Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh cầu giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.58 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CVTD : Cho vay tiêu dùng
2. NHTM : Ngân hàng thương mại
3. NHNN : Ngân hàng nhà nước
4. KH : Khách hàng
5. KH CN : Khách hàng cá nhân
6. KH DN : Khách hàng doanh nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG
SƠ ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế. Khi
kinh tế đang trên đà phát triển, các ngân hàng ngày càng được khẳng định vai
trò của mình như một kênh dẫn vốn. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân
hàng thúc đẩy các ngân hàng phải đa dạng hóa , nâng cao chất lượng dịch vụ.
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chủ chốt của ngân hàng.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, các ngân hàng đa phần mới chỉ chú trọng đến đối
tượng vay là các doanh nghiệp mà chưa chú trọng đến đối tượng ở khâu cuối
cùng của sản xuất đó là người tiêu dùng. Nếu chỉ chú trọng đến sản xuất mà
không thúc đẩy tiêu dùng sẽ dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu, hàng hóa ứ
đọng do không tiêu thụ được. Như vậy,để thúc đẩy lưu thông hàng hóa, một
mặt ngân hàng cho vay để thúc đẩy sản xuất, mặt khác phải cung cấp dịch vụ
hỗ trợ tiêu dùng.
Thực tế cho thấy rằng, không chỉ các doanh nghiệp cần vốn cho sản
xuất kinh doanh, mở rộng thị trường mà các cá nhân hộ gia đình cũng cần có
vốn để phục vụ cho mục đích tiêu dùng. Kinh tế phát triển, mức sống người
dân được nâng cao dần, giờ đây, người ta không chỉ cần những nhu cầu thiết
yếu là “ăn no, mặc ấm” mà còn đòi hỏi ở mức cao hơn “ăn ngon, mặc đẹp” ,
nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, vui chơi, du lịch… cùng với rất nhiều các
nhu cầu khác. Tuy vậy, không phải lúc nào con người cũng có khả năng
hưởng thụ những gì mình mong muốn do không có tiền hoặc tích lũy tiền


chưa đủ. Nắm bắt được tâm lý trên, các NHTM đã cho ra đời dịch vụ mới đó
là cho vay tiêu dùng nhằm giúp người dân có thể sử dụng hàng hóa trước khi
có khả năng thanh toán. Hoạt động này cung ứng vốn cho các cá nhân có thể
mạnh dạn mua sắm tiêu dùng, cải thiện chất lượng cuộc sống đồng thời mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1
Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam Chi nhánh Cầu Giấy, em nhận thấy ngân hàng đã cung cấp dịch vụ
CVTD đối với khách hàng cá nhân và hộ gia đình nhưng hoạt động này vẫn
còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ, chưa được trú trọng phát triển. Chính vì vậy, việc
tiếp tục nghiên cứu, đưa ra giải pháp mở rộng CVTD là rất có ý nghĩa với sự
đa dạng hóa hoạt động cũng như gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Do đú, em
đã lựa chọn đề tài “Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Cầu giấy” làm đề tài nghiên cứu của
mình. Nội dung đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Cầu giấy.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Cầu giấy.
Phạm vi đề tài nghiên cứu là hoạt động CVTD tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam Chi nhánh Cầu giấy trong giai đoạn 2008-2010. Trên cơ
sở lý luận và thực tiễn, chuyên đề đã nêu ra một số giải pháp nhằm mục tiêu
giúp chi nhánh tiếp tục mở rộng hoạt động này.
Để hoàn thiện đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của
PGS.TS Nguyễn Thị Bất. Đồng thời, trong thời gian thực tập, em cũng nhận
được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các anh chị Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam Chi nhánh Cầu giấy.
Em xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo của

thầy cô và các anh chị.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Tín dụng chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp bao gồm rất nhiều hình
thức như: bán chịu hàng hóa, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, kí thác… Một
hợp đồng tín dụng luôn bao gồm 2 bên tham gia: Một bên trao ngay một số
tiền hoặc tài sản cho bên còn lại. Bên kia nhận tiền hoặc tài sản với cam kết sẽ
hoàn lại trong một thời gian nhất định với một điều kiện nhất định.
Trải qua thời gian, người ta ít trực tiếp cho vay lẫn nhau bởi khó khăn
trong việc tìm người cho vay, số lượng tiền vay cũng như thời gian cho vay
sao cho phù hợp với nhu cầu của người đi vay. Ngày nay, người đi vay
thường tìm đến một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng thương mại bởi chính
sự chuyên môn hóa trong cung cấp các dịch vụ tài chính của nó. Qua ngân
hàng, người ta có thể vay với khối lượng lớn mà chỉ phải giao dịch với một
chủ thể duy nhất đó là ngân hàng. Sự chuyên môn hóa làm tăng tính chuyên
nghiệp của ngân hàng so với các tổ chức khác, đồng thời làm giảm rủi ro cho
khách hàng. Do vậy, ngày nay người ta thường đồng nhất tín dụng nói chung
với cho vay của ngân hàng thương mại.
Cho vay của ngân hàng thương mại được hiểu là hình thức ngân hàng
chuyển một số tiền cho khách hàng sử dụng theo yêu cầu của khách hàng nếu
khách hàng đáp ứng các yêu cầu mà ngân hàng đặt ra.
3
1.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay.
Cho vay là hoạt động lâu đời nhất, cũng là hoạt động chủ yếu mang lại lợi
nhuận cho NHTM. NHTM sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của khách

