Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu bệnh lở loét trên cá hồi vân (oncorhynchus mykiss walbaum, 1792) nuôi tại lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 91 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG





TRẦN THỊ BẠCH DƯƠNG





NGHIÊN CỨU BỆNH LỞ LOÉT TRÊN CÁ HỒI VÂN
(ONCORHYNCHUS MYKISS WALBAUM, 1792)
NUÔI TẠI LÂM ĐỒNG











LUẬN VĂN THẠC SĨ














Nha Trang - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG




Trần Thị Bạch Dương






NGHIÊN CỨU BỆNH LỞ LOÉT TRÊN CÁ HỒI VÂN
(ONCORHYNCHUS MYKISS WALBAUM, 1792)
NUÔI TẠI LÂM ĐỒNG




Chuyên ngành: Nuôi trồng thủy sản
Mã số: 60 62 70




LUẬN VĂN THẠC SĨ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐỖ THỊ HÒA
:








Nha Trang - 2011
i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là do chính bản
thân tôi thực hiện dưới sự chỉ bảo tận tình, chu đáo của cô hướng dẫn: PGS.TS.
Đỗ Thị Hòa.
Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả


Trần Thị Bạch Dương

















ii


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu trường Đại học
Thuỷ Sản, Khoa Nuôi Trồng Thuỷ Sản tài trợ đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tạo điều kiện của Phòng sinh học
thực nghiệm, đề tài Bệnh cá tầm và cá hồi nuôi ở Lâm Đồng - Viện NCNTTS 3
đã giúp đỡ tôi về trang thiết bị nghiên cứu, cơ sở thí nghiệm trong thời gian
thực hiện đề tài. Đặc biệt tôi hết lòng biết ơn chủ nhiệm đề tài TS Võ Thế Dũng
và chị Võ Thị Dung đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện và nghiên cứu.

Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự chỉ dẫn tận tình, chu đáo của cô
giáo hướng dẫn PGS. TS. Đỗ Thị Hòa trong suốt quá trình thực hiện luận văn
về phương pháp nghiên cứu và báo cáo khoa học.

Cuối cùng, cho phép tôi tỏ lòng biết ơn đến gia đình và bạn bè tôi,
những người đã luôn động viên và khích lệ tinh thần tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành đề tài tốt nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Trần Thị Bạch Dương

iii

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

1.1. Hình thái phân loại và đặc điểm sinh học cá hồi vân Oncorhynchus mykiss
Walbaum, 1792 3
1.1.1. Vị trí phân loại: 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái: 3
1.1.3. Đặc điểm sinh học và phân bố 4
1.1.3.1. Phân bố 4
1.1.3.2. Đặc điểm sinh học 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh ở cá hồi vân trên thế giới 6
1.2.1. Bệnh do vi khuẩn 6
1.2.1.1. Bệnh nhọt 6
1.2.1.2. Bệnh do Vibrio 8
1.2.1.3. Bệnh đỏ miệng 9
1.2.1.4. Bệnh thận do vi khuẩn 10
1.2.1.5. Bệnh thối vây do vi khuẩn trượt 12
1.2.2. Bệnh do kí sinh trùng 14
1.2.2.1. Bệnh đốm trắng 14
1.2.2.2. Bệnh do Gyrodactylus spp 15
1.2.2.3. Myxosporea gây bệnh xoắn 16
1.2.2.4. Bệnh sưng thận do kí sinh trùng 18
1.2.3. Bệnh do virus 18
1.2.3.1. Bệnh virus gây hoại tử cơ quan tạo huyết 19
1.2.3.2. Bệnh nhiễm trùng xuất huyết do virus 21
1.2.3.3. Bệnh virus gây hoại tử tuyến tụy 22
1.2.4. Bệnh do nấm kí sinh 23
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Thu mẫu và xử lí mẫu 25
2.1.1. Thu mẫu: 25
2.1.2. Xử lí mẫu 25
iv


2.2. Nghiên cứu KST: 25
2.2.1. Phương pháp xác định mức độ cảm nhiễm 26
2.2.2. Định danh ký sinh trùng 27
2.3. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn: 27
2.3.1. Phương pháp phân lập, nuôi cấy và định danh vi khuẩn : 28
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu độ nhạy kháng sinh (kháng sinh đồ) của
vi khuẩn gây bệnh: 29
2.3.3.Phương pháp mô bệnh học 29
2.3.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm cảm nhiễm vào cá khỏe 31
2.3.5. Xử lý cá bệnh sau thí nghiệm 31
2.4. Nghiên cứu bệnh nấm 32
2.4.1. Môi trường nuôi cấy 32
2.4.2. Phương pháp nuôi cấy và phân loại nấm 32
2.5. Xử lý số liệu 31
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
3.1. Bệnh lở loét ở cá hồi vân nuôi tại Lâm Đồng 34
3.2. Kết quả nghiên cứu kí sinh trùng bệnh lở loét ở cá hồi vân 36
3.3. Kết quả nghiên cứu vi khuẩn và mô bệnh học 40
3.3.1. Phân lập vi khuẩn 40
3.3.2. Tần số bắt gặp các loài vi khuẩn trên cá bệnh 43
3.3.3. Tính nhạy cảm của các chủng vi khuẩn có tần số bắt gặp cao từ cá
bệnh đối với một số loại kháng sinh thông dụng 45
3.3.4. Kết quả nghiên cứu mô bệnh học 48
3.3.6. Kết quả nghiên cứu cảm nhiễm vi khuẩn 50
3.4. Kết quả nghiên cứu nấm: 53
CHƯƠNG 4 56
4.1 Kết luận 56
4.2. Đề xuất ý kiến: 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
Tài liệu tiếng Anh 59

