Lời Mở Đầu
Trong công cuộc đổi mới không ngừng của khoa học kỹ thuật công nghệ, nhiều lĩnh vực
đã và đang phát triển vượt bậc đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin. Thành công lớn
nhất có thể kể đến là sự ra đời của chiếc máy tính. Máy tính được coi là một phương tiện
trợ giúp đắc lực cho con người trong nhiều công việc đặc biệt là công tác quản lý. Mạng
máy tính được sinh từ nhu cầu muốn chia sẻ và dùng chung dữ liệu.
Máy tính cá nhân là công cụ tuyệt vời giúp tạo dữ liệu, bảng tính, hình ảnh, và nhiều
dạng thông tin khác, nhưng không cho phép chia sẻ dữ liệu bạn đã tạo nên. Sự bùng nổ
dịch vụ Internet cũng như bùng nổ số lượng người sử dụng khi công nghệ trở nên thân
thiện với con người, các cơ hội đã được mở ra với một thị trường cực kì rộng lớn cho các
doanh nghiệp, các sản phẩm, dịch vụ được phân phối và cung cấp rộng khắp, nhanh
chóng và cực kì tiện lợi.
Cùng với tiến trình phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, Internet ra đời được ví như
một cuộc cách mạng trong thế giới truyền thông và kinh doanh. Internet đã và đang thay
đổi mọi quan điểm về học tập, kinh doanh và đưa chúng ta đến với thời đại mới- thời đại
công nghệ số. Internet trở thành một môi trường kinh doanh liên kết mọi quốc gia và tạo
ra một thị trường lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cùng với nó là sự phát triển như vũ
bão của mạng toàn cầu tại Việt Nam.
Thời gian gần đây, kinh doanh trên mạng Internet đang được các cá nhân và doanh
nghiệp Việt Nam đặc biệt chú ý tới. Đó như là một hệ quả tất yếu, và bất kỳ ai trong
chúng ta cũng không thể đứng ngoài cuộc vì những lợi ích to lớn này. Đặc biệt trong bối
cảnh suy thoái kinh tế thì thương mại điện tử như một giải pháp cứu cánh. Trong tương
lai, thương mại điện tử sẽ là một trong những giải pháp hàng đầu cho kinh tế toàn cầu nói
chung và Việt Nam nói riêng.
1
Tính cấp thiết của đề tài:
• Internet Marketing nói riêng hay thương mại điện tử nói chúng ảnh hưởng và tác
động mạnh đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân và doanh nghiệp. Trong
những năm qua và nhất là không thời điểm kinh tế vĩ mô chung đang khó khăn
này thì thương mại điện tử và internt marketing luôn là chủ đề nóng bỏng.
• công nghệ phát triển ,thương mại điện tử chiếm một vị thế rất quan trọng trong
việc quảng bá sản phẩm ,hay kinh doanh trực tuyến
Phạm Vi Nghiên Cúu
• Sự phát triển của internet và ảnh hưởng của nó đến các doanh nghiệp ở Việt Nam
• Ứng dụng của 5giay.vn vào thương mại điện tử thông qua website :
Mục Đích Nghiên Cứu
• Đáp ứng yêu cầu đề tài tiểu luận Thầy yêu cầu
• Tìm hiểu sự phát triển của công nghệ
• Nhận định xu hướng phát triển của thương mại điện tử
• Phân tích hoạt động kinh doanh của 5giay.vn để rút ra kinh nghiệm phát triển cho
bản thân cũng như doanh nghiệp của mình
Bố Cục Đề Tài
• Mở bài
• Chương 1 : Cơ sở lý luận về TMDT
• Chương 2 : Phân tích thực trạng ứng dụng điện tử của 5giay.vn
• Chương 3: giải pháp phát triển và đề xuất kiến nghị
• Kết luận
Chương 1 : Cơ Sở Lý Luận Về Thương Mại Điện Tử
1.1 Khái niệm ,vai trò ,lịch sử hình thành và phát triển TMĐT
1.1.2 Khái niệm
2
Thương mại điện tử (còn gọi là E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua
bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông,
đặc biệt là qua máy tính và mạng Internet. Thương mại điện tử(Electronic
Commerce), một yếu tố hợp thành của nền "Kinh tế số hóa", là hình thái hoạt động
thương mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần phải in ra
giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên còn gọi là "Thương
mại không có giấy tờ").
"Thông tin" trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ
thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính,
các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng,
đơn hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu mẫu, hình ảnh
động, âm thanh, v.v
"Thương mại" (commerce) trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu (như
quy định trong "Đạo luật mẫu về thương mại điện tử" của Liên hiệp quốc) là mọi
vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại (commercial),
dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm
bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thoả
thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài
hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân
hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức
khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành
khách bằng đường biển, đường không, đường sắt, đường bộ; và v.v Như vậy,
phạm vi của thương mại điện tử (E-commerce) rất rộng, bao quát hầu như mọi
hình thái hoạt động kinh tế, mà không chỉ bao gồm buôn bán hàng hóa và dịch vụ;
buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một trong hàng nghìn lĩnh vực áp dụng
của thương mại điện tử.
1.1.3 Vai trò
• Thu thập được nhiều thông tin
3
Với việc tham gia vào môi trường Thương mại điện tử toàn cầu, doanh nghiệp có
cơ hội được tiếp cận với nguồn thông tin đa dạng và khổng lồ qua đó có cơ hội lựa
chọn các thông tin phù hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ chỉ
trên Sàn đấu giá Ebay trên Internet có tới 55 triệu sản phẩm nằm trong hơn 50.000
danh mục hàng khác nhau điều này đã khiến cho Ebay nổi tiếng toàn cầu với hơn
157 triệu thành viên trên toàn thế giới
• Giảm chi phí sản xuất, bán hàng, tiếp thị và giao dịch
TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng
không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm
kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như được bỏ
hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này
đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng
lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu
phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
TMĐT giúp giảm thấp chi bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/
Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng,
catalogue điện tử (electronic catalogue) trên Web phong phú hơn nhiều và thường
xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi
thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách hàng
đặt mua 9% phụ tùng qua Internet ( và nhiều các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật), và
mỗi ngày giảm bán được 600 cuộc gọi điện thoại.
TMĐT qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể
thời gian và chi phí giao dịch ( giao dịch được hiểu là từ quá trình quảng cáo, tiếp
xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua
Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn
thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua
Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất, vì việc nhanh
chóng làm cho thông tin hàng hóa tiếp cận người tiêu thụ (mà không phải qua
trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài
4
ra, việc giao dịch nhanh chóng, sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc kinh doanh hàng rau quả, hàng tươi sống, là
thứ hàng có tính thời vụ, đòi hỏi phải có “ thời gian tính” trong giao dịch.
Tổng hợp tất cả các lợi ích trên, chu trình sản xuất (cycle time) được rút ngắn, nhờ
đó sản phẩm mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn.
