Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

hội thẩm và thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.49 KB, 32 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC LUẬT THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ - LUẬT
&
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HỘI
THẨM VÀ THẨM PHÁN ĐỘC LẬP XÉT XỬ VÀ
CHỈ TUẦN THEO PHÁP LUẬT
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2012

LỜI TỰA
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự
phân công, phân nhiệm rành mạch và có sự phối hợp giữa ba quyền đó. Và về
tính độc lập của hệ thống tư pháp, Hiến pháp nước ta không quy định quyền lực
nhà nước theo thuyết tam quyền phân lập như Hiếp pháp ở một số nước tư sản,
không thừa nhận việc tổ chức song song và sự tồn tại độc lập, kiềm chế lẫn nhau
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng thực tế cho thấy chế
định tư pháp nước còn nhiều bất cập khi nói về nguyên tắc “xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”, vì lí do trên, nhóm tác giả xin được trình bày ý kiến về
thực tiễn xét xử ở nước ta về vấn đề thực hiện nguyên tắc “Hội Thẩm và Thẩm
phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và phân tích khách quan nhưng chắc hẳn bài làm
của nhóm vẫn còn những thiếu sót nhất định. Mong được sự góp ý và đánh giá
của Cô để nhóm có thể hiểu một cách sâu sắc hơn về vấn đề này. Nhóm em xin
chân thành cảm ơn Cô!!!
MC LC
1. KHÁI QUÁT CHUNG …………………………………………………………………… 1
1.1 Khái niệm ……………………………………………………………………………….1
1.2 Cơ sở nguyên tắc ……………………………………………………………………….1
1.2.1 Cơ sở lí luận ………………………………………………………………….1
1.2.2 Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………….2.


1.2.3 Cơ sở pháp lí ………………………………………………………………… 4
2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC ……………………………………………………….4
2.1Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện ở những khía cạnh sau… 4.
2.1.1 Sự độc lập với lãnh đạo của Tòa án và Tòa án cấp trên………………… 4
2.1.2 Sự độc lập với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát……………………… 4
2.1.3 Sự độc lập với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội ……………… 6
2.1.4 Sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử 7
2.2 Tính tuân theo pháp luật của Hội thẩm và Thẩm phán khi xét xử 11
2.3 Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét
xử của Thẩm phán và Hội Thẩm 12
3. THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỒI THẨM……………………….
3.1 Mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán, và những mối quan hệ khác………… 13.
3.2 Cơ chế thỉnh thị án, duyệt án, báo án còn những bất cập…………………………… 14
3.3 Năng lực Thẩm phán hiện nay 17
3.4 Bị ảnh hưởng bởi những nhận định chủ quan của các cơ quan ngôn luận………… 17
3.5 Hệ thống Tòa án tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ 18
3.6 Quy định của pháp luật còn hạn chế và dẫn đến những bất cập 18
4. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN 19
4.1. Đổi mới một số quy định liên quan tới nguyên tắc: "Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo PL 19
4.1.1. Thẩm phán ……………………………………………………………………19
4.1.2. Hội thẩm ………………………………………………………………………22
4.2 Hoàn thiện tên nguyên tắc ……………………………………………………………….23
4.3. Đổi mới vai trò của Đảng ……………………………………………………………… 23
4.4 Đổi mới một số điều luật ……………………………………………………………… 24
4.5 Đổi mới về tổ chức Tòa án ……………………………………………………………….24
MỞ ĐẦU
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước
để tuyên án một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cột mốc để đánh giá hiệu quả của
công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, muốn vậy, khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Có thể nói: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của các hình thức tố tụng, nó cũng là
một trong những điều kiện bảo đảm công tác xét xử đạt hiệu quả. Tuy nhiên, trong
hoạt động xét xử của các cấp Toà án ở nước ta trong thời gian qua đã tồn tại không ít
các yếu tố gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện nguyên tắc nêu trên. Và không
phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Dưới
đây là những nội dung cơ bản, thực tiễn xét xử và định hướng trong việc “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
NI DUNG
THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC: “HI THẨM V THẨM PHN XÉT XỬ
ĐC LẬP V CHỈ TUÂN THEO PHP LUẬT” TRONG TỐ TNG HÌNH SỰ.
1. KHÁI QUÁT CHUNG:
1.1 Khái niệ m và c ơ s ở c ủ a nguyên t ắ c :
“Khi xét xử Thẩm Phán và Hội Thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là
một trong những nguyên tắc của luật TTHS, được hiểu là trong quá trình xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp
luật, loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2 Cơ sở nguyên tắc:
1.2.1 Cơ sở lí luận:
Việc quy định nguyên tắc này gắn liền với việc tổ chức bộ máy Nhà nước theo cơ chế
phân công và kiểm sát quyền lực. Tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm là một trong
những biểu hiện rõ nét của cơ chế phân chia quyền lực ở Việt Nam. Sự vi phạm
nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự lạm dụng của quyền lực và xã hội.
Nguyên tắc: “Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã được đề cập trong Bộ
luật Hồng Đức. Điều 672 Bộ luật này quy định: “Các quan phải xét xử cho công bằng
và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng qui định: “Không ai được cố chấp ý riêng mình,

