Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN XÂY DỰNG THỦY LỢI THỦY ĐIỆN THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌCKINH TẾ QUỐC DÂN
KHOANGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN XÂY DỰNG THỦY LỢI
THỦY ĐIỆN THĂNG LONG
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Lưu Thị Hương
Sinh viên thực hiện : Hồng Minh Hải
Lớp :TCDN 20.03
MSSV : BH.201851
Chuyên đề tốt nghiệp
Hà Nội - 11/2011
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 4
1.1. Tầm quan trọng phân tích tài chính doanh nghiệp 4
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp 4
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp 6
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp 6
1.2.1. Thu thập thông tin 7
1.2.2. Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 7
1.2.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 13
1.3. Đánh giá tình hình phân tích tài chính doanh nghiệp 31
Chương II: Phân tích tình hình tài chính Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
Thủy lợi Thủy điện Thăng Long 32
2.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Thủy lợi
Thủy điện Thăng Long 32
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
Thủy lợi Thủy điện Thăng Long 32


2.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty 33
2.1.3.Kết quả hoạt động của công ty 40
2.2 Phân tích tình hình tài chính của công ty 40
2.2.1 Phân tích tình hình tài sản 40
2.2.2. Phân tích kết cấu nguồn vốn của công ty 43
2.2.3. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của công ty 46
2.2.4. Phân tích nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của công ty 50
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 2
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2.5 Phân tích hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lợi của vốn 57
2.3. Đánh giá tình hình tài chính Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
Thủy lợi Thủy điện Thăng Long 64
2.3.1 Các thế mạnh so với các công ty cạnh tranh 64
2.3.2. Các điểm yếu cần khắc phục 65
2.3.3. Nguyên nhân của điểm yếu 66
Chương III: Giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Thủy lợi Thủy điện Thăng Long 68
3.1. Định hướng phát triển của công ty 68
3.1.1. Tầm nhìn 68
3.1.2. Sứ mệnh 68
3.1.3. Chiến lược công ty 68
3.2. Giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty cổ phần
Tư vấn xây dựng Thủy lợi Thủy điện Thăng Long 69
3.3. Một số kiến nghị với cơ quan nhà nước và đơn vị chủ quản 73
3.3.1. Đối với công ty 74
3.3.2. Đối với nhà nước 74
Kết luận 76
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 3
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU

Bước sang thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến tích cực,
không ngừng thúc đẩy mở cửa hợp tác với các quốc gia trong khu vực cũng như
trên thế giới và đã có những bước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như : Kinh tế,
chính trị, văn hóa… Tháng 11/ 2006 Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương
mại thế giới (WTO), mở ra một bước ngoặt quan trọng cho đất nước nói chung và
cho nền kinh tế nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa các doanh nghiệp
được đối xử bình đẳng trên một sân chơi chung, “ Mạnh thắng, yếu thua”, đó là quy
luật của nền kinh tế nhiều cơ hội cũng như nhiều thử thách. Bởi vậy, để tồn tại trong
sự đào thải khắc nghiệt ấy đòi hỏi các doanh nghiệp phải xem trọng từng bước đi,
từng yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của mình. Như chúng ta đã biết, Tài
chính quyết định đến sự tồn tại, phát triển và cả sự suy vong của doanh nghiệp. Do
đó, để đảm bảo được sự tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp buộc phải có tình
hình tài chính lành mạnh và ổn định. Mỗi doanh nghiệp cần phải quan tâm đến công
tác tài chính, thường xuyên tổ chức việc phân tích, tổng hợp, đánh giá các chỉ tiêu
tài chính cũng như việc dự báo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong những
khoảng thời gian nhất định để phát huy những mặt mạnh trong công tác tài chính
đồng thời phát hiện kịp thời những mặt yếu kém nhằm khắc phục và hoàn thiện tình
hình tài chính doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thành đạt trong kinh doanh.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và qua quá trình tìm hiểu, thực tập tại Công ty cổ
phần tư vấn xây dựng Thủy lợi Thủy điện Thăng Long, em đã lựa chọn đề tài:
“ Phân tích tình hình tài chính Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Thủy lợi
Thủy điện Thăng Long”
Nội dung đề tài tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương II: Phân tích tình hình tài chính Công ty cổ phần tư vấn xây dựng
Thủy lợi Thủy điện Thăng Long
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 4
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương III: Giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty cổ
phần tư vấn xây dựng Thủy lợi Thủy điện Thăng Long.