hàng nếu khách hàng thỏa mãn các điều kiện ngân hàng đặt ra. Các điều kiện
thường là về lãi suất, tài sản đảm bảo, phương án sử dụng vốn vay cũng như cam
kết về việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả đúng hạn.
Mức lãi suất đối với mỗi khoản vay được xác định căn cứ vào quy mô
khoản vay, thời gian vay, mức độ rủi ro, khả năng thu hồi vốn và tài sản thế
chấp… Thời gian vay càng dài, mức độ rủi ro càng cao thì lãi suất khoản vay
càng cao. Ngoài ra, lãi suất khoản vay còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
ngân hàng và khách hàng, uy tín của khách hàng. Những khách hàng lâu năm
và có uy tín tốt có thể được ngân hàng ưu đãi hơn về lãi suất cũng như các
điều kiện vay khác.
1.1.3. Phân loại cho vay.
Việc phân loại cho vay nhằm mục đích thiết lập quy trình cho vay thích
hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Do đó, phân loại các khoản
vay một cách khoa học là điều rất cần thiết.Căn cứ vào các tiêu thức, ta có các
cách phân loại các khoản cho vay như sau:
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn vay:
_Cho vay ngắn hạn: là những khoản vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đây
thường là các khoản vay không lớn, dựng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của
doanh nghiệp hay nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân, hộ gia đình.
_Cho vay trung hạn: là khoản vay có thời hạn tử 1-5 năm. Các khoản
vay trung hạn thường sử dụng để mua sắm tài sản cố định, đầu tư mới hoặc
cải tiến thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, cho
4
vay trung hạn còn là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp mới thành lập có vòng quay vốn lưu động dài.
_Cho vay dài hạn: là khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Các doanh
nghiệp đi vay dài hạn thường đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây nhà ở, xí
nghiệp mới, đầu tư các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, thời gian
sử dụng lâu dài.
1.1.3.2. Căn cứ vào mục đích vay:

_Cho vay sản xuất kinh doanh:là việc ngân hàng cho các doanh
nghiệp, các chủ thể sản xuất kinh doanh vay vốn để tiến hành sản xuất và lưu
động hàng hóa. Cho vay sản xuất kinh doanh thường căn cứ trên phương án
sản xuất kinh doanh tài sản đảm bảo của doanh nghiệp để xác định có cung
cấp khoản vay hay không.
_Cho vay tiêu dùng: là việc ngân hàng cho các cá nhân và hộ gia đình
vay để đáp ứng nhu cầu cá nhân như mua sắm nhà cửa, xe cộ, đồ dùng gia
đình, trả tiền cho các dịch vụ như y tế, giáo dục….Việc xem xét cấp khoản
vay này căn cứ vào mức thu nhập của người đi vay.
1.1.3.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng:
_Cho vay có tài sản đảm bảo: là việc cho vay dựa trên sự đảm bảo
như cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Hình
thức này thường áp dụng với những khách hàng vay lần đầu, những khách
hàng có khả năng tài chính không tốt, chưa tạo được uy tín đối với ngân hàng.
Trong trường hợp nguồn thu nợ không chắc chắn, tài sản đản bảo là căn cứ để
ngân hàng có thể thu hồi lại vốn.
_Cho vay không có tài sản đảm bảo: là cho vay mà không có cầm cố,
thế chấp hay sự bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay này chỉ dựa vào uy tín
5
của khách hàng đối với ngân hàng. Cho vay không có tài sản đảm bảo thường
áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính tốt, kinh doanh lành
mạnh, những khách hàng quen thuộc của ngân hàng Với những khách hàng
này, ngân hàng có thể xem xét, tạo điều kiện rất tốt trong việc vay vốn nhằm
gia tăng dư nợ cho ngân hàng .
1.1.3.4. Căn cứ theo phương thức cho vay:
_Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng thương mại, áp dụng với các khách hàng không có nhu cầu vay thường
xuyên, không đủ điều kiện cấp hạn mức thấu chi. Thường thì các khách hàng
này sử dụng vốn tự có và tín dụng thương mại trong quá trình sản xuất kinh
doanh, họ chỉ đi vay ngân hàng khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất

đặc biệt. Ở loại hình cho vay này, vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số
giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.
_Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó, ngân hàng
cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức được cấp trên cơ sở kế
hoạch kinh doanh, nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu vốn vay của khách hàng.
Trong kỳ, khách hàng có thể vay trả nhiều lần nhưng dư nợ không được vượt
quá hạn mức tín dụng. Một hình thức cho vay theo hạn mức khác mà ngân
hàng còn áp dụng là hạn mức cuối kỳ, có nghĩa là trong kỳ khách hàng có thể
vay vượt hạn mức nhưng cuối kỳ phải trả nợ sao cho dư nợ không vượt quá
hạn mức được cấp.
Cho vay theo hạn mức thường áp dụng với các khách hàng có nhu cầu
vay vốn thường xuyên. Thường thì vốn từ ngân hàng tham gia vào rất nhiều
khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
_Cho vay thấu chi: là việc ngân hàng cho phép khách hàng có thể chi
nhiều hơn số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình trong một giới
6
hạn nhất định và một khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi. Vượt qua giới hạn thấu chi, khách hàng sẽ phải trả lãi phạt
và bị đình chỉ sử dụng.
Hình thức này giúp cho khách hàng chủ động, linh hoạt trong thanh
toán. Tuy nhiên, chỉ áp dụng cho các khách hàng có độ tin cậy cao, có thu
nhập đều đặn.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
Ta biết rằng, cuộc sống các phát triển thì nhu cầu tiêu dùng của con
người càng gia tăng, từ những nhu cầu đơn giản như ăn, mặc đến những nhu
cầu cao hơn là học hành, giải trí, chăm sóc sức khỏe….Tuy nhiên, không phải
lúc nào nhu cầu này cũng được đáp ứng đúng lúc, vì nó còn phụ thuộc vào
khả năng thanh toán của mỗi người. Chúng ta không thể hưởng thụ nếu chúng
ta không có khả năng thanh toán. Kể cả khi chúng ta có thể có được thu nhập