bắt mọi người phải tuân theo”.
Nguyên tắc khi xét xử: Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được qui định
trong các bản Hiến pháp của Việt Nam kể từ Hiến pháp 1946. Lịch sử phát triển của
Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn với 04 bản Hiến
pháp được ban hành tại những thời điểm lịch sử khác nhau. Tuy có sự thay đổi rất
nhiều thể chế, hệ thống tổ chức bộ máy song nguyên tắc độc lập của các Thẩm phán
trong hoạt động xét xử đều được qui định trong các bản hiến pháp và các đạo luật
khác được ban hành như Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS), Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ thuộc vào
bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các nhận định đánh giá và phán quyết của
mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không được can thiệp vào các hoạt động xét xử
của tòa án.
Ngoài mối quan hệ với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân còn mối quan hệ với các luật sư, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội.
Thực tế, trong rất nhiều trường hợp, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân bị ảnh hưởng, tác
động từ phía luật sư, các tổ chức, cá nhân, các cơ quan Nhà nước, làm sai lệch quá
trình tố tụng, ảnh hưởng không ít tới hoạt động tố tụng nhằm hướng tới việc xét xử có
lợi cho mình. Do đó, Thẩm phán phải luôn ý thức được rằng mình là người phải chịu
trách nhiệm về nội dung, về tính công minh của bản án. Vì thế, Thẩm phán phải có
bản lĩnh và phải đứng vững trước những tác động từ các yếu tố bên ngoài. Như vậy,
xét từ những yếu tố bên ngoài thì nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, không cho phép bất cứ ai, cơ quan Nhà
nước nào can thiệp vào việc xét xử của tòa án dưới bất cứ lý do nào.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn:
Nguyên tắc này được ghi nhận rộng rãi trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới, bao gồm cả Việt Nam. Điều 16 BLTTHS cộng hòa Liên Bang Nga cũng quy
định: “Khi tiến hành xét xử các vụ án hình sự, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ phục tùng pháp luật. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân giải quyết các vụ án
hình sự trên cơ sở của pháp luật, phù hợp với ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa,
trong điều kiện loại trừ mọi sự tác động bên ngoài lên họ”. Điều 88 Hiến pháp nước

Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng quy định: “Trong khi thi hành chức
quyền của mình, các Thẩm phán đều độc lập và chỉ phục tùng pháp luật”. Điều 127
Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ Đức cũ (năm 1949) quy định: “Thẩm phán độc lập
khi xét xử, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Khoản 1 điều 97 Hiến pháp nước
Cộng hòa liên bang Đức năm 1959 quy định: “Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”… tuy những quy định trên khác nhau về hình thức nhưng nội dung cơ
bản giống nhau, đều đặc biệt nhấn mạnh tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân trong xét xử.
Nguyên tắc Thẩm phán độc lập khi xét xử không chỉ được thực hiện trong việc đánh
giá chứng cứ mà cả trong thẩm vấn, tranh luận trước phiên tòa và việc ra bản án, quyết
định. Hiện tại, còn rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập của
Thẩm phán. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động xét xử của các
Thẩm phán thiếu khách quan. Những hạn chế, bất cập này tồn tại trong cả nhận thức
lẫn trong thực tiễn tổ chức thực hiện hoạt động xét xử. Có khá nhiều sự lẫn lộn giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán. Điều
này liên quan trước hết đến chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Một số các nhà
nghiên cứu có quan điểm rằng: Hiện nay, ở Việt Nam mặc dù nguyên tắc độc lập
trong hoạt động xét xử của Thẩm phán được đề cao nhưng địa vị pháp lý của các chủ
thể tham gia hoạt động tố tụng nhìn chung chưa được xác định một cách thoả đáng.
Trong tố tụng, nhất là tố tụng Hình sự có sự tham gia của hai chủ thể gần như đối lập
nhau là bên bị buộc tội và bên buộc tội. Trong quan hệ tố tụng, Thẩm phán như một
người đứng giữa để phân xử đúng sai nhân danh Nhà nước. Địa vị của Thẩm phán
phải khác với bên buộc tội hay bên gỡ tội. Cách tiếp cận phổ biến của các cơ quan tiến
hành tố tụng hiện nay là bên bị buộc tội bị coi như là bên đã có tội rồi. Như vậy, sự
độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử đòi hỏi Thẩm phán phải có trách nhiệm
xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm dụng địa vị pháp lý trong quan hệ
tố tụng. Trong quan hệ tố tụng có nhiều chủ thể tham gia với ba xu hướng rất rõ ràng:
Buộc tội, gỡ tội và xét xử. Mỗi xu hướng thường được hiện thực hóa với nhưng qui
trình, thủ tục và yêu cầu đặc trưng. Ba xu hướng này phải được tôn trọng và được đảm
bảo độc lập thực sự. Xét ở khía cạnh này, một số qui định của pháp luật hiện hành

chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu về tính độc lập. Ví dụ, Khoản 1, Điều 104
BLTTHS quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu qua
việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần
điều tra”. Quy định này đã khiến cho thẩm phán vừa có chức năng xét xử, vừa có chức
năng buộc tội. Ví dụ, Điều 176 BLTTHS: “Tòa án chỉ đưa vụ án ra xét xử khi có đủ
điều kiện cần thiết nếu tòa án cho rằng có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm và người
phạm tội”. Quy định này xem ra đã tạo cho Thẩm phán quyền quyết định quá lớn.
Việc đưa vụ án ra xét xử phải được coi là một thủ tục và vì thế phải đảm bảo chính
xác yếu tố thời hạn. Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử trong phạm vi thời hạn theo
qui định của pháp luật. Còn việc vụ án có đủ cơ sở hay không, có thể được làm rõ tại
phiên tòa với sự tham gia của các bên trong quan hệ tố tụng.
1.2.3 Cơ sở pháp lí:
Nguyên tắc này có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài. Nó được nhắc đến lần
đầu từ Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức tòa án của ngạch tư pháp từ sau Cách mạng tháng
Tám thành công ngày 24/2/1946, trong đó có quy định “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với
cơ quan hành chính, các quy định Thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công tư. Các
cơ quan khác không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi Thẩm phán quyết định theo
pháp luật và lương tâm của mình không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp vào công việc xử án”. Tiếp đó là điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến
pháp 1959, điều 100 Hiến pháp 1959 và điều 4 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981.
Văn bản hiện hành là điều 130 Hiến pháp năm 1992 và điều 16 BLTTHS, quy định rất
rõ: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, không dựa vào ai, không nhờ
cậy ai, không bị ai kiềm chế”
2.2 Tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện ở những khía cạnh sau:
2.1.1 Sự độc lập với lãnh đạo của Tòa án và Tòa án cấp trên:
Lãnh đạo Tòa án cũng như Tòa án cấp trên có nhiệm vụ hướng dẫn Thẩm phán và Hội
thẩm áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử các loại án trong từng thời kì
nhất định nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử trong từng vụ án cụ thể.