Thực tế hiện nay tại Việt Nam có khá nhiều doanh nghiệp quy mô hoạt động rất
nhỏ, họ chỉ có một website bán hàng với vài nhân viên trụ sở có thể đặt tại một
phòng làm việc ở bất cứ nơi đâu. Họ quảng bá website bán hàng của mình ra thị
trường thế giới để tìm kiếm các bạn hàng, họ thiết lập một hệ thống các nhà sản
xuất cung cấp sản phẩm cho khách hàng của mình sau khi ký hợp đồng. Điều này
đã giúp cho doanh nghiệp đó phát triển rất nhanh vì đã cắt giảm được rất nhiều chi
phí trong hoạt động kinh doanh, quảng bá, tiếp thị và giao dịch.
• Tăng chất lượng dịch vụ khách hàng
Sử dụng các tiện ích của Thương mại điện tử doanh nghiệp có thể nhanh chóng
cung cấp cho khách hàng các catalogue, brochure, bảng giá, hợp đồng một cách
gần như tức thời. Bên cạnh đó với website bán hàng của mình doanh nghiệp tạo
điều kiện cho khách hàng có cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp với đầy đủ các
thông tin mà không cần thiết phải tới tận trụ sở hay xưởng sản xuất của doanh
nghiệp.
Sau khi bán hàng doanh nghiệp cung cấp hàng sử dụng các tiện ích của Thương
mại điện tử để triển khai các dịch vụ chăm sóc khách hàng một cách nhanh chóng
và tức thời. Các hỗ trợ cho khách hàng về sử dụng sản phẩm, dịch vụ có thể được
tiến hành trực tuyến trên mạng giúp giảm thiểu thời gian và chi phí của cả doanh
nghiệp và khách hàng.
• Tăng doanh thu
Do một trong những đặc trưng của Thương mại điện tử là thị trường không biên
giới nên chính vì thế giúp cho doanh nghiệp có cơ hội quảng bá thông tin sản
phẩm, dịch vụ của mình ra thị trường toàn cầu qua đó giúp tăng số lượng khách
hàng và tăng doanh thu.
5
Bên cạnh đó với các tiện ích và công cụ hiệu quả của Thương mại điện tử sẽ giúp
cho doanh nghiệp không còn thụ động ngồi chờ khách hàng đến mà sẽ chủ động
trong việc tìm kiếm khách hàng qua đó góp phần đẩy nhanh doanh thu của doanh
nghiệp.
• Tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Nếu như không có Thương mại điện tử thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ và rất nhỏ
sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn vì khoảng cách về
vốn, thị trường, nhân lực và khách hàng. Khi ứng dụng Thương mại điện tử
khoảng cách này sẽ bị thu hẹp lại do bản thân doanh nghiệp đó có thể cắt giảm
nhiều chi phí. Hơn thế nữa với lợi thế của kinh doanh trên mạng sẽ giúp cho doanh
nghiệp tạo ra bản sắc riêng về một phương thức kinh doanh mới khác với hình
thức kinh doanh truyền thống. Chính những điều này sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp giúp cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thậm chí là rất nhỏ trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ của mình.
1.1.4 Lịch sử hình thành và phát triển TMĐT
Thuật ngữ "thương mại điện tử" được nói đến rất nhiều và nhiều người nghĩ rằng
thương mại điện tử là sản phẩm của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng,
thương mại điện tử, tức tiến hành kinh doanh bằng cách gửi và nhận thông điệp
qua mạng đã hình thành từ cách đây một thế kỷ
Năm 1910, 15 người bán hoa của Đức đã tập hợp lại cùng nhau để trao đổi theo
đường điện báo những đơn hàng hoa đặt mua từ ngoại thành. Tổ hợp Điện báo
Giao nhận của những người bán hoa nói trên, ngày nay là công ty FTD Inc., có thể
đã là mạng thương mại điện tử thực sự đầu tiên.
Tuy nhiên đối với các hệ thống thương mại điện tử được kết nối bằng máy tính,
một yêu cầu quan trọng là cần có những tài liệu kinh doanh đã được chuẩn hoá để
các máy tính ở mỗi đầu dây đều có thể hiểu được nhau. Cội nguồn của loại hình
thương mại điện tử này cũng bắt đầu rất sớm, từ năm 1948, khi Liên bang Xô
Viết, kiểm soát Đông Đức cắt đứt đường thuỷ, đường sắt và đường bộ giữa Tây
Đức và Berlin, phần lãnh thổ do Mỹ, Anh và Pháp kiểm soát sau chiến tranh thế
6
giới lần thứ II.
Kết quả là Cầu hàng không Berlin ra đời. Trong 13 tháng tiếp theo, hơn 2 triệu tấn
thực phẩm và những đồ tiếp tế khác đã được chuyển vào Tây Berlin bằng đường
hàng không. Tuy nhiên, việc theo dõi hàng hoá mà việc bốc dỡ phải tiến hành thật
nhanh, đã không thể tiến hành được với những bản kê khai hàng hoá vận chuyển
theo những biểu mẫu khác nhau và đôi khi được viết bằng những ngôn ngữ khác
nhau.
Để giải quyết vấn đề này, một sĩ quan quân đội Mỹ Edward A. Guilbert và các sĩ
quan hậu cần khác đã phát triển một hệ thống kê khai chuẩn có thể truyền bằng
telex, máy vô tuyến điện báo hoặc điện thoại. Họ đã theo dõi hàng ngàn tấn hàng
trong một ngày cho đến khi các tuyến đường khác vào Berlin được mở lại vào năm
1949.
Thương mại điện tử - con đường hình thành và phát triểnGuilbert đã không quên
giá trị của những kê khai chuẩn. Đầu những năm 1960, trong khi đang làm việc tại
Công ty Du Pont, ông đã phát triển một chuẩn dành cho các thông điệp điện tử để
gửi thông tin hàng hoá giữa Công ty Du Pont và hãng vận chuyển Chemical
Leahman Tank Lines. Năm 1965, hãng vận chuyển Steamship Line (liên doanh
giữa một hãng của Mỹ và một hãng của Hà Lan) bắt đầu gửi cho hãng vận chuyển
Atlantic những bản kê khai chuyển hàng dưới dạng những thông điệp telex mà sau
đó có thể in ra giấy hoặc nhập vào máy tính.
Đến năm 1968, rất nhiều các công ty vận chuyển đường sắt, hàng không, đường
bộ và vận chuyển đường biển đã sử dụng những chuẩn kê khai điện tử liên ngành
do Uỷ ban Phối hợp Truyền dữ liệu (Transportation Data Coordinating Committee
- TDCC) của Mỹ khởi xướng và vào năm 1975, TDCC đã xuất bản tài liệu đặc tả
kỹ thuật thuật trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) đầu tiên của mình.
Ngành lương thực và thực phẩm bắt đầu một dự án thử nghiệm về trao đổi dữ liệu
điện tử vào năm 1977. Đến đầu những năm 1980, Tập đoàn ô tô Ford Motor và
Tập đoàn ô tô General Motor yêu cầu những nhà cung cấp của họ sử dụng EDI.
Những nhà bán lẻ lớn như Sears, Roebuck và Co. và Kmart Corp. cũng bắt đầu sử
dụng EDI.