chắc chắn trong tương lai thì tại thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn không thể
được sử dụng sản phẩm dịch vụ mong muốn. Vậy làm thế nào có thể giải
quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán hiện tại?
Có một cách giải quyết là mua bán chịu. Nghĩa là người mua có thể sử
dụng hàng hóa, dịch vụ từ người bán mà không phải trả tiền ngay khi nhận
hàng. Tuy nhiên, cách này chỉ có lợi cho người mua, còn người bán phải chịu
hoàn toản rủi ro trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc
cố ý không trả nợ. Hơn nữa, do bán hàng không thu được tiền nên khi người
bán muốn mua nguyên liệu đầu vào phục vụ cho tái sản xuất dễ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, dẫn đến không thể tiếp tục sản xuất. Do đó
cách này không hiệu quả, không áp dụng nhiều trong thực tế.
Như vậy, cần có một tổ chức hỗ trợ cả người mua và người bán. Người
mua có tiền để chi trả, còn người bán thu hồi được tiền dành cho tái sản xuất,
mở rộng kinh doanh. Không một tổ chức nào có thể thực hiện tốt vai trò này
7
hơn là các trung gian tài chính, và tiêu biểu nhất chính là các ngân hàng
thương mại. Ngân hàng sẽ cho cá nhân vay để tiêu dùng. Người tiêu dùng sẽ
có khả năng thanh toán các nhu cầu hiện tại của mình và trả nợ trong tương
lai, còn doanh nghiệp thì có thể thu hồi vốn để tái sản xuất. Vậy, cho vay tiêu
dùng là gì?
1.2.1.Khái niệm cho vay tiêu dùng .
CVTD được hiểu là một hình thức tín dụng của ngân hàng, trong đó
ngân hàng thỏa thuận cho khách hàng là cá nhân, hộ gia đình được sử dụng
một khoản tiền với mục đích tiêu dùng , theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ cả
gốc lẫn lãi sau một khoảng thời gian nhất định.
Lãi suất và thời hạn vay sẽ được ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
tùy theo đặc điểm của từng khách hàng.
1.2.2.Đặc điểm cho vay tiêu dùng .
Về bản chất, cho vay tiêu dùng cũng là một khoản cho vay của
ngân hàng thương mại, do đó nó mang đẩy đủ những đặc điểm chung nhất

của các khoản cho vay khác.Tuy nhiên, bên cạnh những điểm chung đó, cho
vay tiêu dùng còn mang những đặc điểm riêng có của nó. Cụ thể là:
 Quy mô các khoản vay tiêu dùng thường nhỏ, song số lượng
các khoản vay lại rất lớn.
Ta đã biết: sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng là hướng vào đối
tượng khách hàng cá nhân và hộ gia đình, do đó nó mang nhiều đặc tính của
đối tượng này. Cá nhân khi có nhu cầu mua sắm thường thì có xu hướng tiết
kiệm từ trước. Họ chỉ vay để bù đắp phần thiếu hụt tạm thời, nên thường thì
các khoản CVTD là các khoản vay với quy mô nhỏ .
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống người dân
8
được nâng cao, con người có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn. Tin tưởng vào
nguồn thu nhập sẽ tăng trưởng ổn định trong tương lai, con người cũng có xu
hướng vay cho mục đích tiêu dùng nhiều hơn. Số lượng khách hàng cá nhân
lớn hơn rất nhiều so với khách hàng doanh nghiệp nên số lượng các khoản
vay tiêu dùng cũng là rất lớn.
 Cho vay tiêu dùng là khoản vay kém nhạy cảm với lãi suất
Với mục đích vay tiêu dùng là để trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia
đình, dịch vụ… Ở đây, người vay chỉ quan tâm đến số tiền phải trả hàng kỳ,
liệu thu nhập của mình có đủ để trả không? Họ không quan tâm đến lãi suất
của khoản vay, mặc dù, về bản chất, lãi suất khoản vay đã được tính trong số
tiền phải trả hàng kỳ. Trong hoạt động CVTD, thường thì các ngân hàng phải
tính toán rất kỹ về số tiền khách hàng phải trả mỗi kỳ. Số tiền này phải không
quá lớn để khách hàng có thể trả được nhưng lại không được quá nhỏ vì như
thế, thời gian thu hồi vốn sẽ kéo dài, gây rủi ro cho ngân hàng.
 Xét về chi phí: chi phí cấp tín dụng cho các khoản vay tiêu
dùng thường lớn hơn nhiều so với các khoản cho vay doanh nghiệp.
Đặc điểm này xuất phát từ đối tượng vay tiêu dùng là các khách hàng
cá nhân, hộ gia đình:
Không giống như khách hàng doanh nghiệp, hàng kỳ luôn có các báo