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định bốn loại hình doanh nghiệp hoạt động
tại Việt Nam. Đó là: công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân.
1.1.1.1 Doanh nghiệp tư nhân.
Theo Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là doanh
nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Từ quy định trên chúng ta thấy doanh nghiệp tư nhân gồm những đặc điểm cơ
bản sau:
Một là:Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư vốn thành
lập và làm chủ. Chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp là một cá nhân. Bởi vậy mà
chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định những vấn đề liên quan tới
quản lý doanh nghiệp, thuê người khác điều hành ( trong trường hợp này phải khai
báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của doanh nghiệp), có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp, bán doanh nghiệp, tạm
ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hai là:Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi vì tài sản của
doanh nghiệp không tách bạch rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Tài sản mà
chủ doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân
không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
Ba là:Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn ( TNHH )
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 5
Chuyên đề tốt nghiệp
a. Công ty TNHH hai thành viên trở lên.

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có những
đặc điểm chung sau đây;
- Hình thức sở hữu của công ty là thuộc hình thức sở hữu chung của các thành
viên công ty
- Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên mỗi
công ty không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi.
- Công ty không được quyền phát hành cổ phần.
- Công ty là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
b. Công ty TNHH một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau
đây:
- Chủ sở hữu công ty phải là một tổ chức hoặc cá nhân và có thể là: Cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
– xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các loại doanh nghiệp, các
tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điểu
lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác theo quy định về chuyển đổi doanh nghiệp.
- Công ty không được phát hành cổ phần.
- Công ty có tư cách pháp nhân và chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn
đối với kết quả kinh doanh của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công
ty.
1.1.1.3. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn,
theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu

hạn, cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 6
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1.4. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây;
- Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh còn có
thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề
nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ
của công ty ( Trách nhiệm vô hạn ).
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Như vậy, công ty họp danh có hai loại: Công ty hợp danh mà tất cả các thành
viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một công cụ giúp đánh giá chính xác được
sức mạnh tài chính, những tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, những triển vọng và rủi
ro trong tương lai, từ đó đề ra các giải pháp quản lý tài chính hoặc đưa ra các quyết
định kinh doanh hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ
cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý
nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và
chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của
doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết
định quản lý phù hợp.

Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá sản
tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá
khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra
những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của
doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự
đoán tài chính - một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Phân tích tài chính có
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 7
Chuyên đề tốt nghiệp
thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị
các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà
phân tích( trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp )
1.2.1. Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá
trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến
những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông
tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị trong đó các
thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh
nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân
tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh
nghiệp.
1.2.1.1. Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu
thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu,
ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu
phân tích đãđặt ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo những
mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên
nhân của các kết quả đãđạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
1.2.1.2. Dự đoán và quyết định

Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết
để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài chính.
Có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính. Đối
với chủ doanh nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra những quyết định liên quan
đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi
nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
1.2.2. Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng
tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 8
Chuyên đề tốt nghiệp
biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài
chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương pháp:
phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến động
cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính, còn
phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối tương quan
giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài chính với nhau
để rút ra kết luận.
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
1.2.2.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ yếu
trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi của
chỉ tiêu phân tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc vào
mục đích và yêu cầu của việc phân tích.
So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định mức. Đây là
phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, định
mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề ra.