Tài liệu tiếng Việt 76
v

Các trang web 76
PHỤ LỤC 77

vi

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1.Cá hồi vân Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792 3
Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu KST 26
Hình 2.2. Sơ đồ nghiên cứu vi khuẩn 27
Hình 2.3. Sơ đồ thí nghiệm cảm nhiễm 31
Hình 2.4. Sơ đồ nghiên cứu nấm 33
Hình 3.1. Cá hồi bị bệnh lở loét 34
Hình 3.2. Nội quan cá hồi vân bị bệnh lở loét 35
Hình 3.3. Kí sinh trùng trên cá hồi vân 37
Hình 3.4. Tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm KST trên cá hồi vân 37
Hình 3.5. Thành phần các loài vi khuẩn phân lập 41
Hình 3.6. Tần số bắt gặp các loài vi khuẩn trên nhóm cá bệnh 43
Hình 3.7. Vi khuẩn A. hydrophila và B.cepacia 45
Hình 3.8. Kết quả thử kháng sinh đồ 46
Hình 3.9. Mô học gan cá khỏe và gan cá bị bệnh lở loét 49
Hình 3.10. Mô học thận cá khỏe và thận cá bị bệnh lở loét 49
Hình 3.11.Mô học cơ cá khỏe và cơ cá bị bệnh lở loét 50
Hình 3.12. Tỉ lệ tử vong tích lũy trong thí nghiệm tiêm VK A.hydrophila 51
Hình 3.13. Cá sau khi tiêm vi khuẩn A.hydrophila 52
Hình 3.14. Cá sau khi tiêm vi khuẩn B.cepacia 52
Hình 3.15 . Tỉ lệ tử vong tích lũy trong thí nghiệm tiêm VK B.cepacia 54

Hình 3.16. Nấm Saprolegnia sp 54


vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Sản lượng cá hồi nuôi trên thế giới 4
Bảng 3.1. Dấu hiệu bệnh lý bệnh lở loét ở cá hồi vân 35
Bảng 3.2. Thành phần các loài kí sinh trùng trong mẫu bệnh lở loét ở cá hồi
vân 36
Bảng 3.3. Đặc điểm sinh hóa các loài vi khuẩn phân lập 42
Bảng 3.4. Tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh 46



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


OX cytocrome oxidase
ONPG galactopyranosidase
ADH Argininedihydrolase
LDC Lysine decacboxylase
ODC Ornithine decacboxylase
CIT Citrate
H
2
S H
2
S prduction

URE Urease
TDA Tryptophanedeminase
IND Indole production
VP Acetoin production (Voges Proskauer)
GEL Gelatinase
GLU Lên men/oxi hóa glucose
MAN Lên men/oxi hóa manitole
INO Lên men/oxi hóa inositole
SOR Lên men/oxi hóa Sorbitole
RHA Lên men/oxi hóa Rhaminose
viii

SAC Lên men/oxi hóa Sucrose
MEL Lên men/oxi hóa Melibiose
AMY Lên men/oxi hóa Amygdalin
ARA Lên men/oxi hóa Arabinose
NO
2
Sinh nitrite
MOB Khả năng di động
VK Vi khuẩn
ERM Enteric redmouth
BKD Bacteral kidney disease
RTFS Rainbow trout fry syndrome
BCW bacterial cold-water diseases
WD Whirling disease
PKD Proliferative kidney disease
IHNV Infectious Haematopoietic Necrosis
VHS Viral haemorhagic septicaemia
IPN Infectious pancreatic necrosis

mm milimét
µm micromét
µg microgram
g gram
l lít
ml mililít
KST Ký sinh trùng
CĐN Cường độ nhiễm
TLN Tỷ lệ cảm nhiễm
TSBG Tần số bắt gặp
CTV cộng tác viên


ix












1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792) là một trong những loài
cá nước lạnh có giá trị kinh tế cao, được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới

như Nauy, Phần Lan, Đan Mạch, Ấn Độ, Đài Loan…
Nhằm mục đích đa dạng hóa đối tượng nuôi và phục vụ nhu cầu nội địa, cá
hồi lần đầu tiên được đưa vào Miền Bắc Việt Nam năm 2005. Từ đó đến nay cá hồi
được nuôi thành công ở một số nơi như Lâm Đồng, Lào Cai, Lai Châu. Tại Lâm
Đồng, nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư hàng tỉ đồng, cho đến
nay đã mang lại nguồn thu nhập cao, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động,
xóa đói giảm nghèo hiệu quả, đồng thời cá hồi trở thành đặc sản thu hút du khách.
Với những giá trị kinh tế đó, nghề nuôi cá hồi tại Lâm Đồng sẽ phát triển mạnh
trong những năm tới.
Tuy nhiên kinh nghiệm của nhiều quốc gia như Nauy, Phần Lan, Đài
Loan,…và thực tế nước ta cho thấy, một khi nuôi trồng thủy sản phát triển theo
hướng năng suất cao thì luôn đi kèm sự phát sinh của dịch bệnh và đó luôn là một
trong những khó khăn của nuôi trồng thủy sản. Và gần đây, trong quá trình ương
nuôi cá Hồi tại Lâm đồng cũng bắt đầu xuất hiện một số bệnh gây chết cá rải rác
như bệnh lở loét, bệnh nấm trên thân…Vì vậy, phân tích tác nhân gây bệnh, thử độ
nhạy kháng sinh đối với các tác nhân có tần số bắt gặp cao, cường độ nhiễm lớn
nhằm đưa ra biện pháp phòng trị bệnh hữu hiệu là rất cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, được sự đồng ý của khoa nuôi trồng Thủy sản
Trường Đại Học Nha Trang, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu bệnh lở loét trên cá
Hồi vân (Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792) nuôi tại Lâm Đồng”
Mục tiêu đề tài:
- Phát hiện tác nhân sinh vật cảm nhiễm trên cá hồi vân bị bệnh lở loét
- Bước đầu xác định tác nhân gây bệnh bệnh lở loét cho cá hồi vân
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Ý nghĩa khoa học: Bổ sung những tư liệu về tình hình bệnh và khả năng gây
bệnh của các tác nhân, từ đó có cơ sở để phòng trị bệnh cho cá hồi.
2
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc phòng trị
bệnh nhằm phát triển ổn định nghề nuôi cá Hồi ở Lâm Đồng, tăng năng suất nuôi
góp phần nâng cao sản lượng cho người nuôi.

