũ lớn; Mưa lũ tại vùng này cũng làm ngập nhiều diện tích cây
ăn trái, chủ yếu tại 2 tỉnh đầu nguồn là Đồng Tháp và An Giang: Tại Đồng
Tháp có 2.085 ha lúa thu đông bị mất trắng, 933 ha hoa màu bị ngập nặng
(mất trắng 28 ha); 3.418 ha vườn cây ăn trái bị ngập (trong đó có 1.011 ha bị
thiệt hại 100%). Tại An giang: Do lũ dâng cao cộng với cơn bão số 5 đã làm
ngập nhiều tuyến đê bao với tổng chiều dài hơn 450km và vỡ một số tuyến
đê tổng chiều dài vỡ 322m. Đến thời điểm này, có khỏang 66 ngàn ha lúa bị

đe dọa, 671 ha lúa bị ngập; 4.251ha lúa bị mất trắng; diện tích bị gặt ép là 37
ha; diện tích hoa màu bị ngập là 15ha; diện tích mất trắng là 287 ha. Hiện
nay tình hình mưa lũ hiện nay còn diễn biến phức tạp, do vậy thiệt hại về sản
xuất nông nghiệp sẽ tiếp tục tăng.
1.2. Chăn nuôi
-Chăn nuôi trâu, bò phát triển ổn định và không có biến động lớn do dịch
bệnh đã được khống chế. Ước tính đàn trâu xấp xỉ cùng kỳ, đàn bò giảm nhẹ
do đồng cỏ bị thu hẹp.
-Chăn nuôi lợn: Trong tháng dịch lợn tai xanh vẫn còn xuất hiện ở một vài
điểm nhưng không bùng phát, lây lan rộng. Trong thời gian qua người nuôi
lợn đã tập trung đầu tư tái đàn nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của thị
trường những tháng cuối năm nên đàn lợn của cả nước có chiều hướng tăng,
phát triển ở quy mô gia trại, trang trại với số lượng đầu con lớn, đem lại hiệu
quả kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, thời gian gần đây giá thịt lợn trên thị trường
giảm khá mạnh trong khi các chi phí đầu vào vẫn ở mức cao đã gây ảnh
hưởng không nhỏ tới tâm lý của người chăn nuôi lợn, ước tính đàn lợn đạt
97 - 98% so cùng kỳ nhưng tăng khoảng 2-3% so tháng trước .
-Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm cả nước phát triển tương đối tốt và tiếp tục
tăng do dịch bệnh đã được khống chế nhưng vẫn còn nhiều khó khăn do giá
thịt gia cầm giảm mạnh. Hiện tại, giá gia cầm trên thị trường miền Bắc đã tụt
xuống mức rất thấp, có nơi chỉ còn 27-28 nghìn đồng/kg , ảnh hưởng đến
việc tiếp tục mở rộng đàn, ước tính đàn gia cầm tăng khoảng từ 7-8% so
cùng kỳ.
2. Lâm nghiệp
Trong tháng, điều kiện thời tiết cả nước có mưa trên diện rộng nên thuận lợi
cho công tác lâm sinh, diện tích rừng mới trồng sinh trưởng, phát triển tốt.
Đến nay cơ bản các tỉnh, thành phố phía Bắc đã hoàn thành công tác trồng
rừng 2011, các địa phương thuộc Trung và Nam Bộ đang tiếp tục trồng rừng
chính vụ. Tuy nhiên trong kỳ nhiều địa phương thuộc khu vực Trung và
Nam Bộ có mưa lớn gây ngập lụt đã ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp, do

