Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất của công nhân sản xuất tại công ty cổ phần thuỷ sản 584 nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.98 KB, 128 trang )




1


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Phân tích biến động nguồn vốn trong 3 năm 2004, 2005, 2006 57
Bảng 2.2 Sản lượng sản xuất trong 3 năm 2004, 2005, 2006 65
Bảng 2.3 Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 71
Bảng 2.4 Tổng hợp các tỷ số sinh lời 75
Bảng 2.5 Phân tích sự biến động của tài sản 78
Bảng 2.6 Phân tích sự biến động của nguồn vốn 80
Bảng 2.7 Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn 82
Bảng 2.8 Tổng hợp các tỷ số thanh toán 86
Bảng 3.1 Thu nhập và năng suất năm 2006 90
Bảng 3.2 91
Bảng 3.3 Bảng tổng hợp ý kiến của công nhân sản xuất về thu nhập tại công ty 92
Bảng 3.4 Thâm niên công tác và năng suất trong 3 năm 2004, 2005, 2006 94
Bảng 3.5 95
Bảng 3.6 Thâm niên công tác của công nhân sản xuất 96
Bảng 3.7 Tổng hợp các yếu tố tác động đến năng suất lao động 97
Bảng 3.8 Điểm trung bình của các yếu tố tác động đến năng suất của công nhân
sản xuất 98
Bảng 3.9 Tổng hợp ý kiến của công nhân sản xuất tại công ty 99




2




DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1 Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất 21
Hình 2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 41
Hình 2.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất 44
Hình 2.3 Quy trình chế biến nước mắm 45
Hình 3.1 Biểu đồ phân tán biểu thị mối quan hệ giữa năng suất với thu nhập 90
Hình 3.2 Biểu đồ phân tán biểu thị mối quan hệ giữa
năng suất với thâm niên công tác 95










3







PHẦN

MỞ ĐẦU



4


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngành thuỷ sản có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tái sản xuất mở
rộng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành giữ vị trí hàng đầu trong mô hình
nông – lâm – ngư, công nghiệp, dịch vụ, giải quyết vấn đề bữa ăn hàng ngày, bảo đảm
hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ, giải quyết việc làm
và khai thác tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Định hướng chiến lược phát triển
ngành thuỷ sản Việt Nam đến 2020 thành một ngành sản xuất hàng hoá lớn, có năng
suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, có cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong nước, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục giữ
vững là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao và có tỷ trọng GDP đáng kể trong các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong các năm tới. Để hoàn thành mục tiêu đề ra của
ngành thuỷ sản và để tạo động cơ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước cần
phải nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động là yếu tố quyết định tốc độ tăng
trưởng kinh tế, dẫn tới việc tạo ra giá trị thặng dư, tạo điều kiện cho tích luỹ tái đầu tư
và nâng cao thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán và cải thiện đời sống. Hơn nữa,
năng suất lao động cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và quốc gia, tận dụng cơ hội và hạn chế thách thức khi gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Năng suất lao động tăng sẽ góp phần tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp, đây là điều mà doanh nghiệp và người lao động nào cũng mong
muốn. Mặc dù trong những năm qua đất nước đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong
việc tăng năng suất nhưng nhìn chung năng suất nước ta vẫn còn thấp hơn so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Vì lý do trên em chọn đề tài: “Các yếu tố ảnh
hưởng đến năng suất của công nhân sản xuất tại Công Ty Cổ Phần Thuỷ Sản 584

Nha Trang”.





5


2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của công nhân sản xuất tại Công
Ty Cổ Phần Thủy Sản 584 Nha Trang.
Phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của công nhân sản xuất
tại Công Ty.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng suất của công nhân sản xuất tại Công Ty.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, đề tài được tiến hành thông qua:
3.1 Thu thập số liệu
3.1.1 Số liệu thứ cấp
Các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập.
Tham khảo các tài liệu có liên quan.
3.1.2 Số liệu sơ cấp
Điều tra: phỏng vấn trực tiếp các nhà quản lý và người lao động của công ty
nhằm phát hiện các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của công nhân sản xuất. Những
thông tin thu nhập được là cơ sở để thiết kế bảng câu hỏi nghiên cứu. Sau đó bảng câu
hỏi được phát trực tiếp cho công nhân sản xuất.
3.2 Phân tích số liệu
Số liệu thu thập được được phân tích định tính và định lượng. Do điều kiện về
kiến thức và bản thân còn hạn chế nên việc phân tích định lượng chỉ đừng lại ở phân
tích thống kê mô tả. Việc phân tích định tính dựa vào bảng điều tra để phân tích.






6


4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện tại Công Ty Cổ Phần Thủy Sản 584 Nha Trang – 584 Lê
Hồng Phong – Nha Trang – Khánh Hòa.
Đối tượng khảo sát là công nhân sản xuất đang làm việc tại công ty.






