Khi xét xử, Hội đồng xét xử được độc lập đưa ra các quyết định theo nhìn nhận và
đánh giá vụ án của mình mà không bị sự chỉ đạo của lãnh đạo của Tòa án hay Tòa án
cấp trên.
Hội đồng xét xử có thể thỉnh thị án tức là xin ý kiến của Tòa án cấp trên trong những
vụ án phức tạp hay những vụ án có tình huống hoặc lĩnh vực chưa có điều luật điều
chỉnh hay văn bản hướng dẫn về cách giải quyết. Các ý kiến do lãnh đạo Tòa án hoặc
Tòa án cấp trên đưa ra mang tính tham khảo nên trong trường hợp này Hội đồng xét
xử vẫn không bị mất đi tính độc lập của mình mà càng tăng thêm tính có căn cứ, hợp
pháp của các quyết định và các bản án.
Thật vậy, Tòa án cấp trên không quyết định trước là Tòa án cấp dưới phải xét xử một
vụ án cụ thể như thế nào. Theo các quy định của Hiến pháp năm 1992 thì hệ thống cơ
quan xét xử của Nhà nước ta được tổ chức theo một hệ thống dọc từ Trung ương đến
địa phương (điều 127 Hiến pháp, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân). Trong hệ
thống đó Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tuy nhiên “cao nhất” ở
đây không có nghĩa với sự chỉ huy tuyệt đối. Có thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là
người chịu sự quản lí của chánh án và Tòa án cấp trên. Thông qua các công tác tổ
chức xét xử như họp bàn trước khi xét xử, phân công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ
án, chánh án có tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Ngoài ra,
việc có quy định “Tòa án cáp trên” có thể hủy án “Tòa án cấp dưới” cũng ảnh hưởng
đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm
phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội
danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định cùa pháp luật,
đảm bảo xét xử công bằng khách quan. Mặt khác, khi Tòa án cấp trên xét xử theo thủ
tục phúc thẩm hay giám đốc thẩm hủy bản án của cấp dưới để xem xét lại thì Thẩm
phán của Tòa án cấp dưới phải xem xét lại vụ án đó, nhưng khi xem xét lại họ vẫn có
quyền độc lập (chẳng hạn, khi hủy án sơ thẩm để xem xét lại, Tòa án cấp phúc thẩm
không quyết định trước những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm phải chấp nhận hoặc
cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản BLHS và hình phạt
mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng).
2.1.2 Sự độc lập với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát:

Khi xét xử, Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra và bản cáo
trạng. Các quan điểm và ý kiến của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cũng như các
tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án là những tình tiết quan trọng và có ích cho Hội
đồng xét xử thực hiện hoạt động xét xử được đúng đắn.
Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa thông qua điều tra trực tiếp nghe tranh luận của các bên, đồng thời
căn cứ vào các quy định của pháp luật để quyết định của bản án không phụ thuộc vào
ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về việc xác định có tội hay không và hình
phạt cần áp dụng mà Hội đồng xét xử phải tự mình nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án,
kết hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận về từng
vấn đề một cách khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm sáng tỏ.
Thẩm phán và Hội thẩm được giao giải quyết vụ án không thể ra ngay quyết định hay
bản án xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hoặc dựa theo chứng cứ và
những tình tiết đã được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát sử dụng để chứng minh tội
phạm và người phạm tội, mà Hội đồng xét xử độc lập xem xét, tiến hành mở phiên tòa
xét xử. Thông qua xét xử để điều tra, xác định các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thể
hiện quan điểm của Hội đồng xét xử mà không phụ thuộc vào kết luận điều tra ban
đầu của Cơ quan điều tra, ý kiến của Viện kiểm sát hay bất cứ một tác động nào khác.
2.1.3 Sự độc lập với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội:
Khi Hội đồng xét xử thực hiện nhiệm vụ, các Cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội không được can thiệp vào công việc xét xử của họ dưới bất kì hình thức
nào. Các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội phụ nữ, Hội nông dân,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh… cũng có quyền giám sát hoạt động của Nhà
nước trong đó có cơ quan xét xử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn có quyền giới thiệu
Hội thẩm nhân dân, là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, nhưng cũng
không có quyền can thiệp vào công việc xét xử của họ.
“Cấp trên của quan tòa là luật pháp” (Karl Marx) có nghĩa là khi xét xử, Tòa án không
có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kì ý kiến của ai. Các
cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động vào các thành viên của

Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan của mình. Mọi hành động
can thiệp dưới bất kì hình thức nào đều làm ảnh hưởng tới khách quan của vụ án và
đều bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên, trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, của bất kì ai và
phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét mọi vấn đề một cách độc lập,
không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng đến tích khách quan của vụ án.
Ngoài ra, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt đưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Nhà nước công khai nguyên tắc Đảng lãnh đạo tại điều 4 Hiến
pháp 1992 và được quy định cụ thể trong các Nghị quyết như: NQ 08/NQ - TW,…
giữa tổ chức Đảng và Thẩm phán còn có mối quan hệ khác ngoài mối quan hệ giữa
Đảng viên và tổ chức Đảng qua thủ tục Thẩm phán. Theo quy định hiện hành thì cùng
với việc lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ công chức trong cơ quan người được đề nghị
còn phải lấy ý kiến của cấp ủy Đảng. Chính vì những lí do này mà yêu cầu được đặt ra
là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nhận thức đúng đắn sự lãnh đạo cùa Đảng
đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập trong xét xử.
Đối với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với dư luận và cơ quan báo chí: việc phán
quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện mâu thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn
giữa bị cáo và người bị hại, giữa nguyên đơn và bị đơn, giữa Nhà nước và người phạm
tội. Ai cũng có nhu cầu kết quả xét xử đưa lại lợi ích tốt nhất cho họ. Sau phán quyết
của Tòa án sẽ có rất nhiều bình luận từ quần chúng nhân dân, dư luận và báo chí, đặc
biệt là những vụ án bị cấp trên xử hủy, những vụ án lớn được xã hội quan tâm. Những
vấn đề đó đều tác động mạng mẽ đến tâm lí của Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện
nhiệm vụ xét xử. Vì vậy, phải đặt ra yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
với yêu cầu của người tham gia tố tụng, báo chí và dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ
dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu
cầu khách quan của những cá thể này.
2.1.4 Sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử:
Sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử là một điều kiện quan trọng để
Thẩm phán và Hội thẩm đánh giá vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ. Sự

độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử được thể hiện trong việc nghiên cứu
hồ sơ, xét hỏi tại phiên tòa và quá trình nghị án. Quá trình tiến hành giải quyết vụ án
hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một hướng
nhất định của hoạt động tố tụng. Sự phân chia của các giai đoạn này gắn liền với trách
nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm
trong một quan hệ khắng khít và tạo thành một hoạt động thống nhất.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập nghiên cứu hồ sơ vụ
án, tự đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan của vụ án để chuẩn bị cho việc
xét hỏi tại phiên tòa.
Khi Hội thẩm tham gia xét xử những vụ án hình sự cụ thể thì địa vị pháp lí mới được
thể hiện rõ nét. Trên cơ sở đó, quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng được xác
lập thông qua quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm.
Trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán là
rất quan trọng, mà không một lĩnh vực nào, đối tượng nào có được. Đó là mối quan hệ
ngang bằng và độc lập. Điều 16 BLTTHS quy định: “Khi xét xử, Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán”, Điều 17 BLTTHS quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Xét trong mối quan hệ ngang bằng: khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
Thẩm phán. Đây cũng là mối quan hệ mang tính pháp lý và chuyên môn, hướng dẫn
và hỗ trợ, cộng đồng và trách nhiệm, dân chủ, tập trung.
Trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán và Hội thẩm phải tự mình nghiên cứu
kĩ lưỡng hồ sơ của vụ án sắp được đưa ra xét xử, xem xét mọi khía cạnh của vụ án từ
khái quát đến cụ thể. Tự chuẩn bị cho mình hệ thống các câu hỏi để hỏi bị cáo, những
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Thẩm phán và Hội thẩm không được áp đặt
nhau cách nhìn nhận các khía cạnh của vụ án theo nghĩa phiến diện, Thẩm phán không
được đưa ra hướng giải quyết vụ án để gợi ý cho các Hội thẩm nhân dân làm theo.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng phải đảm bảo thời gian nhất định theo quy định của
pháp luật, đủ để chủ tọa phiên tòa nắm chắc về vụ án. Trong thực tế đã từ lâu hình
thành một lề lối làm việc trong các tòa án gọi là duyệt án. Tất cả các vụ án, trước khi
đem ra xét xử công khai đều phải được duyệt trước. Thông thường Thẩm phán được

giao chủ tọa phiên tòa nghiên cứu kỹ hồ sơ trước và phải chuẩn bị ý kiến sẽ thẩm vấn
như thế nào và sẽ có hướng giải quyết vụ án như thế nào, sau đó báo cáo trước một tập
thể rộng, hẹp khác nhau nhưng bao giờ cũng có cán bộ lãnh đạo của Tòa án. Người
lãnh đạo của Tòa án này sẽ có ý kiến tổng hợp và hướng dẫn cách xử xự cụ thể đến
mức độ nào tùy theo từng người và cũng tùy từng trường hợp. Việc báo cáo án là để
tranh thủ ý kiến tập thể làm sáng tỏ tình tiết vụ án giúp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
có thêm cơ sở vững chắc, một niềm tin nội tâm vững vàng khi mà vụ án được quyết
định đưa ra xét xử. Các ý kiến không làm ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa. Mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán
mang tính pháp lí và chuyên môn, hướng dẫn và hỗ trợ. Thật vậy, mặc dù Hội thẩm
nhân dân ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử, song Thẩm phán là người xét xử
chuyên nghiệp được đào tạo ở trường lớp, có trình độ pháp lí vững vàng, dày dạn kinh
nghiệm thực tiễn xét xử dễ dẫn đến tình trạng xét xử chỉ dựa vào chuyên môn thuần
túy do những hạn chế kinh nghiệm sống trong cộng đồng dân cư, ít có điều kiện gần
gũi với nhân dân. Bù vào đó Hội thẩm nhân dân là người xét xử không chuyên, có hạn
chế về trình độ pháp lí, nhưng có kiến thức xã hội uyên thâm, có điều kiện gần gũi với
nhân dân lao động, thấu hiểu được nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nắm bắt
được tình hình địa phương. Cả hai chủ thể này bổ sung cho nhau và cùng hướng tới
mục đích chung là chất lượng xét xử, Thẩm phán là người có nhiệm vụ hướng dẫn và
bồi dưỡng thực tế về nghiệp vụ pháp lí cho Hội thẩm nhân dân, còn Hội thẩm nhân
dân là người cộng sự, hỗ trợ cho Thẩm phán, bổ sung những thiếu hụt về chuyên môn
mà Thẩm phán không thể có hoặc không chuyên sâu, để cho phiên tòa xét xử được
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được mọi người đồng tình ủng hộ.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán cung cấp cho nhân dân cách nghiên cứu hồ sơ như
thế nào thì đem lại kết quả chính xác, nhanh chóng, hướng dẫn cho Hội thẩm nhân
dân cách ghi chép, tổng hợp nội dung vụ án như thế ấy để được ngắn gọn và đầy đủ để
phục vụ tốt nhất cho việc thẩm vấn tại tòa. Đồng thời Thẩm phán có thể khai thác vốn
chuyên môn của Hội thẩm nhân dân trong lĩnh vực đời sống xã hội, đề nghị Hội thẩm
nhân dân giảng giải về kiến thức cơ bản địa phương, tập quán địa phương…mà bản
thân Thẩm phán chưa rõ nhằm phục vụ cho việc thẩm vấn xét xử được thuận lợi (tất