Do kinh nghiệm bản thân về lĩnh vực đang nghiên cứu còn nhiều hạn chế,
bản luận văn sẽ không tránh khỏi sai sót nhất định. Kính mong nhận được sự đóng
góp ý kiến và lượng thứ của quý Thầy Cô, các anh chị và bạn bè đồng nghiệp.

Học viên
Trần Thị Bạch Dương
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hình thái phân loại và đặc điểm sinh học cá hồi vân Oncorhynchus mykiss
Walbaum, 1792
1.1.1. Vị trí phân loại
Ngành: có dây sống Chordata
Lớp: cá vây tia Actinopterygii
Bộ: cá hồi Salmoniformes
Họ: cá hồi Salmonidae
Giống: Oncorhynchus
Loài: Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792









1.1.2. Đặc điểm hình thái:
Thân cá thon dài, hình thoi, có 60 – 66 đốt sống, vây lưng có 3 – 4 gai cứng,
10 – 12 tia vây mềm; vây hậu môn có 3 – 4 gai cứng, 8 – 12 tia vây mềm; 19 tia vây
đuôi. Vây mỡ màu đen. Trong mùa sinh sản, có thay đổi nhỏ xảy ra ở đầu, miệng và

màu sắc ở cá đực, dọc theo đường bên là dải màu hơi hồng và màu bạc phía dưới
bụng. Lưng, đầu và vây phủ bằng những đốm nhỏ màu đen. Màu sắc cơ thể khác
nhau tùy môi trường sống, kích thước, và giai đoạn sinh sản. Cá sống ở dòng suối
có màu sẫm, trong khi cá sống ở hồ có màu sắc sáng hơn.


Hình 1.1. Cá hồi vân Oncorhynchus mykiss Walbaum, 1792
4
1.1.3. Đặc điểm sinh học và phân bố
1.1.3.1. Phân bố
Cá hồi vân là một loài quan trọng đối với ngành nuôi trồng thủy sản ở các nước ôn
đới, nhiệt đới và cận nhiệt đới (Bảng 1), nơi mà nó thích nghi tốt với sự thay đổi khí hậu và
nhiệt độ nước. Loài cá nước ngọt này có nguồn gốc ở phía tây bắc Mỹ, ven bờ Thái Bình
Dương, được nhập vào châu Âu từ cuối thế kỷ 19. Sau khi được di nhập đến Anh, chúng
nhanh chóng có mặt trên khắp quần đảo do tốc độ tăng trưởng nhanh và ít đòi hỏi sự
nghiêm ngặt về chất lượng nước. Ở Anh, sản lượng cá hồi duy trì ở mức 16000 tấn trong
suốt 10 năm qua, và ở Scotland sản xuất tới 4.370 tấn cá hồi vân vào năm 2000 [75].
Bảng 1.1. Sản lượng cá hồi nuôi trên thế giới. Đơn vị 1000 tấn.
Thái Bình Dương 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Japan
Chile
Canada
New Zealand

Total

9
97
17
5

128
10
103
21
9
143
12
115
21
10
158
10
115
10
10
145
10
120
8
10
148
10
113
7
10
140
10
70
7
10

97
Nguồn: Audun Lem, FAO Globefish, 2009.
Tính đến năm 2002 cá hồi được nuôi ở 64 quốc gia thuộc tất cả các đại lục
trừ châu Phi, điển hình như Chi Lê, Hoa Kỳ, Na Uy, Anh, Úc, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Israel, Ấn Độ, Nepal. Trứng cá hồi vân lần đầu tiên được nhập vào Việt nam
năm 2005, kể từ đó được nuôi ở nhiều vùng có khí hậu lạnh như Lào Cai, Lai Châu,
Lâm Đồng.
1.1.3.2. Đặc điểm sinh học
Cá hồi vân thuộc loài cá dữ. Chúng có thể bắt các động vật có chiều dài bằng
1/3 cơ thể của chúng. Ngoài ra, cá hồi vân còn ăn côn trùng, giáp xác nhỏ, nhuyễn
thể. Một số sống ở nước tĩnh còn ăn sinh vật phù du. Do tỷ lệ thức ăn là cá trong
thành phần thức ăn của cá hồi tự nhiên chỉ vào khoảng dưới 50% nên mức độ hung
5
dữ và tác hại của nó đối với đàn cá tự nhiên không nghiêm trọng lắm. Cá hồi vân
trong tự nhiên có thể hoàn toàn không ăn cá mà chỉ ăn côn trùng và giáp xác nhỏ.
Cá hồi vân là loài cá khỏe, phát triển nhanh, dễ dàng đẻ trứng trong điều kiện
tự nhiên. Chúng chịu được nhiệt độ từ 0 – 27°C, nhưng sinh sản và tăng trưởng tốt
ở 9 – 14°C. Nhiệt độ tối ưu khi nuôi cá hồi là dưới 21°C [186].
Vào cuối mùa đông, đầu xuân, cá cái bắt đầu kiếm khu vực để sinh sản,
những nơi có chất đáy là đá sỏi, có nhiều oxy. Cá cái đẻ trứng vào kẽ đá, cá đực
phun tinh dịch vào đó. Ngoài tự nhiên, cá chỉ đẻ trứng một lần, vào mùa xuân
(tháng 1 – tháng 5). Trong hệ thống nuôi nhân tạo, cá hồi vân không đẻ trứng. Vì
vậy, người ta phải thực hiện việc thụ tinh nhân tạo và ấp trứng trong khay có dòng
nước chảy. Các giai đoạn phát triển diễn ra như sau:
Trứng (egg): là sản phẩm của tuyến sinh dục cá cái. Cá cái đẻ tới 2000
trứng/kg trọng lượng cơ thể. Trứng cá hồi có màu vàng nhạt hoặc vàng cam, đường
kính tương đối lớn (3-7 mm). Trứng phát triển đầy đủ sẽ rụng và chảy ra ngoài. Sau
khi thụ tinh, sự phát triển của phôi thai diễn ra bên trong trứng. Giai đoạn này cần
giữ yên tĩnh để phôi phát triển bình thường [187].
Trứng có điểm mắt (eye-eggs): Khi trứng được thụ tinh sẽ phát triển thành