7



PHẦN
NỘI DUNG




8




























9


1.1 KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI NĂNG SUẤT
1.1.1 Khái niệm
1.1.1.1 Quan niệm truyền thống về năng suất:
Thuật ngữ năng suất lần đầu tiên được nói đến trong bài báo của Quesnay vào
năm 1766. Nhưng đến hơn một thế kỷ sau, năm 1883, nó mới được định nghĩa như
“Khả năng sản xuất”. Vào thời kỳ này người ta chưa nói đến nhiều về năng suất và
vai trò của nó. Bắt đầu vào những năm đầu của thế kỷ XX khái niệm năng suất mới
được đề cập một cách chính xác hơn. Theo định nghĩa kỹ thuật và truyền thống,
khái niệm năng suất được hiểu khá đơn giản là một mối tương quan giữa đầu ra và
đầu vào. Nếu đầu ra lớn hơn đạt được từ một lượng đầu vào giống nhau hoặc với
đầu ra giống nhau từ một đầu vào nhỏ hơn thì có thể nói rằng năng suất cao hơn. Từ
đó đến nay khái niệm này được khẳng định, phát triển nhiều dưới dạng khác nhau
phụ thuộc vào góc độ và mục đích xem xét, đánh giá trong bối cảnh cụ thể của từng
nước và theo quan điểm của từng tác giả.
Những năm gần đây, khái niệm năng suất lại được bàn luận sôi nổi. Nó được
hoàn thiện bổ sung thêm những nội dung mới cho thích ứng với tình hình phát triển

kinh tế- xã hội và những thay đổi của môi truờng kinh doanh hiện nay, mà trong đó
có thể cần chú ý một số định nghĩa:
 Theo từ điển Oxford: “Năng suất là tính hiệu quả của hoạt động sản xuất được
đo bằng việc so sánh giữa khối lượng sản xuất ra trong một khoảng thời gian hoặc
nguồn lực được sử dụng để tạo ra nó”.
 Theo từ điển kinh tế học hiện đại của MIT (Mỹ): “Năng suất là đầu ra trên một
đơn vị đầu vào được sử dụng. Tăng năng suất xuất phát từ tăng tính hiệu quả của
các bộ phận vốn, lao động. Cần thiết phải tăng năng suất bằng đầu ra thực tế.
Nhưng rất ít khi tách riêng biệt được năng suất của nguồn vốn và lao động”.
 Năm 1950 Tổ chức hiệp tác kinh tế Châu Á đưa ra định nghĩa chính thức sau:
năng suất là thương số thu được bằng cách chia đầu ra cho một trong những nhân tố



10


sản xuất.Trong trường hợp này, có thể nói về năng suất của vốn, năng suất đầu tư
hoặc năng suất của nguyên vật liệu, tuỳ theo cách xem xét đầu ra trong mối quan hệ
với yếu tố vốn, đầu tư hay nguyên liệu.
 Kendrich và Creamer (1965) lại xem xét năng suất dưới giác độ tổng năng
suất, năng suất yếu tố tổng hợp và năng suất bộ phận. Theo các ông năng suất chia
thành:
 Tổng năng suất trong một thời kỳ nhất định đo bằng tổng đầu ra chia cho
tổng đầu vào tính theo giá cố định.
 Năng suất yếu tố tổng hợp được đo bằng giá trị ròng của đầu ra chia cho đầu
vào các yếu tố tổng hợp.
 Năng suất bộ phận đo bằng đầu ra (có thể là tổng giá trị hoặc giá trị ròng)
chia cho giá trị của một nhân tố đầu vào tính theo giá cố định.
 Craig và Harris (1973) lại chỉ nói đến tổng năng suất. Đó là đại lượng được đo

bằng tổng đầu ra chia cho tổng đầu vào.
 Theo trung tâm năng suất Nhật Bản, năng suất là đại lượng đo bằng tỷ số giữa
đầu ra và đầu vào. Nhưng ở đây đầu ra luôn luôn được đo bằng giá trị gia tăng.
Như vậy, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về năng suất nhưng hầu như tất cả
các quan niệm đó đều dựa trên một cách hiểu chung nhất: năng suất là tỷ số giữa
đầu ra và những đầu vào được sử dụng để tạo ra đầu ra đó. Về mặt toán học
năng suất được phản ánh bằng công thức:
Đầu ra
P =
Đầu vào
Điều khác nhau giữa các định nghĩa trên chỉ là việc lựa chọn đầu ra và đầu
vào.



11


Đầu ra được phản ánh dưới nhiều hình thức khác nhau như: “Tập hợp các kết
quả”, “Thực hiện ở mức độ cao nhất”, “Tổng đầu ra hữu hình”, “Toàn bộ đầu ra có
thể đo lường được”. Cụ thể trong các doanh nghiệp, đầu ra được tính bằng tổng giá
trị sản xuất hoặc giá trị gia tăng, hoặc khối lượng hàng hoá tính bằng đơn vị hiện
vật. Ở cấp độ vĩ mô người ta thường sử dụng GDP như đầu ra chủ yếu để tính năng
suất.
Đầu vào được tính theo các yếu tố tham gia để sản xuất ra đầu ra. Đó là lao
động, nguyên liệu, vốn, thiết bị máy móc, năng lượng, kỹ năng quản lý. Việc chọn
đầu vào và đầu ra khác nhau sẽ tạo ra các mô hình đánh giá năng suất khác nhau.
Đặc điểm của quan điểm truyền thống là tập trung nhấn mạnh đến các yếu tố đầu
vào như lao động, vốn (năng lượng, nguyên liệu, máy móc thiết bị, công nghệ)
trong đó lao động sống là yếu tố trung tâm. Vì vậy, ở nhiều nước nhiều khi người ta