7
Tuy nhiên, trong khi EDI tiết kiệm cho khách hàng rất nhiều tiền bạc bằng cách
loại bỏ tất cả các thủ tục giấy tờ, thì nó lại tỏ ra rất đắt đối với những nhà cung
cấp. Nó đòi hỏi nhà cung cấp phải sử dụng phần mềm đắt tiền và những mạng gia
tăng giá trị (VAN). Ngoài ra, những nhà cung cấp thường phải sử dụng những hệ
thống EDI khác nhau cho các khách hàng lớn của mình vì không có khách hàng
nào hoàn toàn tuân thủ tập chuẩn con EDI trong ngành của mình. Trước tình hình
phần lớn khách hàng lớn đều yêu cầu các nhà cung cấp phải sử dụng EDI, sự lựa
chọn trở nên khá đơn giản: Không có EDI, không có doanh thu.
Đến năm 1991, khoảng 12.000 doanh nghiệp Mỹ đang sử dụng EDI. Đó cũng là
năm chính phủ Mỹ bãi bỏ hạn chế thương mại sử dụng Internet, và là năm Tim
Berners-Lee đã tạo ra trình duyệt web đầu tiên. Một kiểu thương mại điện tử mới,
từ doanh nghiệp đến người tiêu dùng, trên web đã bùng nổ.
Năm 1994, trình duyệt web Netscape Navigator, với tính năng hỗ trợ "cookies",
những tệp dữ liệu nhỏ được lưu trên máy tính của người sử dụng đã tạo điều kiện
cho việc tạo những cửa hàng trên Web có khả năng nhận dạng những khách hàng,
tập hợp dữ liệu về họ và cá nhân hoá việc bán hàng để phủ hợp với khách hàng.
1.2 Các khái niệm của Internet
Năm 1969, mạng ARPAnet của bộ Quốc phòng Mỹ được thành lập. (ARPA là viết
tắt của từ Advanced Research Projects Agency - Cơ quan các dự án nghiên cứu
cao cấp, net là mạng ) với mục tiêu là:
Là một mạng máy tính có khả năng chịu đựng các sự cố (ví dụ một số nút mạng bị
tấn công và phá huỷ nhưng mạng vẫn tiếp tục hoạt động).
Mạng cho phép một máy tính bất kỳ trên mạng liên lạc với mọi máy tính khác.
Năm 1982, bộ giao thức TCP/IP được thành lập (TCP/IP=Transmission Control
Protocol/ Internet Protocol). Đây là giao thức giúp cho các máy có thể dễ dàng
8
truyền thông với nhau và cũng chính là giao thức chuẩn trên Internet cho đến ngày
nay.
Năm 1983, ARPAnet sử dụng bộ giao thức TCP/IP và sau đó, Tổ chức Khoa học
Quốc gia của Mỹ (National Science Foundation - NSF) tài trợ cho việc xây dựng
NSFnet thay thế cho ARPAnet.
Năm 1986 NSFnet liên kết 60 đại học Mỹ và 3 đại học châu Âu. Điểm quan trọng
của NSFnet là nó cho phép mọi người cùng sử dụng
Năm 1991, tại trung tâm nghiên cứu nguyên tử Châu Âu CERN, Tim Berners Lee
triển khai thành công dịch vụ World Wide Web (WWW). Chính nhờ dịch vụ này
mà người sử dụng tìm thấy ở mạng máy tính toàn cầu có nhiều điều hấp dẫn.
Năm 1993 NSF lập InterNIC cung cấp nhiều dịch vụ mới, khái niệm Internet,
mạng thông tin toàn cầu được hình thành.
Ngày nay Internet thực sự là mạng máy tính của toàn cầu với việc cho phép mỗi
người đều tìm thấy ở đó dịch vụ mà mình cần đến
Tháng 12 năm 1997, Việt Nam chính thức tham gia kết nối vào mạng lưới toàn
cầu Internet.
1.3 An ninh và bảo mật trong thương mại điện tử ,những rủi ro có thể gặp
phải và giải pháp.
1.3.1 An ninh và bảo mật
Hơn lúc nào hết, tình trạng bảo mật cho các website nói chung và các website
thương mại điện tử Việt Nam nói riêng đáng báo động như hiện nay. Nếu không
kịp thời khắc phục thì sẽ là hiểm hoạ khôn lường cho ngành công nghệ còn non trẻ
này của đất nước. Tình trạng ăn cắp và sử dụng thẻ tín dụng giả để mua hàng trên
các website thương mại điện tử, tình trạng phát tán virus ăn cắp mật mã liên tục
xảy ra với cường độ ngày một nhiều, một số vụ tấn công của các Hacker Việt vào
9
một vài website thương mại điện tử trong thời gian gần đây, một số website của
các tổ chức bị các hacker nước ngoài xâm nhập… tự nó đã nói lên điều đó.
Có hai công cụ tiêu biểu là bức tường lửa (firewall) và các kênh truy cập được
thiết lập riêng để đối tác truy nhập một cách an toàn (tunnel).
Bức tường lửa đóng vai trò rất lớn trong các dự án thương mại điện tử. Nó có thể
giám sát các website và bảo vệ các hệ thống xử lý lệnh. Nó kết hợp giữa phần
cứng và phần mềm, là hàng rào giữa tài nguyên Internet của doanh nghiệp với thế
giới bên ngoài. Công nghệ cho công cụ này có hai hình thức cơ bản là phần mềm
cài đặt vào server internet hoặc một hệ thống lọc độc lập trước server internet và
bảo vệ mạng nội bộ trước thế giới bên ngoài. Một bức tường lửa chỉ gồm phần
mềm là đủ đảm bảo an toàn cho một website thương mại điện tử cỡ nhỏ, còn loại
hệ thống độc lập trước server thì dùng để bảo toàn dữ liệu cho các dự án quy mô
hơn. Bức tường lửa có hai thành phần chính gồm: cổng và van. Cổng cho phép dữ
liệu lưu thông giữa hai mạng thông tin trong khi van để ngăn các gói dữ liệu ra
vào không đúng cổng. Để áp dụng hiệu quả hơn, theo các chuyên gia khuyến cáo
thì nên sử dụng song song hai bức tường lửa của hai nhà sản xuất khác nhau để
phát huy đầy đủ và không bỏ sót các khiếm khuyết của từng bộ.
Trong khi đó, Tunnel dựa trên cơ sở các gói giao thức Internet được mã hoá, cung
cấp tạo ra mạng riêng ảo (virtual private network – MRA) nhằm phục vụ cho các
giao tiếp kinh doanh cần mức độ bảo mật cao. MRA rất hữu dụng trong việc ngăn
chặn các tay hacker cũng như người sử dụng không được phép trong khi công
nghệ này lại có thêm khả năng kết nối mọi người lại với nhau. Hay nói khác hơn,
ngoài chức năng là công cụ bảo mật, tunnel còn giúp các nhân viên, bất kể xa hay
gần, có phương tiện rẻ tiền để kết nối với nhau. Các chi phí để thiết lập tunnel chủ
yếu là chi phí ban đầu, sau đó thì chỉ tốn chi phí hoạt động rất ít.