mưa lũ nên tiến độ trồng rừng chậm hơn so cùng kỳ năm 2010. Tổng hợp kết
quả sản xuất tháng 10 đạt được như sau: Diện tích rừng trồng mới tập trung
ước đạt 5,5 nghìn ha; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước tính 6,85 triệu
cây, tăng 0,7%; sản lượng củi khai thác 2,62 triệu ste, tăng 0,8%; sản lượng
gỗ khai thác ước đạt 432 nghìn m3, tăng 6,4%.
Tính chung 10 tháng đầu năm 2011, diện tích rừng trồng mới tập trung ước
đạt 157 nghìn ha, so cùng kỳ năm 2010 chỉ bằng 83,1%; số cây lâm nghiệp
trồng phân tán ước đạt 170,5 triệu cây, tăng 0,3%; Sản lượng gỗ khai thác
ước đạt 3.530 nghìn m3, tăng 12,2%. Sản lượng củi khai thác 24,3 triệu ste,
tăng 2,1%.
Tình hình thiệt hại rừng: Do đang trong mùa mưa lũ nên ít xảy ra cháy rừng,
tình hình chặt phá rừng làm nương rẫy cũng hạn chế nhiều so các tháng
trước. Trong kỳ chỉ xảy ra 9 vụ cháy rừng, diện tích bị cháy 11 ha; số vụ
chặt phá rừng là 42 vụ, diện tích bị phá 9 ha chủ yếu tại các tỉnh thuộc khu
vực Tây Bắc. Tính chung 10 tháng đầu năm diện tích rừng bị thiệt hại 2.017
ha, chỉ bằng 25,9% so cùng kỳ năm 2010, trong đó: Diện tích rừng bị cháy
994 ha, bằng 14,8%, diện tích rừng bị phá 1.023 ha bằng 96,7%.
3. Thuỷ sản
Sản lượng thuỷ sản sản xuất ước đạt 467,2 nghìn tấn, tăng 4,4%, trong đó cá
đạt 342 nghìn tấn, tăng 4,3%; tôm đạt 70 nghìn tấn, tăng 4,9%.
3.1 Nuôi trồng thuỷ sản
Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 249,5 nghìn tấn, tăng 4,2% so cùng
kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 187 nghìn tấn, tăng 3,3%; sản lượng
tôm đạt 47 nghìn tấn, tăng 4,4%, sản lượng thủy sản khác đạt 16 nghìn tấn,
tăng 15%.
Sản xuất cá tra tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất qui mô lớn, các địa
phương đang đẩy mạnh việc triển khai và mở rộng diện tích nuôi theo các
tiêu chuẩn Global GAP, SQF, BMP, GAP nhằm hướng đến tạo nguồn
hàng đảm bảo an toàn, vệ sinh và chất lượng phục vụ nhu cầu xuất khẩu
từng bước nâng cáo giá trị hàng hóa nông sản chế biến trên thị trường thế

giới. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích thả nuôi cá tra hiện nay
chủ yếu là của các Công ty xây dựng vùng nuôi tập trung nhằm ổn định
nguồn nguyên liệu cho nhà máy chế biến chiếm khoảng 75% diện tích nuôi
cá tra công nghiệp. Nhu cầu tiêu dùng thủy sản thay thế các mặt hàng thực
phẩm khác tăng lên cả trên thị trường trong nước và thế giới làm cho giá cá
tra tăng nhẹ trở lại với mức giá từ 21-24 nghìn đồng/kg. Tuy nhiên, với mức
giá này các hộ nuôi vẫn không có lãi.
Nuôi nuôi tôm sú còn gặp khó khăn trên các diện tích trước đây bị dịch bệnh
nuôi thả lại do mưa nhiều làm thay đổi môi trường cùng với nguồn nước còn
lẫn mầm bệnh chưa được xử lý hết từ trươc đó, điển hình tại Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Bến tre: Nếu trước đây, tôm thả 30- 40 ngày mới có hiện tượng bị chết
chết thì hiện này xuất hiện tình trang tôm bị chết sơm và có trường hợp tôm
mới thả 6- 7 ngày đã bị chết. Tuy nhiên trên các diện tích nuôi thân thiện với
môi trường như nuôi kết hợp với cá, lúa, nuôi tỉa thưa thả bù cho sản lượng
thu hoạch khá và ổn định, trong đó Cà Mau thu được 9 nghìn tấn, tăng 12%;
Trà Vinh 8 nghìn tấn, tăng 12,4%; Kiên Giang 1,5 nghìn tấn Tăng 40%.
Ngoài ra, sản lượng tôm thẻ chân trắng tiếp tục tăng nhanh ở nhiều địa
phương do năng suất cao, chu kỳ nuôi ngắn nên diện tích được mở rộng.
3.2. Khai thác thuỷ sản
Sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 218 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng
kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 198 nghìn tấn, tăng 5,3%.
Thời tiết biển mặc dù có bão nhưng ảnh hưởng không nhiều đến khai thác
thủy sản so với cùng kỳ năm trước; bước vào vụ cá Nam, các luồng cá nục,
cá cơm khá dày rất thuận lợi cho ngư dân đánh bắt tại khu vực biển miền
Trung, thêm vào đó các địa phương đang đẩy mạnh thực hiện Quyết định
48/2010/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ cho tàu có công suất lớn khai thác
trên các vùng biển xa nên phần lớn các tàu đi đánh bắt đều đạt sản lượng khá
chủ yếu từ những đội tàu hoạt động vùng biển xa bờ với các nghề khai thác
chủ lực, đóng góp sản lượng lớn như: nghề cào và nghề lưới vây ánh sáng.
Tính chung 10 tháng, tổng sản lượng thuỷ sản các loại đạt 4549 nghìn tấn,