đã đồng nghĩa năng suất với năng suất lao động. Trong thực tế, quan niệm năng suất
truyền thống được chấp nhận như là khái niệm năng suất hướng theo đầu vào. Điều
đó có nghĩa là tập trung nhấn mạnh đến khía cạnh sử dụng các nguồn lực như là
nguồn gốc của năng suất, còn đầu ra đã không được đề cập đến một cách đầy đủ.
Đây là hạn chế cơ bản làm cho cách hiểu năng suất cũ không còn phản ánh được
những nội dung và mục tiêu phức tạp mà khái niệm năng suất hiện nay trên thế giới
đang theo đuổi.
1.1.1.2 Quan niệm mới về năng suất:
Trong tình hình cách tiếp cận năng suất đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với
tình hình mới, hội nghị uỷ ban năng suất của Hội đồng năng suất Châu Âu ở Rôma
năm 1959 đưa ra định nghĩa có tính thuyết phục nhất như sau: “Tổng quát mà nói,
năng suất là một trạng thái tư duy. Nó là một thái độ nhằm tìm kiếm để cải thiện
những gì đang tồn tại. Có một sự chắc chắn rằng ngày hôm nay con người có thể
làm việc tốt hơn ngày hôm qua và ngày mai tốt hơn ngày hôm nay. Hơn nữa nó đòi
hỏi những cố gắng không ngừng để thích ứng với các hoạt động kinh tế trong



12


những điều kiện luôn thay đổi, luôn ứng dụng những lý thuyết và phương pháp mới.
Đó là một sự tin tưởng chắc chắn trong quá trình tiến triển của loài người”.
Đây là một khái niệm trừu tượng nhấn mạnh đến mặt chất và phản ánh tính
phức tạp của năng suất. Theo cách tiếp cận mới, năng suất được hiểu rộng hơn, như
một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh tế, xã hội. Nó thể hiện sự thống nhất
giữa thoả mãn những nhu cầu của tất cả mọi lực lượng tham gia như người lao
động, khách hàng, chủ sở hữu, cộng đồng xã hội, người cung ứng và cải thiện chất
lượng sống trong xã hội nói chung và chất lượng công việc nói riêng. Trong tương
lai nó phải đảm bảo cân bằng giữa của cải tạo ra và mức thoả mãn những nhu cầu

cống hiến. Khái niệm mới về năng suất đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà giữa tăng
năng suất với lợi ích của xã hội và chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa năng suất, chất
lượng, cuộc sống, việc làm và sự phát triển bền vững.
Quan niệm mới về năng suất không chỉ giới hạn trong sản xuất ở nhà máy
hoặc dịch vụ hành chính mà còn có phạm vi rộng hơn bao gồm cả cuộc sống của
mọi cá nhân và xã hội. Cần phải đồng thời xem xét năng suất của các doanh nghiệp,
“Năng suất xã hội”, “Năng suất xanh” để thấy rõ ảnh hưởng của nó đến chất lượng
cuộc sống. Như vậy phát triển năng suất phải chuyển từ những mục tiêu bộ phận
sang những mục tiêu rộng lớn tổng hợp về năng suất hơn nhằm theo kịp xu hướng
toàn cầu hoá kinh tế.
Về mặt lượng, theo nghĩa cơ bản nhất, năng suất vẫn là mối quan hệ giữa đầu
vào và số lượng, chất lượng đầu ra. Tuy nhiên, nó là một hàm số của lao động, công
nghệ, vốn, năng lượng, đầu tư, quy mô sản xuất, sử dụng công suất, và rất nhiều
nhân tố khác, nhằm đảm bảo thoả mãn được nhu cầu của tất cả các đối tượng có liên
quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm.
1.1.2 Đặc điểm của năng suất.
Năng suất đã trở thành một khái niệm động, tổng hợp về nhiều yếu tố, cần phải
được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với bản chất và môi trường kinh tế, xã hội
cụ thể mà trong đó các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh



13


của mình. Tính chất tổng hợp còn thể hiện trong chất lượng, đặc điểm của đầu ra và
hiệu quả của các yếu tố đầu vào được xem xét ở mọi cấp độ khác nhau như quốc tế,
quốc gia, doanh nghiệp và từng cá nhân. Tăng năng suất gắn liền với việc đảm bảo
và tăng việc làm, phát triển tất cả các nguồn lực của xã hội.
Khái niệm năng suất phản ánh tính lợi nhuận, tính hiệu quả, tính hiệu lực, giá