cáo kết quả kinh doanh, tình hình thu chi, tình hình tài sản… mà dựa vào đó,
ngân hàng có thể đỏnh giá hiệu quả hoạt động, khả năng thanh toán. Những
thông tin mà ngân hàng có được từ khách hàng cá nhân thường do bản thân
họ cung cấp, việc chứng minh tài chính là rất khó. Do đó, ngân hàng phải tốn
nhiều chi phí cho việc xác minh các thông tin khách hàng cung cấp có đầy đủ
chính xác không, nhằm tránh các rủi ro có thể xảy ra.
9
Với quy mô nhỏ, số lượng các khoản vay lớn, thời gian vay ngắn, trong
khi đó quy trình tín dụng lại phức tạp, không thể cắt bớt, ngân hàng phải bỏ ra
nhiều chi phí cả về công nghệ cũng như nguồn nhân lực cho việc quản lý
nhóm nợ vay này.
Một điểm quan trọng nữa là do loại hình cho vay tiêu dùng còn khá
mới mẻ ở thị trường Việt Nam, các khách hàng biết khá ít thông tin về
CVTD. Vậy nên, ngân hàng phải bỏ ra nhiều chi phí quảng cáo, marketing
nhằm tiếp cận khách hàng, giúp khách hàng hiểu hơn về sản phẩm, tạo niềm
tin nhằm lôi cuốn khách hàng sử dụng sản phẩm. Không chỉ có vậy, do đặc
điểm các sản phẩm ngành tài chính ngân hàng có tính hấp dẫn khách hàng bị
hạn chế, mỗi ngân hàng cũn phải tạo sự hấp dẫn riêng cho sản phẩm đối nhằm
thu hút khách hàng đến sử dụng dịch vụ của ngân hàng mình.
 Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay chứa đựng rủi ro cao.
Các khoản vay này được đảm bảo bằng thu nhập của các cá nhân và hộ
gia đình, rất ít khi có tài sản đảm bảo. Việc đảm bảo bằng thu nhập chứa đựng
nhiều rủi ro.Thu nhập của cá nhân có thể thay đổi rất dễ dàng, ví dụ như trong
trường hợp thay đổi việc làm, thất nghiệp, thương tật…, điều này ảnh hưởng
lớn đến khả năng trả nợ của khách hàng. Thậm chí, những thay đổi bất thường
trong thu nhập của người thân khách hàng cũng có thể ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của khách hàng. Trong khi đó, ngân hàng không có tài sản đảm
bảo để bán đi nhằm thu hối lại vốn đã cấp phát.
Đồng thời, khoản vay này còn phụ thuộc rất nhiều vào tư cách, thiện
chí trả nợ của khách hàng. Tư cách phẩm chất là thứ rất khó xác định, chủ yếu

dựa vào đánh giá, cảm nhận và kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Trong
trường hợp khách hàng cố ý cung cấp sai thông tin, hoặc do một lý do nào đó
không có khả năng trả nợ hay chây ỳ trả nợ thì ngân hàng khó có thể thu lại
vốn đã cấp phát.
10
 Lãi suất các khoản cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất
các khoản vay thương mại.
Xuất phát từ chi phí cao và rủi ro cao, để bù đắp chi phí và có lãi, ngân
hàng thường định cho nó một mức lãi suất khá cao. Ngân hàng còn yêu cầu
khách hàng phải mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiềm nhân thọ, bảo hiểm
hàng hóa đã mua… Có thể nói, cho vay tiêu dùng thuộc nhóm sản phẩm có
mức lãi suất cao nhất trong các sản phẩm tín dụng của ngân hàng thương mại
 Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại thường lớn.
Như ta đã thấy ở trên, với mức lãi suất rất cao, số lượng lớn khách hàng
đông đảo và có khả năng mở rộng hơn nữa trong tương lai. CVTD hứa hẹn là
mảng kinh doanh mang lại lợi nhuận rất lớn trong tương lai nếu các ngân
hàng chú trọng phát triển dịch vụ này.
1.2.3.Phân loại cho vay tiêu dùng
1.2.3.1 Căn cứ vào thời hạn
Căn cứ vào thời hạn, cho vay tiêu dùng được chia thành 3 loại:
_Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: là những khoản vay tiêu dùng có thời
hạn vay dưới 1 năm. Quy mô các khoản vay ngắn hạn thường là nhỏ. Khách
hàng có thể phát sinh nhu cầu cấp thiết với một loại sản phẩm hàng hóa dịch
vụ mà chưa có đủ khả năng thanh toán, hoặc tích lũy chưa đủ nhưng muốn
tiêu dùng ngay nên họ đến ngân hàng vay phần còn thiếu hụt. Với nguồn thu
nhập có được, khách hàng có kế hoạch trả hết nợ trong thời gian ngắn.
_Cho vay tiêu dùng trung hạn: là những khoản vay tiêu dùng có thời
hạn vay từ 1 đến 5 năm, là những khoàn vay có quy mô trung bình, mà cá
11