trứng có điểm mắt (do phôi trong trứng có màu đen), giai đoạn này người ta có thể
vận chuyển đi xa mà không có ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của phôi.
Cá bột (alevins): sau giai đoạn trên khoảng 2 – 4 tuần thì cá nở tùy thuộc
nhiệt độ nước. Cá mới nở có bao noãn hoàng khá lớn. Ở giai đoạn này cá nằm đáy,
dinh dưỡng nhờ vào các chất dữ trữ ở noãn hoàng bao gồm protein, đường, muối
khoáng, vitamin. Giai đoạn này có thể kéo dài vài ba tuần, cá tiếp tục hoàn thiện sự
phát triển miệng và mắt [187].
Cá hương (fry): tính từ lúc cá bột bơi lên gần mặt nước tự tìm kiếm thức ăn,
thường là côn trùng thủy sinh nhỏ, giai đoạn này nhờ bóng hơi mà cá hoạt động dễ
dàng. Đến cá giống, kích thước đã đạt tới khoảng 5 – 12cm [187].
Cá trưởng thành (adults): Cá đã phát triển đầy đủ, sau 2 năm có thể tham gia
đi đẻ. Kích cỡ cá trưởng thành từ 30 – 75cm (lớn nhất 90cm), nặng từ 1 – 7kg (nặng
6
nhất tới 9kg). Ở điều kiện 12
o
C, cá 2 tuổi, 600g trở lên đã có thể cho đẻ. Hệ số
thành thục đạt 20% [187]
1.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh ở cá hồi vân trên thế giới
Sự gia tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản được cho là vấn đề cơ bản dẫn tới
sự gia tăng bệnh truyền nhiễm. Việc nuôi mật độ cao, sự căng thẳng khó tránh khỏi
là những điều kiện bất lợi tạo cơ hội cho sự xuất hiện và lây lan của mầm bệnh.
Tương tự như thế, ngành công nghiệp cá hồi đã đưa tới hậu quả là sự lan tràn của
nhiều loại dịch bệnh khác nhau, thiệt hại kinh tế rất lớn. Cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss Walbaum, 1792) cũng mắc nhiều loại bệnh, có những bệnh giống như các
loài cá hồi khác và có những bệnh đặc trưng cho loài.
1.2.1. Bệnh do vi khuẩn
1.2.1.1. Bệnh nhọt - Furunculosis
Trong một thời gian dài, đây được coi như là một căn bệnh xảy ra riêng ở cá
hồi, trong đó có cá hồi vân. Tuy nhiên, ở nhiều loài khác như cá chình Anguilla
anguilla, cá rô Anabas sp, cá chép Cyprinus carpio, cá tuyết Gadus morhua và vài

loại cá biển vẫn có xuất hiện bệnh. Trong hầu hết trường hợp, các nhà khoa học chỉ
ra nguyên nhân gây bệnh là do các loài cá này đã có mối liên hệ với quần thể cá hồi
có biểu hiện lâm sàng hoặc tiềm ẩn mang tác nhân gây bệnh [24].
Các báo cáo đầu tiên xác nhận sự có mặt và mô tả bệnh nhọt là vào đầu năm
1894, tại một ổ dịch của trại giống cá hồi nâu Salmo trutta ở Bavaria (Đức), với
những dấu hiệu bệnh lí đặc trưng như tổn thương và loét trên cơ thể cá mắc bệnh.
Emmerich và Weibel (1894) thực hiện việc phân lập và theo các tác giả này
Aeromonas salmonicida là tác nhân chính (Syn: Bacillus salmonicida, Bacterium
salmonicida, Bacterium trutta) [185].
Năm 1935, các báo cáo về bệnh này cũng được ủy ban FC (Furunculosis
Committee) tại Scotland đưa ra, rằng đây là bệnh thường gặp nhất trong mùa hè, khi
mực nước sông thấp và khi nhiệt độ nước nằm trong khoảng 55-66°F, đặc biệt đối
với cá hồi giống [80].
7
Tại Nauy, sau báo cáo về ổ dịch đầu tiên vào năm 1980, bệnh lây lan một
cách nhanh chóng, ước tính tổn thất kinh tế hơn 100 triệu đô. Tuy nhiên, người ta
không thể tính toán được hết các tổn thất do bệnh này gây ra đối với cá hồi ngoài tự
nhiên bởi theo thống kê của chính phủ Nauy thì hàng năm số lượng cá hồi nuôi thất
thoát do thiên tai, hoặc thiết bị lồng hư hỏng khoảng từ 0.5 – 2 triệu cá. Có thể đây
là một con đường lây lan bệnh ra ngoài. Không bao lâu sau đó bệnh lại tiếp tục xảy
ra rộng khắp trên các trang trại ở Scotland, Bỉ, Áo, Đức, Canada, Broughton
Archipelago (British Columbia) và Washington [102].
Do đó, càng ngày càng có nhiều nghiên cứu chuyên sâu hơn về tác nhân gây
bệnh. Kirkan và ctv (2003) xác định được tính nhạy cảm kháng sinh của Aeromonas
salmonicida phân lập từ cá hồi vân nuôi ở một trang trại tại Thổ Nhĩ Kỳ [86].
Các nghiên cứu của Holt và cộng sự 1994 [72] cho thấy Aeromonas
salmonicida với ít nhất bốn phân loài Aeromonas salmonicida, Aeromonas
achromogenes, Aeromonas masoucida và Aeromonas smithia gây ra bệnh nhọt cho
cá hồi vân [54]. Hammel (1995) cho biết, chủng A. salmonicida subsp. salmonicida
gây ra dạng “điển hình” với biểu hiện nhiễm trùng máu trầm trọng, đi kèm với hiện