- So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho thấy sự
biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của doanh
nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh.
- So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất kinh doanh
khác nhau của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh
được của các chỉ tiêu:
- Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.
- Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
- Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội dung, cơ cấu
của các chỉ tiêu.
- Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu này bằng
những đơn vị tính đổi nhất định.
- Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh bằng các
chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường hợp, việc so
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 9
Chuyên đề tốt nghiệp
sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không mang một ý
nghĩa kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối thì hoàn
toàn cho phép và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số tương
đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển
không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách khác, số
bình quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu Số bình quân có
thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ suất). Khi so
sánh bằng số bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân chung của tổng
thể, của ngành, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật.
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện tượng kinh

tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách tính
toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của
hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để phân
tích so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên trong cũng
như quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so sánh cần kết
hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối.
1.2.2.2. Phương pháp loại trừ.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, để nghiên cứu ảnh
hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Trong thực tế phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích kinh tế dưới 2
dạng là: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
1.2.2.3. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế lần
lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số
của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được
với trị số của chỉ tiêu khi chưa có biến đổi cuả nhân tố cần xác định sẽ tính được
mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó.
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 10
Chuyên đề tốt nghiệp
Điều kiện áp dụng phương pháp là mối quan hệ giữa nhân tố cần đo ảnh hưởng
và chỉ tiêu phân tích phải thể hiện được dưới dạng công thức. Ngoài ra việc sắp xếp
các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đối với các chỉ tiêu phân
tích phải theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhấn tố chất lượng. Trình tự thay thế
các nhân tố phải tuân theo nguyên tắc nhất định vừa phù hợp với ý nghĩa của hiện
tượng nghiên cứu vừa phải đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ về thực chất của các nhân
tố.
Trình tự thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn:
- Bước 1: Sơ bộ phân tích về mặt lý luận mối quan hệ giữa các nhân tố và chỉ tiêu

kết quả và phân loại các nhân tố thành nhân tố số lượng và nhân tố chất lượng.
- Bước 2: Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự: nhân tố đứng sau chất lượng hơn nhân
tố đứng trước.
X= a* b* c* d
Số liệu kế hoạch: X
0
=a
0
*b
0
*c
0
*d
0
Số liệu thực tế: X
1
= a
1
*b
1
*c
1
*d
1
- Bước 3: Lập các tích số trung gian và ở mỗi tích số sau, chỉ tiêu báo cáo được
thay thế tương ứng cho chỉ tiêu kế hoạch.
X
01
= a
1

*b
0
*c
0
*d
0
X
02
= a
1
*b
1
*c
0
*d
0
X
03
= a
1
*b
1
*c
1
*d
0
- Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách lấy tích số thứ
hai trừ đi tích số thứ nhất, tích số thứ ba trừ đi tích số thứ hai, tích số thứ tư trừ
đi tích số thứ thứ ba
Xa=( a

1
*b
0
*c
0
*d
0
)-(a
0
*b
0
*c
0
*d
0
)
Xb=( a
1
*b
1
*c
0
*d
0
)-( a
1
*b
0
*c
0

*d
0
)
Xc=(a
1
*b
1
*c
1
*d
0
)-(a
1
*b
1
*c
0
*d
0
)
Xd=(a
1
*b
1
*c
1
*d
1
)-(a
1

*b
1
*c
1
*d
0
)
Như vậy, khi có n nhân tố thì có( n- 1) lần thay thế tức là lập được( n- 1) tích số
trung gian. Khi thay đổi trình tự thay thế thì mức độ ảnh hưởng của các nhân tố sẽ
thay đổi, còn tổng mức độ ảnh hưởng của chúng thì không đổi.
Ưu điểm của phương pháp thay thế liên hoàn: Xác định được mức độ và chiều
hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh hưởng của
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 11
Chuyên đề tốt nghiệp
chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy những nhân tố tích cực và
hạn chế những nhân tố tiêu cực.
Nhược điểm của phương pháp thay thế liên hoàn:
- Không có khả năng luận cứ rõ ràng trình tự cụ thể về sự thay thế của các nhân
tố cũng như tính quy ước của việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng thành các
nhân tố số lượng và các nhân tố chất lượng. Điều này càng trở nên khó khăn khi
có nhiều nhân tố trong tính toán phân tích.
- Ảnh hưởng của mỗi nhân tố được xem xét tách rời, không tính đến mối quan hệ
qua lại của nó với các nhân tố khác, mặc dù sự thay đổi của một trong các nhân
tố dẫn tới sự thay đổi của các nhân tố khác.
1.2.2.4. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của phương pháp
thay thế liên hoàn. Do vậy, nó cũng đòi hỏi những điều kiện và cũng có những ưu
điểm, hạn chế như thay thế liên hoàn.
Theo phương pháp này, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đóđối với chỉ tiêu
tổng hợp được xác định bằng số chênh lệch của nhân tố đó nhân với các nhân tố