Tuy bức tường lửa và tunnel là những công cụ khá an toàn cho thương mại điện tử
nhưng nó cũng có những mối đe doạ không phải nhỏ. Bức tường lửa không thể
ngăn chặn được các truy nhập trái phép ngay từ các nhân viên trong công ty vì vậy
10
bạn cần phải xác định ngay rằng khi mở MRA cho các đối tác kinh doanh đồng
nghĩa với việc bạn đang đặt tổ chức của mình vào nguy cơ thất thoát thông tin cao.
Mặc dù công cụ đã có như vậy, tuy nhiên để nó đi vào ứng dụng thì vẫn chưa thực
sự được coi trọng hay nói đúng hơn thì đội ngũ các CIO cũng còn có kiến thức về
bảo mật khá hạn chế khi họ bắt đầu một dự án thương mại điện tử. Việc xây dựng
một hệ thống bảo mật cho riêng người Việt Nam với giá bán cho người Việt Nam
sẽ kích thích ứng dụng trong nước hơn. Ngoài ra, cần đào tạo đội ngũ CIO cho các
doanh nghiệp thương mại điện tử về kiến thức bảo mật để theo kịp với sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin thế giới; Cần giáo dục mọi người nói
chung và đội ngũ các công dân mạng trẻ nói riêng ý thức hơn trong việc học hành
và ứng dụng các kiến thức tự học hỏi trên mạng; Hướng họ sử dụng các kiến thức
của mình một cách tích cực hơn; Tạo cho họ sân chơi lành mạnh trên internet, như
việc tổ chức thường xuyên các cuộc thi tấn công website, máy chủ nhằm giúp cho
hệ thống bảo mật tốt hơn và giúp cho những người dự thi nâng cao kiến thức bảo
mật của mình; Ban hành các chế tài xử lý thật mạnh tay các đối tượng cố ý phá
hoạ cũng như cố ý gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh trên môi trường mạng.
Dù thế nào đi nữa thì ý thức của con người vẫn là quan trọng nhất, việc đầu tư cho
hệ thống bảo mật ngay từ lúc ban đầu chuẩn bị thực hiện một dự án thương mại
điện tử và không thôi chú tâm đến công việc đó trong suốt quá trình hoạt động nếu
không muốn phải trả giá.
1.3.2 Rủi ro thường gặp trong thương mại điện tử
1.3.2.1 Rủi ro đối với máy chủ
Máy chủ là liên kết thứ 3 trong bộ ba máy khách – Internet – máy chủ (Client-
Internet-Server), bao gồm đường dẫn thương mại điện tử giữa một người sử dụng
và một máy chủ thương mại. Máy chủ có những điểm yếu dễ bị tấn công và một
đối tượng nào đó có thể lợi dụng những điểm yếu này để phá huỷ, hoặc thu được
các thông tin một cách trái phép. Hiểm hoạ đối với máy chủ bao gồm máy chủ
Web và các phần mềm của nó, các chương trình phụ trợ bất kỳ có chứa dữ liệu,
các chương trình tiện ích được cài đặt trong máy chủ.
11
1.3.2.2 Các hiểm hoạ đối với máy chủ Web
Các máy chủ Web được thiết lập chạy ở các mức đặc quyền khác nhau. Mức thẩm
quyền cao nhất có độ mềm dẻo cao nhất, cho phép các chương trình, thực hiện tất
cả các chỉ lệnh của máy và không giới hạn truy nhập vào tất cả các phần của hệ
thống, không ngoại trừ các vùng nhạy cảm và phải có thẩm quyền. Mức thẩm
quyền thấp nhất tạo ra một rào cản logic xung quanh một chương trình đang chạy,
ngăn chặn không cho nó chạy tất cả các lớp lệnh của máy và không cho phép nó
truy nhập vào tất cả các vùng của máy tính, chí ít là các vùng lưu giữ nhạy cảm.
Quy tắc an toàn đặt ra là cung cấp một chương trình và chương trình này cần có
thẩm quyền tối thiểu đủ để thực hiện công việc của mình. Việc thiết lập một máy
chủ Web chạy ở mức thẩm quyền cao có thể gây hiểm hoạ về an toàn đối với máy
chủ Web. Trong hầu hết thời gian, máy chủ Web cung cấp các dịch vụ thông
thường và thực hiện các nhiệm vụ với một mức thẩm quyền rất thấp. Nếu một máy
chủ Web chạy ở mức thẩm quyền cao, một đối tượng xấu có thể lợi dụng một máy
chủ Web để thực hiện các lệnh trong chế độ thẩm quyền.
Một máy chủ Web giữ các danh sách thư mục tự động được lựa chọn các thiết lập
mặc định. Một trình duyệt Web có thể phát hiện ra các tên danh mục thiết lập của
máy chủ.
Những người quản trị của các site khác, ví dụ người quản trị của Microsoft, rất
thận trọng trong việc hiển thị tên danh mục. Việc nhập tên người dùng vào một
phần đặc biệt trong không gian Web, về bản chất không phải là sự xâm phạm tính
bí mật hoặc tính riêng tư. Tuy nhiên, tên người dùng và mật khẩu bí mật có thể bị
lộ khi truy nhập vào nhiều trang trong vùng nội dung được bảo vệ và quan trọng
của máy chủ Web. Điều này là do một số máy chủ yêu cầu thiết lập lại tên người
dùng và mật khẩu cho từng trang trong vùng nội dung quan trọng mà bạn truy cập
vào do Web không lưu nhớ những gì đã xảy ra trong giao dịch cuối. Cách thích
hợp nhất để nhớ tên người dùng và mật khẩu là lưu giữ các thông tin bí mật của
người sử dụng trong một cookie có trên máy của người này. Theo cách này, một
máy chủ Web có thể yêu cầu xác nhận dữ liệu, bằng cách yêu cầu máy tính gửi
cho một cookie. Các thông tin có trong một cookie có thể được truyền đi không an
12
toàn và một đối tượng nghe trộm có thể sao chép. Do vậy, máy chủ Web cần yêu
cầu truyền cookie an toàn.
SSI là một chương trình nhỏ, chương trình này có thể được nhúng vào một trang
Web, nó có thể chạy trên máy chủ (đôi khi còn được gọi là servlet). Bất cứ khi nào
chương trình chạy trên một máy chủ hay đến từ một nguồn vô danh và không tin
cậy, ví dụ từ trang Web của một người sử dụng, có thể sẽ xảy ra khả năng SSI yêu
cầu thực hiện một hoạt động bất hợp pháp nào đó. Mã chương trình SSI có thể là
một chỉ thị của hệ điều hành yêu cầu hiển thị file mật khẩu, hoặc gửi ngược trở lại
một vị trí đặc biệt.
Chương trình FTP có thể phát hiện các mối hiểm hoạ đối với tính toàn vẹn của
máy chủ Web. Việc lộ thông tin có thể xảy ra khi không có các cơ chế bảo vệ đối
với các danh mục, do đó người sử dụng FTP có thể duyệt qua.