trị, chất lượng, sự đổi mới và chất lượng cuộc sống. Đó là một chỉ tiêu tổng hợp
đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội được lượng hoá bằng mức tăng trưởng giá trị gia
tăng của tất cả các nguồn lực và các yếu tố tham gia vào một quá trình hay một loạt
các hoạt động kinh tế trong một thời gian nhất định. Năng suất là một trạng thái
tổng hợp cách thức hoạt động của con nguời và các doanh nghiệp.
Năng suất được hình thành với sự đóng góp của tất cả những hoạt động trong
một chuỗi các giai đoạn có liên quan từ nghiên cứu, thiết kế, sản xuất sản phẩm
hoàn chỉnh, cung ứng cho người tiêu dùng, sử dụng và bảo dưỡng. Năng suất phải
tính đến tác dụng tổng hợp của hàng loạt các yếu tố và tập trung vào việc thực hiện
của doanh nghiệp.
Điểm căn bản nhất của cách tiếp cận mới về năng suất là tăng số lượng sản
xuất đồng thời với tăng chất lượng. Điều này có nghĩa là sử dụng cùng một khối
lượng nguyên liệu, lao động, vốn, năng lượng,… để sản xuất một khối lượng lớn
hơn các đầu ra có cùng chất lượng hoặc có chất lượng cao hơn. Với quan niệm như
vậy, năng suất có thể hiểu là trả ít hơn và nhận nhiều hơn mà không tổn hại đến chất
lượng. Năng suất không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc rất lớn vào
chất lượng, đặc điểm của đầu ra và tính hiệu quả trong sản xuất chúng. Trong thời
kỳ đầu của sự phát triển, khi nền kinh tế còn thấp kém, năng suất và chất lượng
được xem xét trong mối quan hệ trao đổi bù trừ, để có chất lượng người ta phải hy
sinh năng suất, và ngược lại, để có năng suất phải hy sinh chất lượng. Nhưng ngày
nay, năng suất và chất lượng đã trở thành đồng hướng, thống nhất với nhau. Điều đó
có nghĩa là nếu năng suất chỉ tính đến khối lượng mà không có chứng nhận về chất
lượng thì mang rất ít ý nghĩa trong tình hình hiện nay.



14


Quan niệm mới về năng suất có định hướng đầu ra. Điều đó có nghĩa là không

chỉ chú ý đến đầu vào được sử dụng có hiệu quả như thế nào mà rất nhấn mạnh đến
tính hiệu quả của đầu ra. Năng suất cao phải tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có
các đặc tính kinh tế kỹ thuật và chức năng sử dụng thoả mãn nhu cầu khách hàng và
những đòi hỏi của xã hội, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, ít
gây ô nhiễm và không lãng phí trong quá trìng sản xuất, sử dụng và bảo dưỡng
chúng.
Năng suất luôn đi đôi với vấn đề chất lượng của các yếu tố chủ yếu tác động
đến quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển. Đó là chất lượng của đội ngũ
lao động, chất lượng của sản phẩm và dịch vụ, chất lượng của môi trường kinh tế xã
hội và chất lượng của năng lực quản lý điều hành sản xuất kinh doanh.
1.1.3 Phân loại năng suất lao động
Có nhiều cách phân loại năng suất khác nhau. Mỗi cách phân loại dựa trên
những tiêu chí khác và nhằm phục vụ những mục đích khác nhau. Ở đây có thể nêu
ra hai cách phân loại chủ yếu thường sử dụng trong phân tích đánh giá năng suất.
1.1.3.1 Căn cứ vào tính chất:
Năng suất được chia thành 3 loại: tổng năng suất, năng suất nhân tố tổng hợp
và năng suất bộ phận.
 Tổng năng suất
Khái niệm tổng năng suất phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng đầu ra và tổng
đầu vào của tất cả các yếu tố sản xuất:
Đầu ra trong một giai đoạn theo giá cố định
Tổng năng suất =
Tổng đầu vào theo giá cố định
Cụ thể hơn theo các yếu tố tổng năng:




15



Q
t

P
t
=
(L + C + R + Q)

Trong đó: P
t
: tổng năng suất
Q
t
: tổng đầu ra
L : nhân tố lao động đầu vào
C : nhân tố vốn đầu vào
R : nguyên liệu thô
Q : những hàng hóa và dịch vụ trung gian khác
Tổng năng suất cho biết những đóng góp chung của tất cả các yếu tố đầu vào
để tạo ra tổng đầu ra có giá trị. Chỉ tiêu này cho thấy một khái niệm khái quát chung
về năng suất mà không cho phép đi sâu vào phân tích phần đóng góp của riêng từng
yếu tố.
 Năng suất bộ phận
Để đánh giá sự đóng góp của từng nhân tố riêng biệt, người ta thường dùng
các chỉ tiêu năng suất bộ phận. Về mặt toán học, người ta có thể sử dụng công thức
sau:
Đầu ra (tổng hoặc ròng)
Năng suất bộ phận =
Một nhân tố

Năng suất bộ phận bao gồm hai loại cơ bản nhất là năng suất lao động và năng
suất vốn.
 Năng suất lao động