nhiên Thẩm phán và Hội thẩm vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật). Về phía Hội thẩm, khi nghiên cứu hồ sơ, Hội thẩm sẽ phát hiện những vấn đề,
tình tiết chưa rõ, thiết sót, mâu thuẫn hoặc cần mời thêm người có liên quan đến vụ
án, mời thêm nhân chứng mà trong quá trình làm thủ tục giấy tờ ban đầu, thư ký hay
Thẩm phán không phát hiện do nhiều lý do khách quan hay chủ quan, hoặc yêu cầu
giám định tư pháp để giúp cho việc kết luận của Hội đồng xét xử được chính xác.
Khi thẩm vấn, tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm được bình đẳng xét hỏi bị cáo và
người tham gia tố tụng khác để thẩm tra, thu thập, củng cố và đánh giá chứng cứ.
Thẩm phán là người điều khiển phiên tòa, tuy nhiên Hội thẩm nhân dân có quyền độc
lập với Thẩm phán trong cách hỏi, cách khai thác các tình tiết của vụ án. Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập xem xét và đánh giá chứng cứ để làm rõ vụ án. Tuy độc lập
nhưng mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng mang tính cộng đồng và trách
nhiệm rõ nhất. Bản án được công bố là kết quả của quá trình làm việc không mệt mỏi
của Hội đồng xét xử. Do vậy, tất cả các thành viên trong Hội đồng xét xử phải cộng
đồng trách nhiệm trước chất lượng xét xử đúng sai của mình. Cả Thẩm phán và Hội
thẩm đều phải tập trung chú ý đến mọi động tác đứng ngồi, đi lại và những câu hỏi đặt
ra, Hội thẩm nhân dân phải thể hiện mình là một thành viên của Hội đồng xét xử, có
trách nhiệm và đầy bản lĩnh, sẵn sàng hỗ trợ Thẩm phán, nhắc nhở Thẩm phán trong
quá trình thẩm vấn những tình tiết mới hoặc những tình tiết cũ nhưng Thẩm phán
quên không thẩm vấn hoặc do thiếu bình tĩnh bộc lộ những thiếu sót đáng tiếc… giữa
Thẩm phán và Hội thẩm phải biết phối hợp chặt chẽ, chuẩn xác, bám sát đề cương
thẩm vấn mặc dù Thẩm phán là người nắm chắc nội dung của vụ án và có kinh
nghiệm nghề nghiệp hơn Hội thẩm, song không vì thế mà “độc quyền thẩm vấn, phải
tôn trọng ý kiến của Hội thẩm nhân dân”.
Khi nghị án, Thẩm phán và Hội thẩm bình đẳng trong việc biểu quyết từng vấn đề của
vụ án. Ý kiến biểu quyết của Hội thẩm có giá trị như ý kiến biểu quyết của Thẩm
phán. Để đảm bảo cho tính độc lập cuả Hội thẩm khi nghị án Thẩm phán phải là người
biếu quyết sau cùng. Trong giai đoạn này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ
khái quát lại nội dung vụ án, để các Hội thẩm nhân dân nắm bắt và áp dụng. Hội thẩm
nhân dân sẽ tự mình đưa ra ý kiến giải quyết vụ án (tự mình đánh giá chứng cứ, quyết

định hình phạt trên cơ sở quy định của pháp luật, các vấn đề của vụ án được đưa ra
giải quyết thảo luận dân chủ, biểu quyết theo đa số, ý kiến của Hội thẩm được Thẩm
phán tôn trọng. Nếu ý kiến của Hội thẩm là thiểu số thì được quyền trình bày bằng văn
bản và để vào hồ sơ vụ án.
Và trong giai đoạn này, mối quan hệ ngang bằng của Hội thẩm và Thẩm phán cũng
thể hiện tính tập trung và dân chủ rất cao. Xét trong mối quan hệ độc lập, đây là mối
quan hệ quan trọng có ý nghĩa đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Điều 17 BLTTHS quy định: “Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ
Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử sẽ quyết định các vấn đề, kể cả bản án
một cách độc lập căn cứ vào những chứng cứ khách quan, ý thức pháp luật (nghĩa là
những hiểu biết về pháp luật và thái độ đối với pháp luật) và niềm tin nội tâm của
mình (sự tin tưởng một cách chắc chắn vào sự đúng đắn của kết luận mình đưa ra) mà
không phụ thuộc bất cứ sự chỉ dẫn, tác động, sức ép của cơ quan, cá nhân nào.
2.2 Tính tuân theo pháp luật của Hội thẩm và Thẩm phán khi xét xử:
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử nhưng không có nghĩa là tùy tiện trong xét xử
mà phải tuân theo pháp luật. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải
tuân theo các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án và điều này được thể hiện ở
những khía cạnh sau:
2.2.1 Phải tuân theo các quy định của Bộ luật hình sự trong việc định tội và
lượng hình (bao gồm cả luật thực định và khoa học về luật hình sự). Pháp luật hình sự
là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự
quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và
sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp luật hình sự
góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. Chính vì thế, thi hành nghiêm chỉnh Bộ luật hình sự là nhiệm vụ