Một trong các file nhạy cảm nhất trên máy chủ Web chứa mật khẩu và tên người
dùng của máy chủ Web. Nếu file này bị tổn thương, bất kỳ ai cũng có thể thâm
nhập vào các vùng thẩm quyền, bằng cách giả mạo một người nào đó. Do có thể
giả danh để lấy được các mật khẩu và tên người dùng nên các thông tin liên quan
đến người sử dụng không còn bí mật nữa. Hầu hết các máy chủ Web lưu giữ bí
mật các thông tin xác thực người dùng. Người quản trị máy chủ Web có nhiệm vụ
đảm bảo rằng: máy chủ Web được chỉ dẫn áp dụng các cơ chế bảo vệ đối với dữ
liệu.
Những mật khẩu (người dùng chọn) cũng là một hiểm hoạ. Đôi khi, người sử dụng
chọn các mật khẩu dễ đoán, vì chúng có thể là tên thời con gái của mẹ, tên của một
trong số các con, số điện thoại, hoặc số hiệu nhận dạng. Người ta gọi việc đoán
nhận mật khẩu qua một chương trình lặp sử dụng từ điển điện tử là tấn công từ
điển. Một khi đã biết được mật khẩu của người dùng, bất kỳ ai cũng có thể truy
nhập vào một máy chủ mà không bị phát hiện trong một khoảng thời gian dài.
1.3.2.3 Các đe dọa đối với máy chủ cơ sở dữ liệu :
Các hệ thống thương mại điện tử lưu giữ dữ liệu của người dùng và lấy lại các
thông tin về sản phẩm từ các cơ sở dữ liệu kết nối với máy chủ Web. Ngoài các
13
thông tin về sản phẩm, các cơ sở dữ liệu có thể chứa các thông tin có giá trị và
mang tính riêng tư. Hầu hết các hệ thống cơ sở dữ liệu có quy mô lớn và hiện đại
sử dụng các đặc tính an toàn cơ sở dữ liệu dựa vào mật khẩu và tên người dùng.
Sau khi được xác thực, người sử dụng có thể xem các phần đã chọn trong cơ sở dữ
liệu. Tính bí mật luôn sẵn sàng trong các cơ sở dữ liệu, thông qua các đặc quyền
được thiết lập trong cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, một số cơ sở dữ liệu lưu giữ mật
khẩu/tên người dùng một cách không an toàn, hoặc dựa vào máy chủ Web để có
an toàn. Khi an toàn bị vi phạm, CSDL bị sử dụng bất hợp pháp, làm lộ hoặc tải về
các thông tin mang tính cá nhân và quý giá. Các chương trình con ngựa thành
Tơroa nằm ẩn trong hệ thống cơ sở dữ liệu cũng có thể làm lộ các thông tin bằng
việc giáng cấp các thông tin này (có nghĩa là chuyển các thông tin nhạy cảm sang
một vùng ít được bảo vệ của cơ sở dữ liệu, do đó bất cứ ai cũng có thể xem xét các
thông tin này). Khi các thông tin bị giáng cấp, tất cả những người sử dụng, không
ngoại trừ những đối tượng xâm nhập trái phép cũng có thể truy nhập.
1.3.2.4 Rủi ro đối với máy khách
Cho đến thời điểm hiện tại, các phương thức khai thác thông tin qua Internet chủ
yếu qua giao diện web. Ở thời kỳ đầu, các trang Web chủ yếu ở trạng thái tĩnh.
Tuy nhiên, để đáp ứng các nhu cầu về quảng cáo, tiếp thị, các trang web ngày càng
được thiết kế sống động. Sở dĩ có điều này là do việc sử dụng rộng rãi các nội
dung động (active content).
Việc đưa active content vào các trang Web thương mại điện tử gây ra một số rủi
ro. Các chương trình gây hại được phát tán thông qua các trang Web, có thể phát
hiện ra số thẻ tín dụng, tên người dùng và mật khẩu. Những thông tin này thường
được lưu giữ trong các file đặc biệt, các file này được gọi là cookie. Các cookie
được sử dụng để nhớ các thông tin yêu cầu của khách hàng, hoặc tên người dùng
và mật khẩu. Nhiều active content gây hại có thể lan truyền thông qua các cookie,
chúng có thể phát hiện được nội dung của các file phía máy khách, hoặc thậm chí
có thể huỷ bỏ các file được lưu giữ trong các máy khách. Ví dụ, một virus máy
tính đã phát hiện được danh sách các địa chỉ thư tín điện tử của người sử dụng và
gửi danh sách nàycho những người khác trên Internet. Trong trường hợp này,
chương trình gây hại giành được đầu vào (entry) thông qua thư tín điện tử được
14
truy nhập từ một Web trình duyệt. Cũng có nhiều người không thích lưu giữ các
cookie trên các máy tính của họ. Trên máy tính cá nhân có lưu một số lượng lớn
các cookie giống như trên Internet và một số các cookie có thể chứa các thông tin
nhạy cảm và mang tính chất cá nhân. Có rất nhiều chương trình phần mềm miễn
phí có thể giúp nhận dạng, quản lý, hiển thị hoặc loại bỏ các cookie.Ví dụ, Cookie
Crusher (kiểm soát các cookie trước khi chúng được lưu giữ trên ổ cứng của máy
tính) và Cookie Pal.
Như vậy, các hiểm hoạ đối với máy khách khi khai thác thông tin qua Internet là
lớn và rất khó nhận diện.
1.3.2.5 Rủi ro đối với kênh truyền thông
Internet đóng vai trò kết nối một khách hàng với một tài nguyên thương mại điện
tử (máy tính dịch vụ thương mại). Chúng ta đã xem xét các hiểm hoạ đối với các
máy khách, các tài nguyên tiếp theo chính là kênhtruyền thông, các kênh này được
sử dụng để kết nối các máy khách và máy chủ.
Các thông báo trên Internet được gửi đi theo một đường dẫn ngẫu nhiên, từ nút
nguồn tới nút đích. Các thông báo đi qua một số máy tính trung gian trên mạng
trước khi tới đích cuối cùng và mỗi lần đi, chúng có thể đi theo những tuyến
đường khác nhau. Không có gì đảm bảo rằng tất cả các máy tính mà thông báo đi
qua trên Internet đều an toàn. Những đối tượng trung gian có thể đọc các thông
báo, sửa đổi, hoặc thậm chí có thể loại bỏ hoàn toàn các thông báo của chúng ta ra
khỏi Internet. Do vậy, các thông báo được gửi đi trên mạng là đối tượng có khả
năng bị xâm phạm đến tính an toàn, tính toàn vẹn và tính sẵn sàng.
1.3.2.6 Giải pháp bảo vệ trong thương mai điện tử
Trên thực tế, người ta sử dụng nhiều giải pháp để bảo vệ thông tin cho các giao
dịch qua mạng. Đối với mỗi dạng hiểm hoạ, có những giải pháp khác nhau và cần
có một chính sách chung về chiến lược an toàn bảo mật hữu hiệu.
1.3.2.7 Bảo vệ máy khách
15
Các máy khách (thông thường là các PC) phải được bảo vệ nhằm chống lại các đe
doạ xuất phát từ phần mềm hoặc dữ liệu được tải xuống máy khách từ Internet.