tượng hoại tử trên diện rộng, tỷ lệ tử vong cao, tiêu biểu như ở Nova Scotia, Canada
[65]. Nhiễm trùng cấp tính thường xảy ra với cá giống và trưởng thành, cá có màu
tối đen, xuất huyết tại gốc vây và miệng. Nội tạng xuất huyết thấy rõ ở thành bụng,
lá lách, gan; cá bơi lội thất thường, trở nên chậm chạp, và ngừng ăn, dạ dày ít có
thức ăn mà đầy chất nhầy và máu [133].
Theo Hastings (1988), các con đường lây nhiễm thường là thông qua cá bị
nhiễm và do sự ô nhiễm nước [67]. Một khía cạnh quan trọng được chú ý là tỷ lệ tử
vong tùy thuộc vào thông số môi trường, tuổi, mùa vụ và sức đề kháng bẩm sinh
của vật chủ. Do đó, bệnh cũng có thể xảy ra ở cá con, cá bột, ở nhiệt độ thấp tới 2°C
- 4°C [47]. Hơn nữa, các nhà khoa học cho biết rằng A.salmonicida có khả năng tồn
tại với nồng độ cao trong trầm tích [43]. Và như Inglis (1993) thông báo, ba cơ quan
thường bị nhiễm trùng nhiều nhất là da, mang và ruột cá [80].
8
Do những thiệt hại do bệnh gây ra trên cá hồi, nên nhiều loại vaccine phòng
bệnh được sản xuất. Thế nhưng người ta lại nghi ngờ tính hiệu quả của chúng vì vẫn
còn vài nhược điểm. Hiện nay có loại vaccine đa giá (Polyvalent ) phòng bệnh cả do
vi khuẩn dạng dấu phẩy và do A.salmonicida khá hiệu quả.
1.2.1.2. Bệnh do Vibrio (Vibriosis)
Vibriosis là một trong những bệnh phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng đối với
cá hồi nuôi, tác nhân chính được xác định là các loài Vibrio spp. Bệnh này có mặt ở
châu Mỹ, châu Âu và Viễn Đông. Cá bệnh có dấu hiệu tổn thương lớn trên da và cơ,
xuất huyết ở mang, mắt và vây. Bệnh xảy ra ở nhiều mức nhiệt độ, nhưng thường diễn
ra ở nhiệt độ trên 10
0
C. Bệnh lan truyền qua nước có cá nhiễm bệnh. Trong số các tác
nhân thì V. anguillarum được biết đến nhiều nhất, gây thiệt hại kinh tế lớn nhất.
Tác nhân V. anguillarum lần đầu tiên được mô tả bởi Bergman vào năm
1909 khi phát hiện mẩn đỏ trên cá chình thuộc vùng biển Baltic. Khi V. anguillarum
được phân lập trên mẫu cá hồi Oncorhynchus keta thì dịch bệnh đã tấn công gần 50
loài cá nước ngọt và nước mặn trên khắp các nước quanh vùng đông bắc Thái Bình

Dương cũng như theo dọc bờ biển Đại Tây Dương [7,140,165]. Báo cáo về bệnh do
Vibrio trên các loài cá hồi gia tăng cùng với việc gia tăng các trang trại nuôi thương
phẩm ở châu Âu và Hoa Kỳ.
Tại Nhật Bản, theo Carigan và Tanrikul, V. anguillarum gây tác hại đặc biệt
nghiêm trọng cho cá hồi vân [143]. Eguchi (2000) nhận xét: vi khuẩn này không chỉ
gây tử vong trên cá nuôi mà còn giết chết rất nhiều cá ngoài tự nhiên [51].
Bệnh thường xảy ra ở các ao nuôi trên đất liền trong mùa hè và nhiệt độ nước
15°C và ở các lồng nuôi vào mùa thu khi nhiệt độ nước giảm xuống 13°C. Cá bệnh
bơi lội thất thường, màu da biến đổi, tối sẫm. Tỷ lệ tử vong thay đổi 20-30% nếu ở
cá trưởng thành, cá giống chết với tỷ lệ cao hơn.
Tại Na Uy, V. anguillarum được phân lập lần đầu tiên năm 1964 ở cá hồi vân
nuôi. Kể từ đó, vibriosis trở thành vấn đề trở ngại nghiêm trọng đối với nghề nuôi
thủy sản ở đất nước này. Bệnh này có thể sử dụng kháng sinh để điều trị, tuy nhiên,
9
loại kháng sinh ít bị vi khuẩn kháng nhất được khuyến cáo sử dụng chỉ là
Oxytetracyline [71].
1.2.1.3. Bệnh đỏ miệng – Enteric redmouth – ERM
ERM lần đầu tiên được công nhận là một bệnh nghiêm trọng dựa trên con số
thống kê về tỷ lệ chết ở cá hồi tại Idaho (Mỹ) vào đầu những năm 1950 bởi Rucker
(1966) [123]. Nhưng mãi đến năm 1978, Ewing và cộng sự mới mô tả về loài vi
khuẩn gây bệnh này, đặt tên là Yersinia ruckeri.
Yersinia ruckeri là vi khuẩn Gram âm [57, 62], tấn công chủ yếu vào cá hồi
vân [28, 152]. Mặc dù được biết đến là mầm bệnh trong nước ngọt nhưng thực tế
vẫn phân lập được Yersinia ruckeri từ nước biển [138]. Tobback và cộng sự (2007)
cho biết trong hai thập kỷ qua, bệnh này đã xác lập trên cá nuôi ở nhiều nước châu
Âu [146], sau đó thì có mặt ở Úc và Canada. Hiện nay, ERM xảy ra ở hầu hết các
nước trên thế giới [36, 150, 28] và tấn công cả loài cá khác như cá diếc Carrasius
auratus, cá bơn Psetta maxima, cá tuyết sông Lota lota (Canada), cá Tầm
Acipencer baeri Brandt (Pháp), cá Lạt Coregonus peled Gmelin và Coregonus
muksun Pallas (Phần Lan)…[96, 152, 155 , 117].