khác được cố định trong khi lập tích số.
Trình tự tiến hành phương pháp số chênh lệch:
- Xác định số chênh lệch tuyệt đối với dấu tương ứng của mỗi một nhân tố.
- Nhân số chênh lệch của mỗi một nhân tố với số kế hoạch của các nhân tố khác
chưa đo ảnh hưởng và với số thực tế của các nhân tố khác đãđo ảnh hưởng.
1.2.2.5. Phương pháp liên hệ
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các
bộ phận Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu, trong
phân tích kinh doanh còn phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: liên
hệ cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan.
1.2.2.6. Phương pháp liên hệ cân đối
Phương pháp liên hệ cân đối thường thể hiện dưới hình thức phương thức trình
kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế.
Nội dung chủ yếu của bảng cân đối kinh tế gồm hai hệ thống chỉ tiêu có quan
hệ trực tiếp với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần hệ thống chỉ tiêu
đó sẽ dẫn tới sự thay đổi một hoặc một số thành phần khác nhưng sự thay đổi đó
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 12
Chuyên đề tốt nghiệp
vẫn đảm bảo sự cân bằng của bảng cân đối kinh tế. Khi phân tích thường dùng để
kiểm tra việc ghi chép hoặc để tính toán các chỉ tiêu.
Để tính mức độ ảnh hưởng của nhiều nhân tố một cách đồng thời đến một chỉ
tiêu nào đó:
Tổng=
1.2.2.7. Phương pháp liên hệ thuận nghịch
C=
Trong đó: C- chỉ tiêu cá biệt mà ta đang nghiên cứu
T- chỉ tiêu trực tiếp hoặc chỉ tiêu thuận chiều
N- chỉ tiêu ngược chiều
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp(T)
CT= (%)

- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố ngược chiều(N) đến chỉ tiêu nghiên cứu
N
= (%)
- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu
C=
T
+
N
= (%)
Trong đó:
T, N: số chênh lệch tương đối của chỉ tiêu T và N.
CT, CN, C: mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu T, N và của 2 chỉ tiêu T, N
đến chỉ tiêu cá biệt đang nghiên cứu.
1.2.2.8.Phương pháp liên hệ tương quan
Là phương pháp phân tích tương quan nhằm xác định sự tồn tại và dạng của
mối liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên và cho phép đánh giá mức độ chặt chẽ
giữa các mối quan hệ đó.
Trình tự tiến hành:
- Phân tích lý luận để giải thích sự tồn tại và bản chất mối liên hệ;
- Thăm dò các mối quan hệ đó;
- Lập phương trình hồi quy căn cứ vào số tiêu thức, số lần quan sát;
- Tính toán các tham số của chương trình;
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 13
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giải thích ý nghĩa kinh tế của các tham số.
1.2.3. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai cách
sau:
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
- Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.

1.2.3.1 Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân tích
mà đồ án sử dụng . Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình
hình tài chính, không được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở phần
sau ( Chương 2).
a. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so
sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể thấy
được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng như khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và nguồn vốn
tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi sâu phân tích các mối
quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại
tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, nhưng cân đối này
chỉ mang tính lí thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp đủ trang trải
các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng.
Thực tế thường xảy ra 1 trong 2 trường hợp sau:
- Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm
dụng.
- Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải
đi vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.
Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị chiếm
dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và nợ
phải trả.
Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ tiêu tỉ
suất tài trợ đẻ thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong
kinh doanh của công ty (phần này được trình bày trong phân tích kết cấu nguồn vốn
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 14
Chuyên đề tốt nghiệp
của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, về khả năng thanh toán cũng cần được quan tâm