16


Lao động là nhân tố quan trọng nhất trong tất cả các yếu tố đầu vào. Vì vậy
năng suất lao động được sử dụng rộng rãi nhất và trong thực tế đôi khi người ta
đồng nghĩa nó với năng suất nói chung. Năng suất lao động phản ánh tính hiệu quả
của việc sử dụng lao động sống. Thực chất nó đưa giá trị đầu ra do một công nhân
tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định (năm, tháng, ngày, ca, giờ…) hoặc là số
thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm đầu ra. Do những thay đổi và
những dao động lớn trong luồng lao động nên thường sử dụng số công nhân trung
bình trong khoảng thời gian tính năng suất.
 Năng suất vốn:
Sự thay đổi năng suất cũng có thể do những nhân tố khác tạo nên, ví dụ như sự
thay thế lao động bằng vốn, thay đổi quy mô và công nghệ. Vì vậy phân tích sự thay
đổi của năng suất phải bao hàm sự phân tích năng suất của vốn và mức trang bị vốn
trên lao động. Năng suất vốn là một chỉ tiêu được sử dụng trong việc xác định giá
trị được tạo ra từ một đơn vị vốn sử dụng. Thông qua năng suất vốn, người ta có thể
biết được đồng vốn được sử dụng như thế nào và mức đóng góp của nó trong sự
tăng trưởng kinh tế. Vốn được định nghĩa là các tài sản cố định, các tài sản vô hình
và các tài sản lưu động. Năng suất của vốn biểu hiện thông qua một loạt các chỉ tiêu
cụ thể phản ánh tính hiệu quả của vốn nói chung và của từng yếu tố cấu thành trong
vốn nói riêng.
 Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
Nhân tố năng suất tổng hợp đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp

các nhân tố đầu vào, trong đó phải kể đến hai yếu tố cơ bản là lao động và vốn.
Theo nghĩa chung nhất TFP được xác định bằng khối lượng sản phẩm được sản xuất
ra khi mỗi yếu tố sản xuất đều cùng được sử dụng với cường độ như nhau. Chỉ tiêu
TFP phản ánh hiệu quả và tính hiệu quả của quản lý hai nhân tố đầu vào này, đồng
thời cũng đánh giá mức thay đổi của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế,
của thay đổi cơ cấu kinh tế và hiệu quả của hoạt động quản lý. Không nhất thiết lúc
nào cũng phải tăng lao động hoặc vốn để tăng đầu ra mà có thể có đầu ra lớn hơn



17


bằng cách sử dụng tối ưu nguồn lao động và vốn, cải tiến quá trình trong đó các
nhân tố đầu vào được phối hợp sử dụng tốt nhất, cải tiến chất lượng của vốn, của
lao động và chất lượng của hệ thống các hoạt động. Nhờ tác động tổng hợp các yếu
tố được phối hợp trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất đã tạo ra một giá trị gia
tăng mới cao hơn nhiều so với phép cộng giản đơn các yếu tố. Ngoài phần đóng góp
của từng nhân tố đầu vào, người ta còn thấy một phần giá trị mới do một bộ phận vô
hình tạo ra. Bộ phận không nhìn thấy này chính là tác động tổng hợp của các yếu tố
đầu vào. Chỉ tiêu TFP có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân tích, giải thích, dự
báo xu hướng tăng trưởng dài hạn bền vững ở tầm vĩ mô.
Khi nền kinh tế ở giai đoạn chín muồi, tức là đạt đến sử dụng toàn bộ lao động,
thì TFP tăng sẽ trở thành nhân tố tới hạn của tăng trưởng năng suất. Do quy luật lợi
ích giảm dần mà sử dụng công nghệ lúc này vượt quá điểm tới hạn sẽ làm giảm tăng
trưởng năng suất. Vì vậy đối với tăng năng suất trong tình trạng ổn định phải có tỷ
lệ tối ưu vốn – lao động cho cải tiến năng suất.
1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi
Năng suất có liên quan đến mọi cấp độ khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
Nó được đo ở các phạm vi quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân. Cách phân loại này

nhằm cho thấy năng suất của một quốc gia nói chung hoặc năng suất của các khu
vực, các doanh nghiệp và từng cá nhân trong nền kinh tế. Có thể so sánh với năng
suất tương ứng của các nước khác trên thế giới hoặc so sánh chúng với nhau trong
nội bộ nền kinh tế, nhờ đó có những chính sách năng suất phù hợp.
 Năng suất lao động cá biệt
Năng suất lao động cá biệt được định nghĩa như thước đo tính hiệu quả của lao
động sống, thường được biểu hiện bằng đầu ra trên 1 giờ lao động. Năng suất lao
động cá biệt ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu chuẩn sống và hầu hết các doanh nghiệp
đều chấp nhận trả công lao động theo năng suất cá biệt hoặc theo mức độ thực hiện
của từng cá nhân. Năng suất cá biệt cùng với năng suất nhóm lao động trong doanh



18


nghiệp là cơ sở quan trọng nhất, là chìa khoá cho năng suất quốc gia, góp phần xác
định khả năng cạnh tranh của mỗi nước.
 Năng suất của doanh nghiệp
Năng suất của doanh nghiệp là tỷ số giữa tổng đầu ra của doanh nghiệp với
tổng đầu vào có điều chỉnh hệ số lạm phát trong một khoảng thời gian nhất định. Vị
thế cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào chi phí và chất lượng của sản phẩm
do doanh nghiệp sản xuất ra. Chi phí thấp với chất lượng cao tạo sức mạnh cạnh
tranh cho các doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp có năng suất cao nhờ sử
dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào và tạo ra đầu ra đáp ứng được đòi hỏi của
người tiêu dùng. Năng suất của doanh nghiệp ảnh hưởng tốt đến xã hội và người lao
động. Các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược chi phí thấp sẽ cạnh tranh thắng lợi
trên thị trường thế giới. Khi các doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn từ cùng một
nguồn tài nguyên thì chúng có thể tạo ra nhiều sản phẩm sẵn có cho nền kinh tế với
giá thấp hơn và khi chúng sản xuất đủ để xuất khẩu đến các nước khác chúng thu