Nauy là một trong những nước đứng đầu thế giới về sản lượng cá hồi vân,
cũng bị thiệt hại đáng kể bởi tác nhân này. Romalde và cộng sự (1994) đã nghiên
cứu tỷ lệ sống sót của Yersinia ruckeri ở các độ mặn khác nhau, và kết luận rằng ở
15‰, Yersinia ruckeri có thể tồn tại 3 tháng, chứng tỏ khả năng sống sót của vi
khuẩn trong môi trường rất lớn [114].
Mặc dù Y. ruckeri lần đầu tiên được phân lập ở Idaho, nhưng cùng lúc đó nó
cũng có mặt ở Tây Virginia và Úc vào những năm 1950 [34] ; do đó, nguồn gốc
thực sự của loài sinh vật này vẫn chưa rõ. Willumsen (1989) cho rằng con đường
truyền nhiễm liên quan đến vận chuyển cá tự nhiên hoặc cá nuôi và cũng có khả
năng do các động vật không xương sống, các loài chim mang đến ao nuôi [164].
Theo Dulin, con đường truyền dọc chưa được chứng minh, và có lẽ không xảy ra
[48]. Nhiệt độ nước thích hợp nhất khoảng 15-20
0
C và thời kỳ ủ bệnh trong vòng 5-
10 ngày [118, 9].
10
ERM được đặc trưng bởi sự hiện diện các vùng xung huyết hoặc xuất huyết
trong mô, các cơ quan, đặc biệt quanh miệng và ruột. Cá mắc bệnh bơi lờ đờ, hô
hấp khó khăn và màu sắc da xấu đi. Ngoài ra cá còn có thể bị nổ mắt, bụng trương
to. Tuy nhiên, Rucker, Furhmann đã thông báo rằng không phải mọi trường hợp đều
có dấu hiệu như vậy, còn tùy thuộc vào sự phát triển nhanh hay chậm của bệnh, vào
kích thước và sức khỏe của cá [123, 62]. Theo nhiều mô tả, các trường hợp cấp tính
thường gây ra tỉ lệ tử vong cao mà không hề có dấu hiệu bệnh lí rõ ràng bên ngoài,
đặc biệt ở cá con. Tỷ lệ cá chết cao nhất xảy ra nếu có stress đi kèm, chẳng hạn như
việc vận chuyển hoặc nhiệt độ môi trường biến đổi lớn vào mùa xuân [150, 62,
118].
Yersinia ruckeri là một mầm bệnh cơ hội phổ biến trong vùng nước; tuy
nhiên, hiện nay, ERM có thể được kiểm soát một cách hiệu quả nhờ vào vắc-xin bất
hoạt, có sẵn trên thị trường [122, 144].
1.2.1.4. Bệnh thận do vi khuẩn – Bacteral kidney disease – BKD

Ủy ban nghiên cứu bệnh nhọt (FC) và Smith là những người đầu tiên báo cáo
về BKD là trên cá hồi Salmo salar từ các con sông Aberdeenshire Dee và Spey tại
Scotland [136, 63]. Cùng lúc đó, từ trại giống nuôi cá hồi suối (Salvelinus
fontinalis) , cá hồi nâu (Salmo trutta), cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) vùng Tây
Hoa Kỳ, Belding & Merrill (1935) cũng mô tả một bệnh tương tự, khá phức tạp, ảnh
hưởng chính đến thận cá với sự hiện diện của vi khuẩn hình que, gram dương. [19]
Tuy nhiên, vi khuẩn không nuôi cấy được với các kỹ thuật thông thường [136, 49].
Sanders & Fryer (1980) gọi tên bệnh là “bệnh vi khuẩn ở thận” do Renibacterium
salmoninarum gây ra [127]. BKD thực sự là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với
cá hồi từ 1950 – 1993 ở Mỹ, châu Âu (Đan Mạch , Anh , Phần Lan, Pháp, Đức ,
Iceland , Na Uy, Scotland, Thụy Điển, ) và tại Nhật Bản, tỷ lệ tử vong có thể lên
tới 80% [70, 84, 60].
Theo mô tả của Bleding & Merrill (1935), Earp và cộng sự (1953), cá bị
bệnh thường có những tổn thương bên ngoài như lồi mắt, phồng rộp nhiều chỗ trên
da thậm chí tạo lỗ hổng trong cơ, tại vết rộp thường chứa chất dịch lỏng, màu trắng
11
hoặc hơi vàng, kèm theo xuất huyết [19, 49]. Bruno (1986), Evelyn (1993) cũng có
những miêu tả tương tự, cá thường mất thăng bằng và xuất huyết ở đường bên [55,
31]. Bên trong cơ thể, thận là nơi có biểu hiện rõ ràng nhất với các thương tổn như:
sưng, mọc nhiều nốt sần màu trắng xám với các kích cỡ khác nhau, quan sát trong lá
lách, tim và gan thấy biểu hiện tương tự. Ngoài ra, lá lách còn phồng to lên, gan
nhợt nhạt, khoang bụng tích tụ dịch nhầy, biến đổi màu sắc, thậm chí hoại tử [19,
171, 61, 31].
Nghiên cứu con đường truyền nhiễm bệnh thận, Fryer & Sanders (1981)
thông báo rằng việc dùng cơ thịt hoặc nội tạng các loài động vật bị nhiễm R.
salmoninarum làm thức ăn cho cá sẽ dẫn tới việc cá bị nhiễm bệnh hàng loạt [61].
Và điều đó đã được chứng minh khi người ta đã cắt đứt con đường lây nhiễm này
bằng cách tiệt trùng thức ăn [97].
Thế nhưng, Bell (1984) một tác giả với hàng chục năm nghiên cứu về bệnh
vi khuẩn thận cá, cho rằng bệnh vẫn có thể truyền theo chiều ngang từ cá sang cá