nhân hộ gia đình phải cần có thời gian tích lũy mới trả đủ nợ. Mục đích tiêu
dùng của các khoản vay trung hạn thường là chi cho giáo dục, y tế, chi mua
sắm thiết bị gia đình…
_Cho vay tiêu dùng dài hạn: là những khoản vay tiêu dùng có thời hạn
vay từ 5 năm trở lên. Thường thì những khoản vay dài hạn là những khoản
vay rất lớn, được dựng để chi vào việc mua sắm nhà cửa, đất đai, phương tiện
giao thông … Những khoản vay này, khách hàng phải là người có nguồn thu
nhập khá ổn định, việc vay ngân hàng và mục đích tiêu dùng phải được tính
toán rất kỹ lưỡng bởi quy mô khoản vay là khá lớn. Thường thì với thời gian
vay dài, khách hàng sẽ trả lãi và gốc thành nhiều lần.
1.2.3.2 Căn cứ vào mục đích
Căn cứ vào mục đích tiêu dùng của các khoản vay, vay tiêu dùng được chia
thành 2 loại:
_Vay tiêu dùng cư trú: là những khoản vay nhằm mục đích xây dựng,
cải tạo hoặc mua mới nhà ở. Đây là những khoản vay lớn, có thời hạn dài.
Khách hàng khi vay tiêu dùng cư trú cần đàm bảo nguồn thu nhập trả nợ phải
khá ổn định. Ngân hàng có thể dựng chính căn nhà này làm tài sản đảm bảo
cho khoản vay. Với vay tiêu dùng cư trú, phương án trả góp là phương án
được ngân hàng rất khuyến khích khahcs hàng sử dụng.
_Vay tiêu dùng phi cư trú: là những khoản vay tiêu dùng phục vụ cho
việc cải thiện đời sống như mua sắm thêm đồ gia dụng, phương tiện đi lại, các
chi phí cho y tế và giáo dục….Vay tiêu dùng phi cư trú rất đa dạng về thời
hạn vay cũng như quy mô khoản vay. Đó có thể là khoản vay nhỏ, thời hạn
ngắn như chi mua vật dụng gia đình, nhưng cũng có thể là khoản vay lớn như
chi mua phương tiện đi lại đắt tiền như ô tô…
12
1.2.3.3 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, vay tiêu dùng được chia thành 3 loại:
_Vay tiêu dùng phi trả góp: đây thường là những khản vay nhỏ, thời
gian vay ngắn, do đó khách hàng có đủ tiềm lực tài chính để có thể trả hết

trong 1 lần cả gốc lẫn lãi.
_Vay tiêu dùng trả góp: khách hàng được phép trả thành nhiều lần
gốc và lãi khoản vay của mình. Đây thường là những khoản vay lớn, thời gian
vay dài, do đó khách hàng không thể trả hết trong một lần khoản nợ gốc và lãi
của mình. Thường các khoản vay này dựng để tài trợ cho việc mua sắm các
tài sản phục vụ cho nhu cầu sử dụng lâu dài. Đối với hình thức này, thường
thì khách hàng phải trả trước một phần giá trị tài sản cần mua sắm. Điều này
giúp hạn chế một phần rủi ro cho ngân hàng, cũng như tăng trách nhiệm của
người tiêu dùng với tài sản. Định kỳ, khách hàng sẽ thanh toán một phần tiền
lãi và gốc cho ngân hàng. Số tiền này được xác định sao cho phù hợp với thu
nhập và chi tiêu của khách hàng. Thời gian trả nợ cũng được xác định sao cho
tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, tuy nhiên không được quá lâu nhằm
tránh rủi ro cho ngân hàng.
_Vay tiêu dùng tuần hoàn: đây là một dạng vay tiâu dựng đặc biệt.
Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành sec thấu
chi. Ngân hàng cho phép khách hàng thực hiện vay trả nhiều kỳ một cách tuần
hoàn, trong một hạn mức nhất định . Hạn mức này được xác định tùy theo
mức thu nhập và nhu cầu chi tiêu của từng khách hàng. Phương thức này
thường áp dụng cho khách hàng có khả năng tài chính tốt và nhu cầu chi tiêu
thường xuyên.
1.2.3.4 Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ
Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ người ta chia vay tiêu dựng thành 2 loại:
13
_Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là việc ngân hàng mua lại các khoản nợ
của các công ty khi các công ty đã bán chịu hàng hóa dịch vụ cho khách hàng.
Bản chất của việc này chính là ngân hàng đã cho khách hàng vay một cách
gián tiếp qua các công ty, để phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng hóa dịch vụ của
mình.
Hình thức này đem lại lợi ích khá lớn cho cả 3 phía: ngân hàng, công ty
cung cấp hàng hóa dịch vụ và khách hàng. Khách hàng có thể mua nhiều hàng