Như chúng ta đã biết, active content bao gồm nhiều chương trình được nhúng vào
các trang Web, tạo nên sự sống động cho các trang Web. Tuy nhiên, một active
content giả có vẻ vô hại nhưng lại gây ra các thiệt hại khi chúng chạy trên máy
khách. Các chương trình được viết bằng Java, JavaScript mang lại sự sống động
cho các trang Web. Một số các công cụ active content phổ biến khác là các
ActiveX control. Bên cạnh các mối đe doạ xuất phát từ các chương trình bên trong
các trang Web, thì các trình đồ hoạ, các trình duyệt gài sẵn (trình duyệt plug-ins)
và các phần đính kèm thư điện tử cũng là các mối đe doạ có thể gây hại cho các
máy khách khi các chương trình ẩn này được thực hiện.
Nhiều active content gây hại có thể lan truyền thông qua các cookie. Các đoạn văn
bản nhỏ này được lưu giữ trên máy tính của bạn và có chứa các thông tin nhạy
cảm không được mã hoá. Điều này có nghĩa là bất kỳ ai cũng có thể đọc và làm
sáng tỏ một cookie, thu được thông tin có trong đó. Thông tin này liên quan đến
thẻ tín dụng, mật khẩu và thông tin đăng nhập. Do cookie giống như các thẻ đăng
nhập vào các Website, chúng không gây hại trực tiếp cho các máy khách nhưng nó
vẫn là nguyên nhân gây ra các thiệt hại do chứa nhiều thông tin không mã hoá.
Một mối đe doạ khác đối với máy khách là một server site đóng giả một Website
hợp pháp. Đây thực sự là một mối quan tâm an toàn đối với máy khách, các máy
khách cần có trách nhiệm nhận biết các máy chủ của mình. Các mục tiếp theo
trình bày các cơ chế bảo vệ hiện có, chúng được thiết kế nhằm ngăn chặn hoặc
giảm đáng kể khả năng các hiểm hoạ xảy ra đối với máy khách.
1.3.2.8Giám sát Active content
Các trình duyệt Navigator của Netscape và Internet Explorer của Microsoft được
trang bị để nhận biết các trang Web có chứa active content chuẩn bị được tải
xuống. Khi bạn tải về và chạy các chương trình được nhúng vào các trang Web,
bạn muốn đảm bảo rằng các chương trình này đến từ một nguồn bạn biết và tin
cậy. Cách thức mà hai trình duyệt trên sử dụng để đảm bảo an toàn được trình bày
16
trong các mục sau đây. Trước hết chúng ta xem xét các chứng chỉ số, chúng thực
sự cần thiết cho phía máy khách và máy chủ khi xác thực.
1.3.2.9Bảo vệ bằng các chứng chỉ số
Một chứng chỉ số (hay ID số) là phần đính kèm với thông báo điện tử hoặc một
chương trình được nhúng vào một trang Web. Khi một chương trình được tải
xuống có chứa một chứng chỉ số, nó nhận dạng nhà phát hành và thời hạn hợp lệ
của chứng chỉ. Một chứng chỉ không chứa bất kỳ điều gì liên quan đến nội dung
được tải xuống. Ngầm định của việc sử dụng các chứng chỉ là nếu bạn tin cậy nhà
cung cấp/người phát hành, chứng chỉ cung cấp cho bạn sự đảm bảo rằng các nội
dung được ký có nguồn gốc tin cậy từ nhà cung cấp. Lưu ý rằng chứng chỉ của nhà
cung cấp CA có số thứ tự duy nhất cho từng chứng chỉ và chữ ký.
Cơ quan chứng thực (CA) phát hành chứng chỉ số cho cá nhân hoặc tổ chức. CA
yêu cầu các thực thể muốn có chứng chỉ cần cung cấp bằng chứng nhận dạng thích
hợp. Một khi đáp ứng được điều này, CA sẽ phát hành một chứng chỉ. CA ký
chứng chỉ (đóng tem phê chuẩn), theo dạng khoá mã công khai, “không giữ bí
mật” đối với bất kỳ người nào nhận chứng chỉ. Khoá là một số, thường là một số
nhị phân dài (long binary), được sử dụng với thuật toán mã hoá nhằm “giữ bí mật”
các ký tự có trong thông báo bảo vệ. Vì vậy, về mặt lý thuyết là không thể đọc
được hoặc giải mã chúng. Các khoá dài có khả năng bảo vệ tốt hơn các khoá ngắn.
Một trong các CA tồn tại lâu nhất và được nhiều người biết đến là VeriSign.
Yêu cầu nhận dạng của các CA cũng khác nhau. Một CA có thể yêu cầu bằng lái
xe đối với các chứng chỉ cá nhân, trong khi các CA khác có thể yêu cầu vân tay.
Các chứng chỉ được phân loại thành các lớp đảm bảo như sau: thấp, trung bình,
hoặc cao, phụ thuộc phần lớn vào các yêu cầu nhận dạng cần phải đáp ứng.
VeriSign đưa ra một số lớp chứng chỉ, từ lớp 1 đến 4. Các chứng chỉ lớp 1 là các
chứng chỉ ở mức thấp nhất, gắn liền với các địa chỉ thư điện tử và các khoá công
khai. Các chứng chỉ lớp 4 áp dụng cho các máy chủ và tổ chức. Các yêu cầu đối
với chứng chỉ lớp 4 cao hơn rất nhiều so với các yêu cầu dành cho chứng chỉ lớp
17
1. Ví dụ, các chứng chỉ lớp 4 của VeriSign đảm bảo nhận dạng cá nhân và mối
quan hệ của cá nhân này với công ty hoặc tổ chức xác định.
1.3.2.10 Trình duyệt Internet của Microsoft (Microsoft Internet Explorer)
Internet Explorer cung cấp quyền bảo vệ phía máy khách trong các trình duyệt.
Internet Explorer cũng đối phó lại các chương trình động dựa vào Java và
ActiveX. Internet Explorer sử dụng kỹ thuật mã xác thực (Authenticode) của
Microsoft để kiểm tra nhận dạng các chương trình động được tải xuống. Các
chương trình Authenticode có thể kiểm tra đối với một ActiveX control được tải
xuống như sau: ai là người đã ký chương trình, chương trình có bị sửa đổi sau khi
ký hay không và nội dung có nguồn gốc đúng từ nhà phát hành tin cậy hay không.
Đồng thời kiểm tra xem chương trình có chứng chỉ hợp lệ hay không. Tuy nhiên,
Authenticode không thể ngăn chặn được việc tải xuống một chương trình gây hại
và chạy trên máy tính của người dùng. Có nghĩa là, kỹ thuật Authenticode chỉ có
thể xác nhận đúng là công ty XYZ đã ký chương trình. Authenticode không thể
đảm bảo Java hoặc ActiveX control của công ty XYZ có thực hiện đúng đắn hay
không. Trách nhiệm này thuộc về người sử dụng, họ phải quyết định có nên tin
cậy vào chương trình động từ các công ty hay không.
1.3.2.11 Sử dụng phần mềm chống virus
Không một máy khách nào có thể phòng thủ tốt nếu thiếu phần mềm chống virus.