[20]. Murray và cộng sự (1992) cũng có kết luận tương tự [106]. Ngoài ra, đặc biệt
chú ý tới hướng truyền bệnh theo chiều dọc từ bố mẹ sang trứng với mức độ cao.
Người ta thấy rằng R. salmoninarum nằm ngay trong noãn hoàng, vì vậy không bị
ảnh hưởng bởi bất kì phương pháp khử trùng nào [35, 56]. Cho nên, việc ngăn chặn
R. salmoninarum càng khó khăn hơn.
Tuy nhiên, mức độ phát triển của bệnh và tỉ lệ cá chết còn bị ảnh hưởng bởi
nhiệt độ, độ mặn, sự căng thẳng [61, 97]. Các loài cá hồi khác nhau thể hiện tính
nhạy cảm khác nhau với bệnh này. Cá hồi vân (O. mykiss) vẫn chịu đựng ở mức
tương đối bệnh này [125, 139].
Banner và cộng sự (1983) thông báo rằng, mặc dù BKD xảy ra chủ yếu ở
nước ngọt, nhưng thống kê cho biết tỷ lệ cá nước mặn chết cũng đáng kể [15]. Cá
con mới đẻ nhiễm bệnh vẫn có thể sống bình thường cho đến lúc xuôi ra biển, gặp
điều kiện môi trường không thích hợp bị căng thẳng và dễ chết, cho nên, đó là
nguyên nhân vì sao cá bị nhiễm bệnh có thể mất vài tháng mới có dấu hiệu, và chủ
yếu cá bị bệnh mãn tính [14].
12
Tháng 11/2005 tại Seattle (Mỹ), hội thảo về bệnh BKD đã được tổ chức với
sự đóng góp của các cơ quan nghiên cứu, ủy ban chuyên trách thủy sản các quốc gia
trên thế giới. Các nhà khoa học đều xem đây là một thách thức của nghề nuôi thủy
sản ở thế kỉ 21 [11]. Việc điều trị bệnh BKD ở cá rất ít hiệu quả, điều trị kháng sinh
chỉ có hiệu lực tạm thời. Do đó, chìa khóa ngăn chặn được bệnh này chính là tổng
hợp các phương pháp phòng bệnh, kiểm soát con đường lây truyền [53, Error!
Reference source not found.]. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu gần đây của
Paterson và cộng sự (1981) cho thấy, gia tăng một vài khoáng chất như Fe, Cu, Mn,
Co, I, F, và bớt đi Ca trong khẩu phần ăn của cá sẽ giảm được tỷ lệ mắc bệnh BKD
ở cá hồi Đại Tây Dương một tuổi .
1.2.1.5. Bệnh thối vây do vi khuẩn trượt hay hội chứng cá hồi hương
Flavobacterium psychrophilum là tác nhân của “hội chứng cá hồi hương”
(rainbow trout fry syndrome - RTFS), hay “vi khuẩn nước lạnh” (bacterial cold-
water diseases – BCWD) ảnh hưởng lớn đến các loài cá hồi, mặc dù bệnh xuất hiện

ở loài vài loài cá khác nhưng đặc biệt nhạy cảm đối với cá hồi vân Oncorhynchus
mykiss và cá hồi bạc Oncorhynchus

kisutch [107].
RTFS có thể gây chết đến 90%, thiệt hại kinh tế rất lớn [93]. Tại Đan Mạch,
người ta ước tính rằng RTFS năm 1998 làm chết 88 triệu cá giống, thiệt hại tài
chính 18 triệu Dkr (khoảng 2,5 triệu Euro), khoảng 50-60 % cá nhỏ chết, và khoảng
10 – 20% đối với cá lớn hơn, cá thường bị loét phần đuôi và bị mù mắt [79].
Trong năm 1941 và 1945, hai trận dịch xảy ra ở cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss) tại trại giống quốc tế thuộc Leetown, mà Davis (1946) mô tả như là “bệnh
thối vây", dựa trên đặc điểm tổn thương ở cuống đuôi và gốc vây. Mặc dù không thể
phân lập tác nhân gây bệnh nhưng ông đã quan sát được một loài trực khuẩn dài và
mỏng, tại các điểm thương tổn [44]. Năm 1948, bệnh lý tương tự cũng được Borg
ghi nhận trong quần thể cá hồi bạc Oncorhynchus kisutch thuộc vùng Tây Bắc Thái
Bình Dương [25, 26]. Mặc dù nhiệt độ nước thấp đáng kể (6 – 10
0
C) nhưng tỷ lệ tử
vong vẫn rất cao. Borg lưu ý rằng đặc điểm bệnh lý và hình thái của vi khuẩn tương
tự như Davis mô tả trên cá hồi vân. Đặc điểm của vi khuẩn là co rút được và trượt
13
nhu động gần giống Flavobacterium columnare (syn. Chondrococcus columnaris),
tác nhân của bệnh Columnaris đã từng được Davis (1922), Ordal và Rucker (1944)
báo cáo trước đây [109]. Cho nên, bệnh cũng được gọi là bệnh thối vây do vi khuẩn
trượt.
Ký chủ chính của loài vi khuẩn này là các loài cá hồi vùng Bắc Mỹ [6], cá
hồi vân ở Đức [156] và Pháp [22]. Từ năm 1953 đến 2006, đã có hàng trăm bài báo
về Flavobacterium psychrophilum thu được từ nhiều đối tượng thủy sản ở khắp các
vùng địa lý. Năm 2005, Ciprian & Holt đã đưa ra một bảng thống kê các loài cá là
kí chủ của Flavobacterium psychrophilum, trong đó, họ cá hồi chiếm tỷ lệ nhiều
nhất bao gồm Oncorhynchus mykiss (USA, France,Germany, Canada, Finland,