hóa hơn mà không phải trả tiền ngay .Về phía công ty không phải chịu áp lực
thu hồi vốn, được ngân hàng cấp vốn sử dụng, công ty có thể tái sản xuất và
bán được nhiều hàng hóa dịch vụ hơn, làm tăng doanh số bỏn hàng, tăng lợi
nhuận. Riêng đối với ngân hàng, việc mua lại các khoản nợ của các công ty
làm tăng doanh số, giảm chi phí tín dụng cho các khoản cho vay tiêu dùng.
Nếu ngân hàng có thể thiết lập quan hệ thân thiết với các công ty này thì cho
vay qua hình thức này có thể mang lại doanh số cao, an toàn và có thể tạo
điều kiện phát triển các dịch vụ khác đối với công ty: dịch vụ thanh toán, các
hình thức vay khác…
Tuy nhiên, hình thức này cũng mang nhiều rủi ro cho ngân hàng . Việc
không trực tiếp tiếp xúc khách hàng mà chỉ biết các thông tin về khách hàng
qua công ty sẽ không cho ngân hàng nguồn thông tin đáng tin cậy . Các công
ty có thể lừa đảo bằng cách cung cấp sai các thông tin về khả năng tài chính,
đạo đức khách hàng dẫn đến việc ngân hàng sẽ gặp rủi ro với việc thu hồi các
khoản nợ. Bên cạnh đó, do không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên hình
thức cho vay gián tiếp cũng đòi hỏi quy trình kỹ thuật phức tạp hơn rất nhiều
so với cho vay trực tiếp. Trên thực tế, ngân hàng sẽ đưa ra điều kiện về đối
tượng bán chiu, loại tài sản được phép bán chịu và số tiền được phép chịu tối
đa với một khách hàng, yêu cầu các công ty phải thực hiện.
14
_Cho vay tiêu dùng trực tiếp:là việc ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với
khách hàng trong quá trình cho vay và thu nợ.
Qua việc trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, ngân hàng có thể biết được
chính xác, đầy đủ hơn về tài chính, đạo đức khách hàng, trên cơ sở đó đánh
giá khả năng xảy ra rủi ro, đưa ra quyết định cho vay hay không, với mục tiêu
có được những khoản vay với chất lượng tốt nhất.
Bên cạnh đó, với sự chuyên nghiệp của mình, khi xảy ra các vấn đề
phát sinh, ngân hàng có thể xử lý việc này tốt hơn các công ty, mang quyền
lợi tốt nhất đến cho cả ngân hàng và khách hàng.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, việc cho vay trực tiếp đòi hỏi chi phí lớn

và thường cho vay các khoản nhỏ lẻ dẫn đến khả năng tăng dư nợ, tăng doanh
số cho vay của ngân hàng chậm hơn nhiều so với cho vay gián tiếp.
1.2.4.Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dựng
Hoạt động cho vay tiêu dùng ra đời với những ưu điểm của mình đã
nhanh chóng khẳng định vị trí và tiềm năng phát triển của mình . Nó tác động
to lớn đến mọi chủ thể trong nền kinh tế, cụ thể là:
_Đối với người tiêu dùng: cho vay tiêu dùng đã giải quyết giúp người
tiêu dùng một vấn đề khá là phổ biến. Thường thì con người ta, khi có một
nhu cầu mua sắm hay tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ nào đó, luôn có
xu hướng tiết kiệm từ hiện tại, đợi đến khi dành dụm đủ tiền thì sẽ mua . Tuy
nhiên, điều đáng nói ở đây là có những nhu cầu như mua nhà ở hay những vật
dụng xa xỉ như ô tô… thì đến khi gom đủ tiền sẽ phải mất rất nhiều thời gian,
có khi con người đã về già. Khi đó, khả năng hưởng thụ của con người sẽ
giảm đi đáng kể . Vậy làm thế nào mà có thể tiêu dùng những hàng hóa đó ở
hiện tại với nguồn thu nhập có được trong tương lai . Nắm bắt được nhu cầu
15
đó, các ngân hàng thương mại đã cho ra đời sản phẩm cho vay tiêu dùng .
Với sản phẩm này, người tiêu dùng có thể thỏa mãn những nhu cầu của mình
ngay tại thởi điểm mình mong muốn mà không phải đợi đến khi về già . Bên
cạnh đó, cho vay tiêu dùng còn cung cấp nguồn thanh toán cho con người
trong những trường hợp cần chi tiêu đột xuất, cấp bách như chi cho y tế (mổ,
phẫu thuật…) và giáo dục mà không có nguồn tài chính dự phòng.
_Với nhà sản xuất: cho vay tiêu dùng đã tác động một cách gián tiếp
đến hoạt động sản xuất. Cho vay tiêu dùng đã giúp người tiêu dùng mạnh dạn
tiêu dùng bằng khoản tiền vay được . Số lượng hàng hóa dịch vụ tiêu thụ tăng
lên. Nhà sản xuất thu hồi được vốn và tiếp tục tái sản xuất, mở rộng quy mô,
mua sắm máy mĩc thiết bị, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Có thể nói, CVTD đã gia tăng vòng luân chuyển hàng hóa, tăng thu nhập của
nhà sản xuất.
_Với ngân hàng thương mại:

Cho vay tiêu dùng là một trong các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng,
tạo tính đa dạng hóa sản phẩm. Bằng cách này, ngân hàng có thể phân tán
nguồn vốn của mình, từ đó giảm rủi ro cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng còn mang lại nguồn doanh thu khá lớn cho ngân
hàng. Kinh tế phát triển, cạnh tranh giữa các ngân hàng càng khốc liệt. Nhiều
doanh nghiệp thiếu vốn thay vì đi vay vốn ngân hàng lại tự tài trợ vốn bằng
phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Mảng khách hàng doanh nghiệp được hầu
hết các ngân hàng thương mại khai thác, việc cạnh tranh làm giảm thị phần
cho vay đối với các doanh nghiệp buộc các ngân hàng phải mở rộng thị
trường cho vay. Trong khi đó thì mảng khách hàng cá nhân lại chưa được chú
ý nhiều. Đối tượng khách hàng cá nhân có số lượng đông đảo hơn nhiều so
với khách hàng doanh nghiệp. Đời sống được nâng cao, nhu cầu chi tiêu của
16
con người càng được mở rộng. Tin tưởng vào nguồn thu nhập sẽ có được, con
người sẽ mạnh dạn vay cho tiêu dùng nhiều hơn.Trong tương lai, nếu cung
cấp thêm các sản phẩm dịch vụ hướng vào đối tượng cá nhân chắc chắn sẽ
mang lại cho ngân hàng nguồn doanh thu không nhỏ.
Cho vay tiêu dùng còn là công cụ marketing rất hiệu quả của ngân hàng. Đối
tượng của CVTD là các cá nhân, hộ gia đình, số lượng rất đông đảo.Thông
qua cho vay tiêu dùng, nhiều khách hàng sẽ biết đến ngân hàng hơn. Ngân
hàng còn có thể huy động được nhiều tiền gửi từ dân cư bởi người dân sẽ gửi
tiền vào khi họ thấy rằng mình có khả năng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó
khi cần thiết. Ngoài ra, còn rất nhiều dịch vụ có thể phát triển hơn nữa hướng
vào đối tượng khách hàng cá nhân mà ngân hàng có thể tận dụng mối quan hệ
sẵn có để giới thiệu với khách hàng như dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ…
_Đối với đời sống kinh tế xã hội nói chung: Hoạt động cho vay tiêu
dùng có tác động theo hướng tích cực. Cho vay tiêu dùng đóng vai trị quan
trọng trong quá trình luân chuyển hàng hóa. Quá trình sản xuất lưu thông
hàng hóa nếu không có tiêu dùng sẽ dẫn đến ứ đọng, doanh nghiệp không tiêu
thụ được sẽ bị ứ đọng vốn, không thể sản xuất thêm được. Cho vay tiêu dùng