Các phần mềm chống virus bảo vệ máy tính khỏi bị các virus đã được tải xuống
tấn công. Vì vậy, chống virus là một chiến lược phòng thủ. Nó chỉ hiệu quả khi
tiếp tục lưu giữ các file dữ liệu chống virus hiện hành. Các file chứa thông tin
nhận dạng virus được sử dụng để phát hiện các virus trên máy tính. Do các virus
mới được sinh ra rất nhiều, cần đề phòng và cập nhật các file dữ liệu chống virus
một cách định kỳ, mới có thể phát hiện và loại trừ các virus mới nhất.
18
1.4 E- makerting
internet marketing (hay online marketing), hay tiếp thị qua mạng, tiếp thị trực
tuyến là hoạt động cho sản phẩm và dịch vụ thông qua mạng kết nối toàn cầu
Internet. Sự xuất hiện của Internet đã đem lại nhiều lợi ích như chi phí thấp để
truyền tải thông tin và truyền thông (media) đến số lượng lớn đối tượng tiếp nhận,
thông điệp được truyền tải dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hình ảnh,
âm thanh, phim, trò chơi, Với bản chất tương tác của E-marketing, đối tượng
nhận thông điệp có thể phản hồi tức khắc hay giao tiếp trực tiếp với đối tượng gửi
thông điệp. Đây là lợi thế lớn của E-marketing so với các loại hình khác.
E-marketing kết hợp tính sáng tạo và kỹ thuật của Internet, bao gồm thiết kế, phát
triển, quảng cáo và bán hàng. Các hoạt động của E-marketing bao gồm: search
engine marketing, web display advertising, e-mail marketing, affiliate marketing,
interactive advertising, blog marketing và viral marketing.
E-marketing là quá trình phát triển và quảng bá doanh nghiệp sử dụng các phương
tiện trực tuyến. E-marketing không chỉ đơn giản là xây dựng Website. E-
marketing phải là một phần của chiến lược marketing và phải được đầu tư hợp lý.
Một trong những lợi thế của E-marketing là sự sẵn sàng của lượng lớn thông tin.
Người tiêu dùng có thể truy cập thông tin sản phẩm và thực hiện giao dịch, mua
bán mọi lúc mọi nơi. Doanh nghiệp sử dụng e-makerting có thể tiết kiệm được chi
phí bán hàng như chi phí thuê mặt bằng, giảm số lượng nhân viên bán hàng, E-
marketing còn giúp doanh nghiệp tiếp cận với thị trường rộng lớn cũng như phát
triển ra toàn cầu. Ngoài ra, so sánh với các phương tiện khác như in ấn, báo đài,
truyền hình, e-marketing có lơi thế rất lớn về chi phí thấp.
Các hoạt động E-marketing khi triển khai có thể dễ dàng theo dõi và đánh giá. Ví
dụ với Website, dịch vụ ‘Web analytic' cho phép theo dõi số lượng người truy cập,
nội dung quan tâm từ đó có thể đánh giá thông điệp truyền đi có đúng với ước
muốn của khách hàng không. Theo dự đoán, E-marketing ngày càng phát triển
mạnh hơn so với các loại hình khác.
19
Tuy nhiên, E-marketing vẫn có một số hạn chế. Thứ nhất, về phương diện kỹ
thuật, E-marketing đòi hỏi khách hàng phải sử dụng các kỹ thuật mới và không
phải tất cả mọi đối tượng khách hàng có thể sử dụng chúng. Đường truyền tốc độ
chậm cũng là một tác nhân gây khó khăn. Ngoài ra, nếu công ty xây dựng Website
lớn và phức tạp để quảng bá sản phẩm, nhiều khách hàng sẽ gặp khó khăn khi sử
dụng Website cũng như tải thông tin về với đường truyền chậm hay vào các thiết
bị di động. Thứ hai, về phương diện bán hàng, khách hàng không thể chạm, nếm,
dùng thử hay cảm nhận sản phẩm trước khi mua trực tuyến.
E-marketing đã và đang có ảnh hưởng rộng lớn với nhiều ngành công nghiệp như
âm nhạc, ngân hàng, thương mại, cũng như bản thân ngành công nghiệp quảng
cáo. Trong ngành công nghiệp âm nhạc, nhiều khách hàng mua và tải các bản nhạc
qua Internet thay vì mua CD. Ngày càng nhiều ngân hàng cung cấp các dịch vụ
trực tuyến. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến được cho rằng sẽ hấp dẫn khách hàng
hơn khi họ không phải đến các chi nhánh ngân hàng để thực hiện. Hiện tại, hơn
150 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến và tốc độ tăng trưởng
ngày càng cao. Sự cải thiện tốc độ kết nối Internet là nguyên nhân chính cho sự
tăng trưởng này. 44% những cá nhân sử dụng Internet thực hiện các giao dịch với
ngân hàng qua Internet. Đấu giá qua Internet cũng đang trở nên phổ biến. Những
mặt hàng hiếm trước đây chỉ có thể tìm ở các chợ trời nay đang được rao bán trên
eBay. Trang Web nay cũng có ảnh hưởng mạnh đến giá cả. Người mua và người
bán thường tham khảo giá trên eBay trước khi đến chợ trời và giá trên eBay
thường trở thành giá mà sản phẩm được bán. Ngày càng nhiều người bán hàng ở
chợ trời rao bán hàng trên eBay và điều hành công việc kinh doanh ở nhà. Sự ảnh
hưởng của E-marketing lên nền công nghiệp quảng cáo ngày càng lớn. Chỉ trong
vài năm, quảng cáo trực tuyến tăng trưởng đều đặn đến hàng chục tỷ USD. Theo
báo cáo của Pricewaterhouse Coopers, thị trường E-marketing Mỹ trị giá tổng
cộng 16,9 tỷ USD trong năm 2006.
20
Chương 2 : Phân tích thực trạng ứng dụng điện tử của 5giay.vn
2.1 Giới thiệu về doanh nghiệp
Trang web hhtp://5giay.vn tiền thân là trang web có tên miền miễn phí là
hhtp://batda.com hoạt động với 300 thành viên-đầu tiên đây chỉ l à trang web cá nhân của
cửa hàng máy tính Nhật Nguyệt để trao đổi thông tin về công nghệ và phần mềm.
Ngày 21/6/2004 06:00:01 5giay.com ra đời với câu quảng cáo thương hiệu (slogan) là
“Chỉ 5s cho một lần thấy” - với ý nghĩa là chỉ 5 giây sau khi mặt hàng được rao bán trên
mạng 5 giây là đã được bán sạch.
Năm 2004 Là thời điểm phát triển internet Việt Nam dưới mạng dailup,khái niệm đi chợ
trên mạng còn rất mới mẻ, cho đến năm 2005 5giay đánh dấu cột mốc đầu tiên là phát
triển mạnh thành forum đưa ra ngoài trang chủ ,định hướng cho mình là 1 trong những
diễn đàn thương mại điện tử đầu tiên của Việt Nam dùng forum làm nơi trao đổi mua bán
.Với ban đầu chỉ là 1 số box mua bán nhằm trao đổi hàng hoá với nhau và là 1 box đấu
giá đầu tiên tại Việt Nam tồn tại đến ngày hôm nay.