được nhiều nguồn tài chính hơn và dùng nguồn tài chính này thuê được nhiều lao
động và huy động khai thác được nhiều nguồn tài nguyên hơn, đầu ra sẽ tăng lên.
 Năng suất quốc gia
Ở phạm vi vĩ mô, năng suất quốc gia phản ánh tổng giá trị sản xuất trên một
người lao động ở một nước cụ thể. Năng suất quốc gia tạo sức mạnh kinh tế của đất
nước và được dùng như một chỉ số quan trọng nhất đánh giá tiêu chuẩn sống. Tăng
năng suất tức là tăng tiêu chuẩn sống của một quốc gia. Năng suất quốc gia là một
chỉ số của nền kinh tế quốc dân nói chung và đồng thời cũng là chỉ số để so sánh
giữa các nước. So sánh mức năng suất giữa các nuớc. So sánh mức năng suất giữa
các quốc gia cho thấy nước nào có sức mạnh kinh tế trên thế giới, ở tầm vĩ mô các
chỉ tiêu năng suất tương đối ít. Nguyên nhân chính là khó lấy số liệu chính xác và
số liệu thường rất tổng hợp.



19


Năng suất ngành phản ánh giá trị tổng sản phẩm quốc nội thực tế trên một lao
động trong ngành đó. Số lao động được xác định tương tự như năng suất trong nền
kinh tế quốc dân.
1.1.3.3 Căn cứ vào phương pháp tính năng suất lao động: chia ra 2 loại

Năng suất lao động thuận: biểu hiện kết quả do 1 đơn vị lao động hao phí tạo
ra trong kỳ.
Năng suất lao động nghịch: biểu hiện lượng lao động hao phí để tạo ra 1 đơn
vị kết quả trong kỳ.
1.1.3.4 Căn cứ vào đơn vị tính của chỉ tiêu kết quả: chia ra 2 loại
Năng suất lao động tính bằng hiện vật: chỉ tiêu kết quả lao động tính bằng đơn
vị hiện vật.

Năng suất lao động tính bằng giá trị: chỉ tiêu kết quả lao động tính bằng
đơn vị tiền tệ.
1.1.3.5 Căn cứ vào đơn vị tính của chỉ tiêu lao động hao phí: chia ra
Năng suất lao động bình quân (bq) giờ: phản ánh hiệu quả của 1 giờ công làm
việc trong kỳ.
NSLĐ bq giờ = Kết quả sản xuất trong kỳ/ Tổng giờ công làm việc
thực tế trong kỳ
Năng suất lao động bình quân (bq) ngày: phản ánh hiệu quả của 1 ngày công
làm việc trong kỳ.
NSLĐ bq ngày = Kết quả sản xuất trong kỳ/ Tổng ngày công làm việc
thực tế trong kỳ
Năng suất lao động bình quân (bq) tháng (quý, năm): phản ánh hiệu quả sử
dụng 1 lao động trong 1 tháng (hay 1quý, 1 năm).




20


NSLĐ bq tháng = Kết quả sản xuất trong tháng/ Số lao động bình quân
tháng
(quý, năm) (quý, năm) (quý, năm)
Chú ý: Kết quả sản xuất có thể biểu hiện qua các chỉ tiêu: khối lượng sản
phẩm sản xuất, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng.
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT
Năng suất chịu tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau. Toàn bộ những
nhân tố tác động đến đầu vào và đầu ra đều là những nhân tố tác động đến năng
suất. Đó là môi trường kinh tế chính trị trên thế giới, cơ quan quản lý và chính sách
kinh tế vĩ mô của chính phủ, tình hình thị trường, trình độ công nghệ, hệ thống tổ

chức quản lý, tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, mối quan hệ lao động - quản lý,
khả năng về vốn, phát triển nguồn nhân lực… Tất cả các nhân tố này có mối quan
hệ trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng suất. Có thể biểu diễn sự tác động của các nhân
tố này theo sơ đồ sau:












21



Hình 1.1 Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất
Chú thích: Yếu tố bên ngoài
Yếu tố bên trong
Như vậy các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất có thể được chia thành hai
nhóm chủ yếu là nhóm nhân tố bên ngoài bao gồm môi trường kinh tế thế giới, tình
hình thị trường, cơ chế chính sách kinh tế của nhà nước và nhóm nhân tố bên trong
bao gồm nguồn lao động, vốn, công nghệ, tình hình và khả năng tổ chức quản lý, tổ
chức sản xuất.
Môi trường kinh tế
thế giới:

- Tình hình kinh tế
thế giới
- Trao đổi quốc tế
- Tình hình các
nguồn lực
Tình hình thị trường:
- Nhu cầu
- Cạnh tranh
- Giá cả
- Chất lượng
Cơ chế quản lý và
chính sách vĩ mô:
- Chính sách đối
ngoại
- Chính sách cơ
cấu kinh tế
Trình độ quản lý:
- Đội ngũ cán bộ
quản lý
- Cơ cấu thứ bậc
(tính tập trung, dân
chủ)
- Cơ chế hoạt động

Khả năng và tình
hình tổ chức sản
xuất:
- Quy mô
- Chuyên môn hoá
- Liên kết kinh tế

Công nghệ:
-Máy móc
thiết bị
-Nguyên liệu
- Quá trình
Các nhân tố
ảnh hưởng
tới năng suất
Lao động:
- Số lượng
- Chất
lượng
- Trình độ
tay nghề,
chuyên môn
Vốn:
- Nguồn
cung cấp
- Cơ cấu
- Tình hình
tài chính
Điều kiện làm
việc:
- Vệ sinh
- Thẩm mỹ
- Tâm lý xã
hội
- Tổ chức lao
động và nghỉ
ngơi




22


1.2.1 Lao động:
Là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất tác động đến năng suất. Năng suất của
mỗi quốc gia, ngành và doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào trình độ văn hoá, chuyên
môn, tay nghề, kỹ năng, năng lực của đội ngũ lao động. Nếu không có sự phối hợp
phát triển tốt nguồn nhân lực thì các yếu tố vốn, công nghệ khó có thể phát huy
được tác dụng. Trong các doanh nghiệp, năng suất là một trạng thái tổng hợp của
cách thức hoạt động của con người và các doanh nghiệp. Có thể coi sự phát triển
của năng suất là một quá trình phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân
lực lại chịu tác động trực tiếp của hệ thống giáo dục, đào tạo, giá trị xã hội truyền
thống, văn hoá của từng dân tộc, từng vùng. Xây dựng, phát triển và nâng cao trình
độ kỹ năng của nguồn nhân lực sẽ tạo điều kiện sản xuất có hiệu quả cao hơn với
chất lượng cao hơn.
1.2.2 Vốn:
Vốn theo nghĩa chung nhất được biểu hiện cả bằng các yếu tố công nghệ, thiết
bị máy móc, nguyên liệu. Việc đảm bảo vốn đầy đủ kịp thời và sử dụng có hiệu quả
vốn sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến năng suất. Cơ cấu vốn có liên quan đến tỷ
trọng đầu tư các đầu vào. Đầu tư vào máy móc thiết bị là những đầu vào tích cực
tạo ra nhiều sản phẩm hơn với cơ sở hạ tầng. Công nghệ và đổi mới công nghệ có
hiệu quả sẽ tạo ra bước nhảy vọt trong năng suất. Công nghệ hiện đại có ảnh hưởng
trực tiếp đến nâng cao trình độ lao động, trình độ quản lý và tính hiệu quả của
doanh nghiệp. Công nghệ cao hơn khuyến khích lực lượng lao động và quản lý tạo
ra nhiều giá trị gia tăng hơn với chi phí thấp hơn. Và khả năng thích ứng với nhu
cầu liên quan đến việc khai thác công suất, năng lực sản xuất tốt hơn nếu đáp ứng
nhu cầu thị trường.

1.2.3 Trình độ quản lý:
Năng suất tối đa khi có sự phối hợp đầy đủ nhất giữa quản lý, lao động và yếu
tố công nghệ. Nói cách khác cần tạo ra môi trường tốt nhất cho phối hợp giữa quản
lý và lao động. Mối quan hệ đó tự bản thân nó là kết quả của năng suất. Xây dựng



23


tốt mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động, hình thành tinh thần quản lý
mới trong đó luôn tôn trọng và khuyến khích tính tự chủ sáng tạo của lực lượng lao
động tạo ra sức mạnh tổng hợp phát huy hiệu quả của các yếu tố sản xuất, đặc biệt
là con người. Đảm bảo chế độ tuyển dụng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực theo
chiến lược dài hạn vì mục tiêu chung của doanh nghiệp, xã hội và người lao động.
1.2.4 Trình độ và khả năng tổ chức sản xuất:
Trình độ và khả năng tố chức sản xuất của mỗi của mỗi doanh nghiệp có tác
dụng mạnh mẽ tới năng suất thông qua việc xác định phương hướng phát triển theo
hướng phát triển, phương án đầu tư, phương án lựa chọn công nghệ, cách thức tố
chức bố trí dây chuyền công nghệ và cơ cấu tổ chức sản xuất. Phát triển chuyên
môn hóa kết hợp đa dạng hóa cùng với những phương án quy mô hợp lý cho phép
khai thác tối đa lợi thế quy mô giảm chi phí, nâng cao năng suất các yếu tố đầu vào.
Kết quả hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành còn phụ thuộc lớn vào tình hình
tổ chức phối hợp với các hoạt động kinh tế thông qua các hình thức tố chức liên
doanh, liên kết nhằm phát huy sức mạnh chung, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu
thụ trên thị trường.
1.2.5 Cơ chế, chính sách kinh tế của nhà nước:
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi nhằm
nâng cao năng suất. Các vấn đề như môi trường, pháp luật, hệ thống chính sách
kinh tế vĩ mô bao gồm chính sách phúc lợi xã hội, hệ thống hành chính, các phương

pháp và hệ thống giáo dục… đều là những nhân tố tác động đến năng suất. Khuôn
khổ pháp lý và các chính sách kinh tế có tác động rất lớn đến việc giúp các doanh
nghiệp đảm bảo sự cân bằng thống nhất giữa các mục tiêu xã hội. Trong chính sách
kinh tế vĩ mô thì chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách cơ cấu, chính sách tài
chính tiền tệ có tác động rất mạnh mẽ đến năng suất. Phối hợp đồng bộ các chính
sách này tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp khai thác huy
động các nguồn vốn, công nghệ và lao động mở rộng sản xuất, thị trường đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Các biện pháp, chính