tăng 3,9%. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 2413 nghìn tấn, tăng 5,5%,
trong đó sản lượng cá nuôi đạt 1848 nghìn tấn, tăng 5,5%, sản lượng tôm
nuôi đạt 385 nghìn tấn, tăng 4,6%; khai thác thủy sản đạt 2136 nghìn tấn,
tăng 2,2%, khai thác hải sản (biển) đạt 1975 nghìn tấn, tăng 2,3%.
4. Tình hình thị trường nông sản, vật tư trong nước
4.1. Lương thực: giá lúa cấp thấp tại các tỉnh ĐBSCL tuần này giảm từ 300-
400 đồng/kg so với tháng trước, giá mua tại kho từ 6.700– 7.600 đồng/kg
(tùy loại): lúa Jasmin ở mức 7.500 đồng/kg, lúa IR 50404 ở mức 6.800
đồng/kg, lúa VNĐ 95-20 có giá 7000đ/kg; Giá gạo bán ổn định: gạo Jasmin
có giá 13.500-15.000đ/kg, gạo CLC có giá 11.500-12.500đ/kg.
4.2. Thực phẩm: Giá sản phẩm chăn nuôi đã giảm và dần đi vào ổn định. Cụ
thể, giá lợn hơi tại các trại chăn nuôi tập trung ở mức 50.000 (đứng giá); Giá
lợn thịt giảm 2.000 - 3.000 đồng/kg, thịt nạc thăn 88.000 - 92.000 đồng/kg
(giảm 3000đ/kg), thịt heo đùi 85.000 đồng/kg, (tăng nhẹ); Thịt bò thăn
150.000 đồng/kg (giảm khá mạnh, khoảng 20% so tháng trước); cá điêu
hồng sống từ 34.000 đồng /kg (giảm 4000đ/kg), Giá cá tra ở mức 34.000
đồng/kg (đứng giá), giá cá lóc nuôi 50.000 đồng/kg (giảm 5000đ/kg)
4.3. Rau quả các loại: giá rau hiện nay khá ổn định. Rau muống
5.000 đồng/kg (đứng giá), mồng tơi, cải ngọt, cải xanh 6.000 đồng/kg (tăng
2000đ/kg), dưa leo 7.000 đồng/kg (đứng giá), cà chua 7.000 đồng/kg (giảm
3000đ/kg), bí xanh 7.000 đồng/kg (tăng 1000đ/kg),
4.4. Vật tư nông nghiệp: Giá phân có xu hướng tăng, giá bán lẻ phân Urê
Phú Mỹ 11.800 đồng/kg (giảm 200đkg), Urê Liên xô có giá 11400đ/kg;
phân DAP Trung Quốc 15.200 đ/kg (giảm 800đ/kg)
5. Tình hình thiên tai, dịch bệnh:
5.1. Thiên tai:
* Mưa lũ tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên
- Người chết: 14 người (tăng 04 người so với báo cáo nhanh ngày 19/10,
Bình Định: 02, Đà Nẵng: 01, Kon Tum: 01); Người mất tích: 05 người;
Người bị thương: 16 người.

- Nhà bị ngập: 65.754 căn.
- Lúa bị ngập: 3.146 ha; Hoa màu bị ngập, hư hại: 15.733 ha;
- Số hộ phải di dời: 7.395 hộ
Hiện tại, nước lũ tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên đã rút.
* Lũ tại đồng bằng sông Cửu Long: Tổng hợp số liệu thiệt hại tính đến ngày
20/10/2011 như sau:
- Số người chết: 49 người
- Nhà bị ngập nước: 88.325 nhà
- Lúa bị ngập úng: 23.064 ha
- Đê bao, bờ bao bị sạt lở: 1.471,8 km;
5.2. Tình hình dịch bệnh
- Dịch Cúm gia cầm : hiện không có báo cáo ổ dịch mới phát sinh từ các địa
phương. Cả nước còn tỉnh Quảng Ngãi có ổ dịch cúm gia cầm chưa qua 21
ngày.
- Dịch Lở mồm long móng (LMLM): không có báo cáo ổ dịch mới phát sinh
từ các địa phương. Hiện nay, cả nước còn tỉnh Nghệ An có dịch LMLM
chưa qua 21 ngày.
- Dịch Tai xanh trên lợn: không có báo cáo ổ dịch mới phát sinh từ các địa
phương. Hiện cả nước còn 05 tỉnh là Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, Sóc
Trăng và Quảng Nam có ổ dịch lợn tai xanh chưa qua 21 ngày./.
PHƯƠNG HƯỚNG CHO SỰ PHÁT TRIỂN
Sự phát triển của nghành nông,lâm,ngư nghiệp của Việt nam qua các năm
cho ta thấy tuy giá trị sản xuất của nghành qua các năm có tăng nhưng tỷ lệ
tăng không ổn định,còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên thiên tai,lũ
lụt.Lao động phục vụ trong nghành ngày càng giảm cũng là giấu hiệu tốt cho
thấy nghành ngày càng được công nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng cũng cho
thấy lao dộng trong nghành ngày càng chuyển sang hoạt động nhiều hơn
trong các nghành công nghiệp,dịch vụ.
Là 1 bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nước nhà,Nghành
công,nông,ngư nghiệp cũng được quan tâm.Cụ thể trong kế hoach 5 năm