giúp người dân có khả năng thanh toán trước khi họ tích lũy đủ số tiền cần
thiết, giúp họ mạnh dạn mua sắm các sản phẩm dịch vụ, cải thiện mức sống.
Hàng hóa được tiêu thụ dẫn đến doanh nghiệp sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và
tìm đến ngân hàng vay vốn. Như vậy, cả ba bên đều có lợi. Không chỉ tác
động đến những chủ thể kinh tế, cho vay tiêu dùng còn góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội như thất nghiệp, tệ nạn xã hội…Bằng việc mở rộng sản
xuất, các doanh nghiệp sẽ sử dụng nhiều lao động hơn, làm giảm thất nghiệp.
Người dân có thu nhập ổn định sẽ tránh vướng vào tệ nạn xã hội, tăng cường
tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống.
17
1.3. MỞ RỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay tiêu dùng
“ Mở rộng” được hiểu theo nghĩa đơn thuần là sự gia tăng về quy mô,
khối lượng, số lượng và chất lượng. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng,
khái niệm mở rộng có nghĩa là:
Với khách hàng, mở rộng cho vay tiêu dùng nghĩa là ngân hàng phải
cung cấp các sản phẩm dịch vụ sao cho thỏa mãn ngãy càng nhiều các nhu
cầu của khách hàng cả về số lượng các sản phẩm cũng như chất lượng
dịch vụ.
Với ngân hàng, mở rộng cho vay tiêu dùng là gia tăng số lượng khách
hàng sử dụng dịch vụ, tăng quy mô và chất lượng các khoản vay, tăng doanh
thu, phải gia tăng tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ tín dụng.
Với nền kinh tế, cho vay tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng yêu cầu về vốn. Mở rộng cho vay tiêu dùng là cung cấp nguồn vốn để
người dân có tiền để mạnh dạn tiêu dùng, hàng hóa được tiêu thụ, từ đó thúc
đẩy sản xuất phát triển. Cho vay tiêu dùng được sử dụng như một kênh truyền
dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh.
Với ngân hàng thương mại, cho vay tiêu dùng là một sản phẩm dịch vụ,

do dĩ nó không chỉ được nói đến một cách chung chung mà cần được lượng
hóa để có thể đánh giá hiệu quả thực sự mà nó mang lại. Với sản phẩm cho
vay tiêu dùng, có 3 chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng:
 Chỉ tiêu tăng trưởng doanh số:
Doanh số là chỉ tiêu thể hiện tổng số tiền mà ngân hàng cho vay được trong
kỳ. Đây là chỉ tiêu thời kỳ, nó cho ta thấy hiệu quả hoạt động tín dụng của
ngân hàng trong một kỳ, thường là 1 năm tài chính.
18
Doanh số năm
(t-1)
Chỉ tiêu tăng trưởng doanh số tương đối =
Tăng trưởng tỷ trọng CVTD =
 Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ.
Dư nợ được hiểu là số tiền mà khách hàng đang còn nợ ngân hàng tại
một thời điểm. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác thực trạng cho vay tiêu
dùng của ngân hàng tại thời điểm nghiên cứu.
Tăng trưởng dư nợ tuyệt đối= dư nợ năm t - dư nợ năm (t-1)
Tăng trưởng dư nợ tương đối=
Tỷ trọng CVTD =
 Chỉ tiêu tăng trưởng số lượng khách hàng.
Số lượng khách hàng nói chung được hiểu là số khách hàng đến giao
19
dịch với ngân hàng. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng
là số khoản vay tiêu dùng mà khách hàng vay của ngân hàng. Chỉ tiêu tăng
trưởng số lượng khách hàng phản ánh sự gia tăng số lượng các khoản vay tiêu
dùng mà ngân hàng cho khách hàng vay, được tính như sau:
Tăng trưởng số lượng khách hàng = Số lượng khách hàng năm t –Số
lượng khách hàng năm (t-1)
1.3.3. Các nhân tố tác động đến mở rộng cho vay tiêu dùng.
Ta biết rằng, không một hoạt động kinh tế nào có thể diễn ra mà không