chung của tất cả các cơ quan, tổ chức và toàn thể nhân dân.
2.2.2 Tuân theo các trình tự, thủ tục tố tụng của Bộ luật TTHS: Bộ luật tố tụng
hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân;
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Vì vậy, mọi hoạt động
tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được
tiến hành theo quy định của Bộ luật này. Có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm thành hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa:
• Ở giai đoạn thứ nhất là giai đoạn mà Thẩm phán và Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ để
xem xét các tài liệu có trong vụ án, từ đó xây dựng lên kế hoạch xét hỏi và những tình
huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó thích hợp và những công việc cần
thiết khác cho phiên tòa.
• Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc các quy định của Bộ luật TTHS từ thủ
tục bắt đầu phiên tòa cho đến kết thúc phiên tòa, trong đó phần xét hỏi, tranh luận và
nghị án là quan trọng nhất.
2.2.3 Tuân theo Bộ luật dân sự khi giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Nghĩa
là Thẩm phán và Hội thẩm phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ
án. Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài
sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
gọi tắt là quan hệ dân sự và có phạm vi áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Như
vậy, có thể nói mọi đối tượng có quyền công dân thực hiện hành vi dân sự trên lãnh
thổ Việt Nam hoặc công dân Việt Nam ở trên lãnh thổ nước ngoài đều là đối tượng
điều chỉnh của Luật dân sự.
2.3 Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử

của Thẩm phán và Hội Thẩm:
Tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật, Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc. Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập với nhau và độc lập với các yếu tố khác. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập, không chịu bất kì sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có
tính khách quan, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật, vì vậy,
độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
2.3.1 Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử:
Xét ở khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm
phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp
luật.Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể
hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì tuân theo pháp
luật là đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội
Thẩm, bởi vậy họ mới có sự độc lập.
2.3.2 Độc lập trong việc thống nhất với chỉ tuân theo pháp luật:
Độc lập nhưng phải dựa trên những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản án,
quyết định của Hội đồng xét xử phải phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
Bản án phải xác định đúng người đúng tội và đúng với các thiệt hại do hành vi tội
phạm gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết
xác thực được thẩm tra tại phiên tòa có lập luận chặt chẽ, không kết luận dựa trên ý
nghĩ chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành viên Hội đồng xét xử. Yếu tố độc lập
và chỉ tuần theo pháp luật không thể tách rời nhau.
Những phân tích trên có thể thấy rằng yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối
quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật.
3. THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỒI THẨM:
3.1 Mối quan hệ giữa Hội thẩm và Thẩm phán, và những mối quan hệ khác
Hiện nay, theo các quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Thẩm phán và Hội
thẩm thực hiện nhiệm vụ tố tụng theo sự phân công của Chánh án hoặc Phó Chánh án.
Như vậy, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và làm nhiệm vụ

xét xử một vụ án trên cơ sở một quyết định (bằng văn bản hoặc bằng miệng) của một
trong số cán bộ lãnh đạo Toà án. Sau khi được phân công thụ lý hồ sơ vụ án thì quan
hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với lãnh đạo Toà án chỉ là mối quan hệ hành chính chứ
không phải là mối quan hệ tố tụng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mối
quan hệ hành chính đó có thể chi phối lên hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Hội
thẩm, hạn chế hoặc làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán hay Hội thẩm khi tham gia
xét xử. Trong một số trường hợp, vì nhiều lý do nên lãnh đạo Toà án đã can thiệp sâu
vào công việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm thông qua các yêu cầu báo cáo, thỉnh
thị hoặc thậm chí chỉ đạo những người tiến hành tố tụng xét xử theo ý chí của mình.
Bên cạnh mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với Chánh án, Phó Chánh án,
còn tồn tại mối quan hệ hành chính giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các Chánh toà, Phó
Chánh toà chuyên trách.Quan hệ hành chính giữa Thẩm phán, Hội thẩm với những
người này cũng ảnh hưởng nhất định đến tính độc lập xét xử, tuy nhiên mức độ ảnh
hưởng có phần hạn chế hơn.
3.2 Cơ chế thỉnh thị án, duyệt án, báo án còn những bất cập
Bộ Luật tố tụng Hình sự không có quy định “thỉnh thị án” hoặc chế độ “duyệt án”
trong hoạt động xét xử. 23 năm trước, để khẳng định nguyên tắc độc lập xét xử, tại hội
nghị tổng kết ngành tòa án năm 1988, chánh án TAND Tối cao từng kết luận: “Về
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật là
vấn đề khá phức tạp cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu kỹ và hướng dẫn
sao cho đúng đắn. TAND tối cao từ lâu đã không quy định là Tòa án địa phương phải
thỉnh thị bất cứ loại án nào. Nhưng nếu Tòa án địa phương trong quá trình xét xử một
vụ án, có khó khăn, vướng mắc cần xin ý kiến hướng dẫn của TAND tối cao thì
TAND tối cao vẫn phải đáp ứng yêu cầu đó của Tòa án địa phương. Cố nhiên, sự
hướng dẫn đó không mang tính áp đặt, không làm mất tính chủ động độc lập của Hội
đồng xét xử (HĐXX).
Nguyên tắc: Khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: “Việc xét xử
phải căn cứ vào pháp luật, vào diễn biến cụ thể tại phiên tòa và quyết định cuối cùng
thuộc về HĐXX theo đúng luật, quyết định theo đa số”.
Để tránh hiểu lầm khi vận dụng nguyên tắc “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân

dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, tại hội nghị tổng kết công tác ngành năm
1991, chánh án TAND Tối cao kết luận:“Từ nay các đồng chí không sử dụng từ
“thỉnh thị án” mà coi đây chỉ là việc hỏi ý kiến Tòa án cấp trên một số vướng mắc cụ
thể. Tòa án nhân dân tối cao cũng không cho ý kiến hướng dẫn mức án cụ thể mà việc
xem xét và quyết định mức án đối với từng vụ án cụ thể hoàn toàn thuộc thẩm quyền
của Hội đồng xét xử. Cũng từ nay, các tòa chấm dứt ngay tình trạng tại phiên tòa
HĐXX tuyên bố “hoãn phiên tòa để xin ý kiến cấp trên”. Do đó khi chuẩn bị xét xử,
các Thẩm phán phải nêu cao ý thức trách nhiệm, làm tròn trách nhiệm Nhà nước và
luật pháp giao phó,mọi phiên tòa phải được tiến hành theo đúng thủ tục tố tụng đã
quy định và Hội đồng xét xử phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về
những quyết định của mình”.
Kết luận của chánh án TAND Tối cao từ ngày ấy cho đến hôm nay vẫn còn nguyên
giá trị. Sáu năm trước, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 cũng tiếp tục chỉ rõ:“Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng
thẩm quyền và trách nhiệm cho điều tra viên,kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ
động trong thực thi nhiệm vụ,nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các hành vi tố tụng của mình.” Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của cải cách tư pháp.
Năm 2007, chánh án TAND tối cao ban hành chỉ thị có nội dung cấm lãnh đạo Tòa án
địa phương duyệt án: “Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm chính
về quản lí đối với các mặt công tác, đặc biệt là chất lượng xét xử, không được lạm
dụng việc tổ chức công tác xét xử, trao đổi ý kiến về chuyên môn nghiệp vụ để hình
thành chế độ duyệt án, áp đặt quan điểm cá nhân trái với nguyên tắc độc lập xét xử và
chỉ tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án…”
Nghị quyết 49/NQ-TW đã đi vào cuộc sống 6 năm, nhưng thực tiễn thi hành còn
nhiều bất cập. Còn một số phiên tòa, tuy không phổ biến nhưng vẫn còn có những
phán quyết không thể hiện kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Báo chí cũng đã
từng phản ánh việc chánh án tòa địa phương nọ đã chỉ đạo các thẩm phán phải tuân
thủ việc báo án, cụ thể: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử (tất cả các loại án), Thẩm phán

- chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử phải báo cáo chánh án để tổ chức phiên họp
Ủy ban Thẩm phán trao đổi và hướng dẫn nghiệp vụ vể việc giải quyết vụ án.
Trong quá trình tiến hành tố tụng tại phiên tòa, HĐXX phát hiện có tình tiết mới làm
thay đổi hướng giải quyết vụ án mà Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử đã thống nhất
với UBTP theo đúng quy định của pháp luật thì Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa và
HĐXX phải báo cáo chánh án để tiếp tục tổ chức phiên họp của UBTP tiếp tục trao
đổi, hướng dẫn nghiệp vụ…Thực tiễn đã có phiên tòa, thẩm phán chủ tọa gượng gạo
khi tuyên bố:“HĐXX sẽ tạm dừng phiên tòa để xin ý kiến lãnh đạo”.
Phải chăng chánh án tòa án địa phương ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ theo luật tổ
chức Tòa án, còn được quyền can thiệp sâu vào việc giải quyết vụ án cụ thể (thống
nhất cả về tội danh, hình phạt đối với bị cáo) trước và trong khi xét xử để đảm bảo
chất lượng xét xử của Tòa án địa phương mình? Nếu thẩm phán nào vi phạm chế độ
báo án, sẽ bị kiểm điểm phê bình, nếu cố tình tái phạm sẽ xem xét trách nhiệm của
thẩm phán, cán bộ công chức?
Thực tiễn xét xử có những bản án dù đã có thống nhất trong việc báo án trước và
trong khi xét xử, nhưng vẫn bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm cải sửa hoặc hủy án với
kết luận có sai phạm trong việc áp dụng pháp luật và có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng. Trong trường hợp này, người chịu trách nhiệm về bản án bị sửa, hủy lại
không phải là chánh án mà chính là chủ tọa và các thành viên trong Hội đồng xét xử?
Trường hợp này rõ ràng không đảm bảo sự công bằng đối với thẩm phán chủ tọa
phiên tòa .
Thực tiễn cũng đã có chuyện thẩm phán chủ tọa phiên tòa và HĐXX đã không dừng
tuyên án theo yêu cầu của chánh án để “báo án” đã bị kiểm điểm, phê bình mặc dù
bản án đã tuyên không có sai phạm trong việc áp dụng pháp luật và bản án đó có hiệu
lực! Chuyện này đã gây nhiều tranh luận trong giới luật gia về nguyên tắc khi xét xử
thẩm phán độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Nếu trong quá trình xét xử thẩm phán đều
phải thực hiện chế độ “báo án” mà không phân biệt loại án nào thì chắc chắn còn tái
diễn những phiên tòa phải hoãn để báo án!
Nhiều thẩm phán,chuyên gia luật học cho rằng việc báo án và nhận định sự định
hướng xét xử và thống nhất kết quả xét xử từ lãnh đạo của thẩm phán chỉ giải quyết