24


sách hỗ trợ, tư vấn các thông tin về thị trường xuất khẩu, đổi mới công nghệ và
những kiến thức trong những lĩnh vực chuyên môn khác có ảnh hưởng trực tiếp tới
năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
Năng suất thay đổi còn do tác động của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là
một trong những nhân tố tác động lớn và theo hướng ngày càng tích cực. Sự chuyển
dịch cơ cấu hợp lý cho phép khai thác phát huy lợi thế cạnh tranh, sử dụng có hiệu
quả nhất các nguồn lực sẵn có trong nước, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhân tố này
đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển mà ở đó sự phát
triển nền kinh tế đang đặt ra yêu cầu cấp thiết của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo một cách có hiệu quả hơn. Tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, chuyển
các nguồn lực từ các khu vực, các ngành kinh tế kém hiệu quả sang các ngành có
hiệu quả hơn, các ngành có tương lai và các ngành có hàm lượng khoa học công
nghệ cao. Sự chuyển dịch lao động sang các khu vực năng suất cao hơn sẽ tạo ra
đầu ra nhiều hơn. Tuy nhiên, việc xác định mức độ và lượng hoá ảnh hưởng của
nhân tố này đến tăng năng suất đang là một vấn đề còn gặp nhiều khó khăn và cần
phải nghiên cứu giải quyết đối với tất cả các nước trên thế giới.

1.2.6 Điều kiện lao động
Ngoài các yếu tố trên thì điều kiện lao động cũng là một trong những nhân tố
tác động đến năng suất lao động. Điều kiện lao động là tổng thể các nhân tố về tâm
sinh lý, vệ sinh lao động, thẩm mỹ sản xuất liên quan chặt chẽ với nhau có ảnh
hưởng đến sức khoẻ và khả năng làm việc của người lao động.
1.2.6.1 Điều kiện vệ sinh lao động:
 Nhiệt độ:
Nhiệt độ cao có ảnh hưởng tới năng suất lao động và tâm sinh lý con người. Ở
nhiệt độ thấp, phần lớn năng lượng của cơ thể bị tiêu phí, nhưng không phải do làm
việc mà để chống lạnh. Khi nhiệt độ bên ngoài hạ thấp thì hoạt động trao đổi nhiệt



25


và điều hoà nhiệt của cơ thể tăng lên, sự hao tổn năng lượng tăng lên, khả năng chú
ý của con người giảm nhanh, dẫn đến làm giảm năng suất lao động.
Ở nhiệt độ cao, cơ thể phải mất thêm năng lượng để giữ cho nhiệt độ cơ thể
bình thường. Nhiệt độ cao làm cho sự hô hấp tăng lên, mồ hôi ra nhiều làm giảm
lượng muối trong cơ thể, cảm thấy đắng miệng, dẫn đến sự uể oải, các động tác
chậm lại và kết quả lao động giảm xuống. Nếu liên tục bị nóng mà không khắc phục
có thể làm tăng huyết áp, viêm loét dạ dày, suy nhược thần kinh, vẫn đục nhãn mắt,
giãn khí quản, phế quản. Ở nước ta vào những ngày hè, nhiệt độ lên rất cao, nên có
những biện pháp chống nóng:
 Nếu làm việc ngoài trời phải có bảo hộ lao động cá nhân tốt, che chắn địa
điểm lao động, cung cấp nước uống.
 Nếu làm việc trong nhà, cần che chắn các nguồn bức xạ nhiệt, tiến hành các
biện pháp thông gió công nghiệp…
 Trồng cây xanh: khi xác định vị trí và chọn cây để trồng cần chú ý:

 Phải có tác dụng làm mát công trình tạo các khối không khí mát thổi vào
nhà.
 Phải có tác dụng che nắng công trình, làm giảm lượng phản xạ.
 Không cản gió mát trong mùa hè, nhưng cản gió lạnh vào mùa đông.
 Độ ẩm:
Khi độ ẩm cao gây cảm giác ngột ngạt khó thở vì con người mất khả năng toả
nhiệt thừa qua con đường bốc hơi mồ hôi. Nhiệt độ không khí cao phối hợp với độ
ẩm cao sẽ tác động đến hệ thống tim mạch, hô hấp, đến sự cân bằng muối, đến nhiệt
độ cơ thể.
Để chống ẩm, ta nên lau nhà cho sạch, thực hiện thông gió cho tốt.
 Tiếng ồn và rung động:

×