gắn với những hoạt động khác.Là một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng
thương mại, cũng giống như các sản phẩm khác, cho vay tiêu dùng chịu tác
động của nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Cụ thể là:
1.3.3.1. Nhân tố khách quan.
 Các yếu tố về môi trường:
Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc
mở rộng cho vay tiêu dùng. Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như lạm
phát, tăng trưởng …, những yếu tố này có tác động trực tiếp đến thu nhập của
người dân. Như ta đã biết, việc quyết định vay tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều
vào thu nhập và nhu cầu chi tiêu của mỗi cá nhân. Trong nền kinh tế phát
triển bền vững, các cá nhân có thể tin tưởng vào khả năng trả nợ bằng nguồn
thu nhập của mình trong tương lai, do đó, họ sẽ mạnh dạn đi vay để phục vụ
cho mục đích tiêu dùng hiện tại. Ngược lại, khi kinh tế lâm vào khủng hoảng,
lạm phát, thất nghiệp gia tăng, người dân thường có xu hướng giảm dần các
khoản chi tiêu không thực sự cần thiết, càng không có ý định đi vay thêm để
tiêu dùng vì lo sợ khả năng không trả được nợ.
Môi trường văn hóa- xã hội: môi trường văn hóa xã hội tác động sâu
20
sắc đến quyết định vay tiêu dùng của khách hàng. Với mỗi nền văn hóa khác
nhau con người lại có thói quen tiêu dùng khác nhau. Ở các nước phát triển,
con người thường có xu hướng sống cho hiện tại, và không lo nhiều về tương
lai. Do đó, người dân ở đây sẵn sang đi vay để thỏa mãn cho những nhu cầu
hiện tại. Còn những nước đang phát triển, như Việt Nam, người dân có xu
hướng tiết kiệm để dành chi tiêu cho những nhu cầu bất thường như đau ốm,
bệnh tật hay để cho thế hệ sau. Do đó, nhu cầu của họ cho tiêu dùng hiện tại
thực sự không lớn, không bỏ tiền ra nếu không thực sự cần thiết. Họ cũng ưa
an toàn, do đó không ưa chuộng đi vay để tiêu dùng,vốn là những khoản vay
không tạo ra giá trị sản xuất.
Không chỉ có vậy, trình độ dân trí cũng tác động đến nhu cầu tiêu dùng
của các cá nhân. Như ta đã biết, thu nhập của một người phụ thuộc rất lớn vào

nghề nghiệp và trình độ văn hóa của người đó. Ở những khu vực trình độ dân
trí cao thường là những khu vực có kinh tế phát triển, người dân có thu nhập
cao và ổn định. Do đó, họ tin vào khả năng tạo thu nhập của mình trong tương
lai nên sẵn sang đi vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng nếu thấy cần thiết.
Môi trường chính trị-pháp luật: Môi trường chính trị là nền tảng cho
môi trường kinh tế. Một nền kinh tế không thể phát triển bền vững nếu chính
trị không ổn định. Không thể thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Sản
xuất kém phát triển. Các ngân hàng không thể đẩy mạnh thu hút nguồn vốn và
cho vay.Chính trị không ổn định còn kéo theo những vấn đề về xã hội như
thất nghiệp, tệ nạn xã hội… Đời sống người dân gặp khó khăn. Thu nhập
không ổn định không thể khuyến khích người dân đẩy mạnh tiêu dùng, càng
không nghĩ đến vay nhằm mục đích tiêu dùng.
Pháp luật là khung cho các hoạt động khác diễn ra. Trong nền kinh tế
ngày càng phát triển, cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Yêu
21
cầu đặt ra là phải dần hoàn thiện hệ thống phát luật , tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống pháp
luật đẩy đủ, chặt chẽ sẽ làm giảm những kẽ hở, tránh xảy ra gian lận, tránh
mâu thuẫn không đáng có giữa ngân hàng và khách hàng, bảo vệ quyền lợi
khách hàng, tạo niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, từ đó giúp ngân
hàng dễ dàng thuyết phục khách hàng sử dụng dịch vụ của mình.
Chủ trương chính sách của ngân hàng nhà nước và chính phủ: các
chính sách này có thể khuyến khích hoặc hạn chế cho vay tiêu dùng. Cụ thể là
ngân hàng nhà nước tác động đến các hoạt động của ngân hàng thương mại
nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng qua các chính sách tiền tệ. Các
chính sách của chính phủ đặc biệt là các chính sách về kinh tế có thể tác động
đến thu hút đầu tư, từ đó thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển kinh tế, tác động
đến khả năng tiêu dùng của người dân.
Trình độ phát triển khoa học công nghệ: khoa học công nghệ đang
ngày càng khẳng định vai trò của mình trong cuộc sống. Công nghệ phát triển

xây dựng nền kinh tế hiện đại, tăng năng suất chất lượng sản phẩm, tăng hiệu
quả lao động của con người, nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí
cũng được tăng lên. Nhất là các ngành như dịch vụ tài chính, ta không thể phủ
nhận vai trò vô cùng quan trọng của công nghệ .
 Về khách hàng:
Khách hàng là đối tượng trực tiếp tác động đến hoạt động cho vay tiêu
dùng của ngân hàng. Khả năng khoản vay có rủi ro hay không phụ thuộc rất
lớn vào khách hàng.
Trước tiên phải kể đến tư cách của khách hàng. Khách hàng phải là
người có đạo đức tốt, trung thực. Điều này nhằm tránh xảy ra trường hợp
khách hàng cung cấp thông tin sai lệch khiến ngân hàng cung cấp những
22

×