Spain; Chile; Denmark; Switzerland and Northern Ireland), Oncorhynchus
tshawytscha (Canada), Oncorhynchus masou (Japan), Salmo salar (Sweden), Salmo
trutta (Norway). Ngoài ra, Flavobacterium psychrophilum cũng hiện diện trên vài
loài cá khác như Plecoglossus altivelis (Korea; Japan), Cyprinnus carpio, Carassius
carassius, Anguilla anguilla, Tinca tinca (Germany)… Điều đó cho thấy mầm bệnh
đã phổ biến trên toàn thế giới [40].
Theo sự quan sát của Borg (1960) sự lan tràn của bệnh thường xảy ra khi
nhiệt độ nước khoảng từ 4 – 10
0
C , tỷ lệ tử vong giảm đi khi nhiệt độ lên 15 – 18
0
C
[26], nên cũng được gọi là “bệnh vi khuẩn nước lạnh”. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây tại một số trại cá Tây Bắc Thái Bình Dương, bệnh này vẫn gây tử vong cho
cá hồi con ở nhiệt độ 15 – 18°C. Tình hình cũng diễn ra tương tự tại Nhật bản đối
với cá Ayu tự nhiên Plecoglossus altivelis [78]. Điều đó chứng tỏ rằng mối nguy hại
của loài vi khuẩn này không hẳn chỉ ở nhiệt độ thấp [40].
Ngoài nhiệt độ nước thì mức độ nghiêm trọng của bệnh còn tùy thuộc vào
giai đoạn phát triển của cá. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy, ở cỡ cá giống từ 0.5 –
5gr bị ảnh hưởng nặng nhất [40].
Theo sự mô tả của Davis (1946), ở cá hồi vân, dấu hiệu bệnh bắt đầu từ sự
nhạt màu đến hơi trắng ở vây mỡ, sau đó lan dần đến đuôi, tiếp đến là sự thoái hóa
cơ đến mức xương vây đuôi đều lộ rõ, tuy nhiên vẫn gắn liền với xương sống. Bên
14
trong cơ thể, vi khuẩn có mặt ở hầu hết các mô, mạch; bụng trương to, lá lách, tim
đều viêm, có lẽ đó là nguyên nhân làm cho cá chết [44]. Bernardet và Kerouault
(1989) quan sát thấy rằng cá hồi vân còn có biểu hiện bất thường là bơi xoắn ốc,
xương sống bị dị tật [23]. Năm 2003, nghiên cứu các loài kí sinh khác trên cá bị
nhiễm Flavobacterium psychrophilum , Busch và cộng sự kết luận rằng tỷ lệ nhiễm
Hexamita salmonis trong đường ruột và Costia necatrix (Ichthyobodo),

Gyrodactylus derjavini kí sinh bên ngoài cũng có ảnh hưởng đến tỷ lệ chết của cá
hồi vân giống mắc RTFS [35].
Về con đường lây truyền, các tác giả Madsen và Dalsgaard (1999), Madetoja
và cộng sự (2000) cho biết Flavobacterium psychrophilum dễ dàng lây truyền theo
chiều ngang giữa cá và cá qua nước [92, 94]. Tuy nhiên, việc bệnh thường xảy ra
trong những tuần tuổi đầu tiên khiến các nhà khoa học nghi ngờ rằng vi khuẩn có
thể được truyền từ cha mẹ đến cá con qua trứng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được ái
lực giữa vi khuẩn với chất dịch buồng trứng càng chứng minh kết luận này [40].
Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả bệnh do F.
psychrophilum mặc dù vaccine đã được sản xuất. Kích cỡ cá nhiễm bệnh rất nhỏ là
nguyên nhân khiến hiệu quả vaccine bị giảm đi. Phương pháp điều trị bệnh này
khác nhau giữa các vùng địa lí, nhưng nhìn chung, việc sử dụng hóa chất như
Nifurpirinol (nitrofuran), Sulfonamides hoặc kháng sinh Oxytetracyline là vẫn có
hiệu quả. Thế nhưng, một vấn đề nữa đặt ra là phải kiểm soát mức độ tồn dư của
kháng sinh và hóa chất này trong cơ thịt cá. Từ năm 2000 -2006, tại Thổ Nhĩ Kì, với
phương pháp tắm bằng oxy già kết hợp điều trị kháng sinh florfenicol (15 mg
kg/ngày trong vòng 7 ngày) đã đem lại hiệu quả tốt [64].
1.2.2. Bệnh do kí sinh trùng
1.2.2.1. Bệnh đốm trắng – Ichthyophthiriasis
Bệnh đốm trắng gây ra bởi kí sinh trùng Ichthyophthirius multifiliis, xảy ra ở
cá nuôi lẫn cá tự nhiên, gây chết cho cá con lẫn cá thương phẩm. Bệnh đốm trắng đã
được báo cáo tại trang trại nuôi cá của Phần Lan, lần đầu tiên vào giữa thập niên
1970, và nó giết chết hơn 80.000 cá hồi giống năm 1978. Tuy nhiên, tỉ lệ này có thể

×