Đảng và Nhà nước ta có đưa ra mục tiêu và phương hướng cho sự phát triển
kinh tế,trong đó:
-Đưa ra mục tiêu GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 7,5%-8%/năm
Cơ cấu GDP năm 2015:nông,lâm,ngư nghiệp đạt 19%
Mục tiêu lâu dài đó là phát triển ngành nông,lâm,ngư nghiệp một cách bền
vững:
(1) Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng bền
vững:
- Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đa dạng ngành nghề và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở
nông thôn
- Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nông
nghiệp; nhất là chương trình giống. Xây dựng và mở rộng mô hình sản xuất
hàng hoá vùng núi khó khăn.
- Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông, lâm ,ngư nghiệp
trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững gắn sản
xuất với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.
- Xây dựng đề án chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất nông
sản hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong
nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất
đai, lao động và nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh
tác, trên một ngày công lao động; cải thiện đời sống của nông dân.
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, nâng cao đời sống vật
chất tinh thần dân cư nông thôn, xã hội nông thôn ổn định.
(2) Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông thôn:
- Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao năng suất sử dụng đất, sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước; áp dụng hệ thống sản xuất nông lâm kết
hợp; nông lâm ngư kết hợp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng,

nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu.
- Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuât và nông
nghiệp; nhất là công nghệ sinh học; thực hiện chương trình cải tạo các giống
cây, giống con.
- tập trung đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi đồng bộ, đảm bảo ngăn mặn,
giữ ngọt, chủ động tưới tiêu cho vùng sản xuất lúa, vườn cây ăn trái, vùng
nuôi thủy sản và phục vụ sinh hoạt cho nhân dân.
(3) Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thị trường nông thôn,
tăng khả năng tiêu thụ nông sản kết hợp với việc phát triển nguồn nhân lực
phục vụ phát triển sản xuất.
- Thúc đẩy và phát triển mối liên kết giữa các chủ thể trong các kênh sản
xuất và lưu thông sản phẩm, tạo mới và ổn định các kênh thị trường nhằm
tối đa hóa lợi ích của các thành phần tham gia.
- Xây dựng đề án phát triển đa dạng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn; đào
tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm phi nông nghiệp, tăng thời
gian lao động và cơ cấu lại nguồn lao động ở nông thôn.
(4) Xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn chất lượng cho một số sản phẩm
thủy sản chủ lực phục vụ xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu của các nước nhập
khẩu là điều kiện tiên quyết để các sản phẩm hải sản Việt Nam vươn xa trên
thị trường thế giới.
- Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường xuất khẩu; Thu hút đầu tư sản xuất giống,
đáp ứng nhu cầu giống chất lượng cao phục vụ nuôi thủy sản thâm canh của
tỉnh;
-Phát triển mạnh hình thức quản lý cộng đồng trong nuôi thủy sản. Đẩy
mạnh khai thác hải sản xa bờ, giảm cường lực khai thác ven bờ nhằm gia
tăng hiệu quả đánh bắt, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đảm bảo an ninh, trật tự
trên biển.
Để nghành nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt nam ngày càng phát triển giữ
vững vị trí cao trong kim nghạch xuất khẩu trong nền kinh tế và trên toàn thế

giới cần có sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân.Cần chú trọng phát triển công
nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, thủy hải sản để nông dân không
phải lo ngại vấn đề tiêu thụ sản phẩm và nhất là cần phải có biện pháp quản
lý giá nông, lâm, thủy sản mua vào của các cơ sở sản xuất để ngăn chặn tình
trạng ép giá bà con nông dân khi được mùa.Có như vậy bà con nông dân
mới yên tâm sản xuất, góp phần cho sự phát triển ổn định của nghành.

×