chú ý ( được trình bày ở phần nhu cầu và khả năng thanh toán)
b. Phân tích chi tiết tình hình tài chính
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân bổ
vốn, xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa? Để
phân tích, ta tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì và cuối
kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra nguyên nhân
của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được sự thay đổi về số lượng, quy mô và
tỉ trọng của từng loại vốn. Để có thể thấy được tình hình thay đổi của tài sản là hợp
lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài sản. Việc đầu tư chiều sâu,
mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất lao động và
sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hoặc đầu tư tài chính dài hạn được xem xét thông
qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư tài
chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích kết cấu nguồn vốn; phân tích tình hình
công nợ và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả và khả năng sinh lợi của vốn;
phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được phân
tích một cách cụ thể và được trình bày cụ thể trong Chương 2 của đề án này.
1.2.3.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
a. Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân thành 4
nhóm chính. Đó là: nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả năng cân
đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lãi. Nhìn
chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài chính là tình hình tài chính
của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng
được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ theo mục đích phân tích tài chính
mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn đến nhóm tỷ lệ này hay nhóm tỷ lệ
khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm đến tình hình khả năng
thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn
đến khả năng hoạt động có lãi và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Họ cũng cần nghiên
cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp
ứng nhu cầu chi trả hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối

Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 15
Chuyên đề tốt nghiệp
cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ cân đối vốn vì sự
thay đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về
từng vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân
tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đóđưa ra kết luận khái
quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân
tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên điều gì. Nó
cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính doanh nghiệp đó và
so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành.
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để phân
tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Các tỷ lệ về khả năng thanh toán:
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của
mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến
nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng
và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi
đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều quan tâm đền khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ.
Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ
giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn
giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện
pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý nhằm nâng
cao khả năng thanh toán.
Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :

+ Hệ số thanh toán hiện hành
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài sản
lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải
thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 16
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải
trả khác Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một
năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn
của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương ứng
với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh
nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá
cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đãđầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu
cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà
việc đầu tưđó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ
vốn như thế nào cho hợp lý.
+ Hệ số thanh toán nhanh:
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với
chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản
mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần
phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu.
Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ

bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn
trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ (tồn kho).
Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống
như trương hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 17
Chuyên đề tốt nghiệp
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc
thanh toán nợ.
Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dựng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ
đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ
nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào
sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ
trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do các chủ
nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh
nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, các
khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là chi
phí trước thuế.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền kinh tế
suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ lệ này
cao trong nền kinh tế bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ lệ nợ
cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận
kỳ vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tưđều rất sợ rủi ro. Vì thế quyết định về sử
dụng nợ phải được cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro.
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả năng tự
tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những khó
khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.
+ Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản:

Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với
các chủ nợ đã góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay
nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo trong
trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu ưa thích tỷ lệ nợ
cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 18
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào trạng thái mất khả
năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ
của doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài chính (Degree of Financial
Leverage - DFL) của doanh nghiệp.
Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh lợi
vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả.
Trong đó : Q: là sản lượng
P: là giá bán đơn vị sản phẩm
V: là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm
F: là chi phí cố định
I: là chi phí lãi vay phải trả
Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để
trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận
trước thuế và lãi vay đãđủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần một sự gia
tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở
hữu.
+ Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi
Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho
lãi tiền vay.
Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả
năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho doanh
nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được
tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng

tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi thấp so với mức trung bình của ngành
sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia tăng nợ.
+ Khả năng độc lập về tài chính
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 19
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động
trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của doanh nghiệp
càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí vay nợ và
việc tăng vốn cổ phần cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh
nghiệp.
+ Tỷ lệ về cơ cấu tài sản
Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp
cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng yêu cầu kinh doanh
và nâng cao hiệu qủa kinh tế của đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ vốn
hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh
nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh không
và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và
máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu
hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào
từng ngành kinh doanh cụ thể.
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các
loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân
tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn
mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của
doanh nghiệp.
Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm tính

tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 20
Chuyên đề tốt nghiệp
tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và
khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
+ Vòng quay tiền
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp.
Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi
thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu,
ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ doanh nghiệp có thể dữ trữ với lượng lớn tạo điều
kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở mức không hợp lý có thể
gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu vốn đang phổ biến ở các doanh
nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào
các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm. Thứ hai, do có
giá trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy,
cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất
cho doanh nghiệp.
+ Vòng quay hàng tồn kho
Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu, mặt
khác tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo
tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư này
được giải phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức dưới
đõy
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra
trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số
này càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ
số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu

Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 21
Chuyên đề tốt nghiệp
quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng cần phải chú ý đến
những nhân tố khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn kho như việc áp dụng
phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình trạng nền kinh
tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung cấp
Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông
tin. Việc giảm vòng quay vốn hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng, quản lý dự trữ
kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng tồn
kho cũng có thể là kết quả của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ
nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn
trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này (có đình công, suy giảm sản xuất).
Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng tồn kho có thể do những cải tiến được áp dụng
trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu
hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp
thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn kho tăng cao nhưng điều này đôi khi gây
ra tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu.
+ Kỳ thu tiền bình quân
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều
khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở
rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm hàng tồn kho,
duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị. Hơn nữa,
nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc tăng giá do khách
hàng mua chịu. Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phải
đối mặt không ít với các rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá lâu được thực hiện dẫn đến
giảm tốc độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn doanh nghiệp
phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là rủi ro
về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản lý doanh
nghiệp là phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thời
gian này.

Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức
này là ngày) :
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 22
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng
thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố :
 Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu : Một số
doanh nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời
hạn thanh toán hơn các đối thủ cạnh tranh để phát triển thị trường.
 Tình trạng của nền kinh tế : Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có
khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận
tăng thời gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu
thụ thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần
phải thay đổi chính sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể là do
khách hàng gặp khó khăn trong chi trả nhất là ở vào thời kỳ kinh tế suy
thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây chuyền cho các doanh nghiệp
bán chịu.
 Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu : khi lãi suất tín dụng cấp
cho các doanh nghiệp để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp
có xu hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ
rất tốn kém về chi phí tài chính.
 Ngoài ra độ lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả
trước của doanh nghiệp.
+ Vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này còn
được gọi là hệ số luân chuyển. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp phần giải
quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

+ Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 23
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Tài sản cố định ở đây được xác định là giá trị còn lại tới thời
điểm lập báo cáo tức là bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế.
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó
cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ
báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng
làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế
khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phán ánh hiệu quả từng hoạt động
riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu
quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chung
của các doanh nghiệp là làm sao để một đồng vốn bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất
và khả năng sinh lời nhiều nhất. Để đánh giá khả năng sinh lời người ta dựng các
chỉ tiêu sau:
+ Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này có thể tăng giảm giữa các kỳ tuỳ theo sự thay đổi của doanh thu thuần
và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó chi phí
tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh
lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh nghiệp vẫn cần xác định rõ nguyên nhân
của tình hình để có giải pháp khắc phục.
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 24
Chuyên đề tốt nghiệp

+ Doanh lợi vốn chủ sở hữu
Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó
phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tưđặc biệt quan
tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn
chủ sở hữu cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Ta xét
các nhân tố ảnh hưởng đến doanh lợi vốn chủ sở hữu như sau:
Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba nhân tố :
 Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
 Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.
Vì vậy, khi xem xét sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta cần phân
tích sự thay đổi của cả ba yếu tố trên để đưa ra những kết luận đúng đắn.
+ Doanh lợi vốn
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dựng để đánh giá khả năng sinh lời của
một đồng vốn đầu tư (ROA). Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được
phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi hay
lợi nhuận sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ
trong kinh doanh, người ta thường sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng
cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản.
b. Phân tích các hoạt động tài chính
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng nguồn vốn
và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung
ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn.
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét
sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp
trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
Hồng Minh Hải - TCDN 20.3 25

×