Năm 2007 5giay có server riêng sau 2 năm chạy host PA Việt Nam và Restspace. Server
mới đã đáp ứng trên 1000 lượt truy cập trong thời gian 15phút .Vào thời gian trước 5s chỉ
đáp ứng được 400 lượt là bị lỗi IPS ,sau khi có server mới lượt truy cập tăng lên nhanh
chóng từ 600>800>1000>1200.
Ở mức 1200 này ram 1GB của server gần như là hoạt động 100%
với sự phát triền lớn lao này 5giay đi theo con đường mua bán với hình thức C2C
( customer to customer) kéo các member từ toitim,raovat hình thành nhu cầu mua bán
và trao đổi hàng hoá thực sự .Với ưu điểm có thể bàn luận trao đổi trực tiếp với người
bán,xem lại các giao dịch của người bán và nhiều tính năng khác mà các web rao vặt
không có .5giay đã trở thành diễn đàn mua bán đầu tiên dùng forum làm web mua bán.
Cũng trong năm này 5s đã lọt vào top 100 của website VN và đã có lượng thành viên là
21
Trang Web 5s đã phát triển dần dần trên các phương diện đó là sự phong phú các thể loại
mặt hàng đặc biệt lá sự vượt trội của công nghệ,linh kiện điện tử
2.2 Phân tích thực trạng ứng dụng điện tử của doanh nghiệp
* Là diễn đàn đầu tiên của VN lấy mua bán làm chính >> diễn đàn thực tế về TMĐT
* Là sự phát triển từ gốc đến ngọn,từ cầu sinh ra cung.
* Đáp ứng thực tế nhu cầu người Việt Nam,chọn hàng - trả giá- ngắm nhìn- trao đổi -
mua bán bất chấp khoảng cách địa lý
* 5 giây phát triển mạnh từ mua bán cac linh kiện điện tử như điện
thoại,laptop,KTS…. đến toàn diện như chợ áo quần ,thời trang,xe cộ,nhà đất,đấu
giá,rao vặt…
* Phát triển từ thành viên mua bán đến thành viên mua bán, nhìn các link yahoo spam
mua bán toàn 5s là biết người mua bán này giới thiệu người mua bán khác,hình thành
1 cộng đồng mua bán đầu tiên tại VN. (đây là hình thức C2C)
*Uy tín hàng đầu nhờ có ManCry( Nơi kiểm tra chất lượng hàng hoá,bảo vệ người
tiêu dùng) là một thế mạnh mà các trang mua bán khác không thể có được,
* Một đội ngũ mod quản lý nhiệt tình,gắn bó.Tinh thần tập thể là chính và số lượng
thành viên ngày càng đông đảo .
* Server riêng được dành hẳn cho 5s với đường truyền tốt,tốc độ cao
Theo thống kê thực tế thì mỗi ngày có trên 120.000 lượt truy cập vào website này để
tìm kiếm thông tin mua bán. Đây là một con số ấn tượng đối với một website hoạt
động theo hình thức diễn đàn.
Một số thống kê ần tượng của diễn đàn 5giay.vn:
• Thời gian truy cập trung bình mỗi ngày: 19 phút 20 giây/người
22
• Số đề tài: 2,177,825
• Số bài gửi: 66,731,034
• Số thành viên: 677,465
• Kỷ lục về số người online cùng một lúc là 30.479(lúc 16:30 ngày 03/03/2012)
• So sánh với vatgia: lương khách hàng yêu thích vatgia.com nhiều hơn
kinh doanh trên vatgia hay 5giay, nơi nào tốt hơn
vatgia tốt hơn 76,74%33
5giay tốt hơn 4,65%2
vatgia và 5giay tương đương nhau 0%0
vatgia và 5giay, mỗi nơi có ưu và khuyết điểm khác nhau 18,6%
• So sánh về trang web www.5giay.vn và trang web www.123mua.com.vn
Giao diện,tổng thể,quy mô:so sánh về mặt tổng thể thì trang web tmđt của 123mua
có giao diện bắt mắt hơn và có nhiều mục hơn nhưng về tính quy mô và bố cục thì
trang 5s lại nổi bật và gọn gàng hơn với bố cục sắp xếp 4rum theo trục dọc giúp
người mua dễ dàng tìm được những mục mà mình cần mua bán trao đổi,hơn nữa
về quy mô thì trang web 5s có quy mô bao quát phong phú hơn.Về mặt số lượng
thành viên thì trang web 5s so với 123mua có ưu thế hơn,về mặt chất lượng sever
cũng như mức độ ổn định thì trang web 5s cũng có thế mạnh do sever của 5s luôn
có đội ngũ điều hành viên thường trực đảm bảo sự cập nhật liên tục và đảm bảo về
mức độ trao đổi liên tục cũng như thông tin về mặt hàng.
23
Cách giao dịch,thanh toán và độ tin cậy: về cách giao dịch nhìn chung thì trang
web 5s và trang web 123mua có phần giống nhau nhưng trang web 5s phong phú
hơn về thể loại như vừa mua bán vừa có thể trao đổi.Các thành viên buôn bán tự
do hơn do vậy đòi hỏi mức độ tin cậy trong việc trao đổi cần phải có sự kiểm tra
của các mod trong diễn đàn.
2.2.1 Giới thiệu về hoạt động thương mại điện tử tại doanh nghiệp
* Với đối tượng giao dịch và người bán ở trong cùng tỉnh,thành:
Hầu hết người mua sẽ đến địa điểm được rao trên web kiểm tra hàng và giao dịch hoặc
người bán sẽ đem hàng đến tận nơi để kiểm tra.
* Với đối tượng giao dịch và người bán ở khác tỉnh thành:
Người mua sẽ liên hệ qua điện thoại để xác nhận thông tin và số tài khoản,sau đó chuyển
tiền vào tài khoản cho người bán,người bán có trách nhiệm kiểm tra hàng lần cuối và gửi
hàng qua bưu điện hoặc giao cho các cửa hàng giao dịch có trên trang web như Thuận
Thảo,Tín Thành,tùy vào khoảng cáh địa lý mà hàng sẽ được giao tận nơi trong thời gian
nhất định với tiền cước vận chuyển phải chăng.
2.2.2 Phân tích website doanh nghiệp
Giao diện:
Trang web 5 giây với giao diện thân thiện,với banner là bảng hiệu và câu slogan của
5s.trang web có bố cục theo từng cột với các box trong mỗi box là tên của các lĩnh vực
buôn bán và lời giới thiệu,mỗi cột có những giao diện quảng cáo về buôn bán dành cho
các thành viên đăng ký về cửa hang và mặt hàng của mình.giao diện trang web 5 giây
không cầu kỳ bắt mắt như một số trang web thương mại điện tử khác nhưng nhìn tổng
quan các box các khu vực của từng lĩnh vực thương mại đều được phân chia rõ rang tạo
cho người xem cảm giác tin tưởng và thoải mái khi giao dịch
24
Giao diện đơn giản của 5giay
25