được mối quan hệ hành chính giữa cấp trên và cấp dưới. Không có quy định nào của
pháp luật cho phép họp báo án xin đường lối lại thống nhất kết quả xét xử về tội danh
và hình phạt của bị cáo trước khi xét xử (bị cáo phạm tội gì và xử phạt cụ thể mức án
bao nhiều năm tù, cho hưởng án treo hay không ).
Việc họp án và thống nhất nội dung kết quả xét xử như vậy không thể gọi là “xin
đường lối chung” mà chuyển thành việc “duyệt án”. Việc yêu cầu thẩm phán chủ tọa
phiên tòa phải dừng tuyên án là vi phạm nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán là
vi phạm Chỉ thị số 01/2007 của chánh án TAND tối cao. Ở đây cần phân biệt rõ giữa
quan hệ quản lý hành chính và quan hệ tố tụng làm sao để nguyên tắc khi xét xử thẩm
phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật được đảm bảo thực hiện đúng với
bản chất của nó.”
3.3 Năng lực của Thẩm phán hiện nay:
Hiện nay, bên cạnh những Thẩm phán được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, bề dày kinh nghiệm xét xử thì vẫn còn không ít Thẩm phán, nhất là một số
Thẩm phán sơ cấp còn hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cũng như
thiếu tự tin, ỷ lại hoặc sợ trách nhiệm, không tự quyết định được những vấn đặt ra khi
xét xử, nên đã chủ động xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, và điều này cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến tính độc lập xét xử. Đánh giá về hạn chế, thiếu sót của đội ngũ Thẩm
phán tại kết luận Hội nghị tổng kết công tác năm 2005 và triển khai công tác năm
2006, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã nêu: “Trong một số trường hợp tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp luật của Thẩm phán còn yếu, không giữ vững nguyên tắc độc
lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật để việc tác động trái pháp luật từ bên ngoài ảnh
hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án, cá biệt vẫn còn trường hợp cán bộ, Thẩm
phán vi phạm phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật phải xem xét, xử lý kỷ luật hoặc
thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự, có đơn vị xảy ra mất đoàn kết nội bộ, làm ảnh
hưởng đến công tác của đơn vị”.
3.4 Bị ảnh hưởng bởi những nhận định chủ quan của các cơ quan ngôn luận
Trong thời đại công nghệ, truyền thông đang phát triển mạnh như hiện nay, với xu thế
dân chủ hoá mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động tố tụng, vai
trò của các cơ quan ngôn luận ngày càng được nâng cao. Nhiều vụ án được thông tin

tới nhân dân, thậm chí trước khi Toà án xét xử. Các loại báo (báo in, báo điện tử, phát
thanh, truyền hình) không chỉ đưa thông tin mà còn định hướng dư luận. Do đó, khi
thụ lý hồ sơ vụ án được phân công, Thẩm phán ít nhiều bị ảnh hưởng bởi các nhận
định mang tính chủ quan của các cơ quan ngôn luận. Không ít Thẩm phán, do trình
độ, năng lực còn hạn chế, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp, nên đã bị ảnh hưởng bởi sự chi
phối của dư luận báo chí, dẫn đến việc ra các phán quyết không khách quan, không
phù hợp với những tình tiết, diễn biến của vụ án.
Mặt khác, sự độc lập khi xét xử của Thẩm phán còn bị chi phối bởi những người thuộc
cơ quan, tổ chức khác là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Tại khoản 1
Điều 26 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 04/10/2002 quy
định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán TANDTC gồm có Chánh án TANDTC làm
Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội Luật gia Việt Nam là uỷ viên” và
khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm Toà án nhân dân ngày 19/02/2011 quy định: “Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh
đạo Sở Nội vụ, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội Luật gia cấp
tình là uỷ viên”. Bản thân các Quy định này không hạn chế hay gây ảnh hưởng đến sự
độc lập của Thẩm phán khi xét xử. Tuy nhiên, trong thực tiễn, quy định như vậy ít
nhiều gây ra mối quan hệ phụ thuộc giữa Thẩm phán với các thành viên Hội đồng
tuyển chọn Thẩm phán, nhất là đến thời điểm xem xét bổ nhiệm hoặc tái bổ nhiệm.
3.5 Hệ thống Tòa án tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ
Hệ thống Toà án hiện nay được tổ chức theo đơn vị hành chính – lãnh thổ. Điều này
dẫn đến tình trạng là Thẩm phán, và trong một số trường hợp cả Chánh án cũng bị chi
phối bởi các ý kiến của lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền địa phương nơi Toà án đặt trụ
sở. Giữa Toà án với chính quyền địa phương cùng cấp tồn tại mối quan hệ do Chánh
án Toà án cùng cấp phải có trách nhiệm báo cáo về công tác xét xử tại các kỳ họp của
Hội đồng nhân dân và có thể bị chất vấn về công tác xét xử. Trong hoạt động chuyên
môn, Tòa án cấp trên có thể đánh giá công tác xét xử của một Toà án địa phương nào

đó là tốt, nhưng nếu việc xét xử ấy không phù hợp với chủ trương, ý chí của cấp uỷ,
chính quyền địa phương thì có thể bị địa phương đánh giá ngược lại. Là người chịu sự
quản lý về nghiệp vụ của Toà án cấp trên, nhưng Chánh án, Thẩm phán Toà án địa
phương lại đồng thời chịu sức ép từ chính quyền địa phương, nên trong công tác xét
xử, những người này cũng không thể độc lập.
3.6 Quy định của pháp luật còn hạn chế và dẫn đến những bất cập
Hiện nay, do một số quy định của pháp luật vẫn còn bất cập, chồng chéo, các chuẩn
mực để đánh giá phán quyết của Toà án, nhất là phán quyết trong các vụ việc dân sự,
kinh doanh thương mại, hành chính…chưa thống nhất, rõ ràng, nên trong thực tiễn có
không ít trường hợp, các bản án, quyết định của Toà án cấp dưới đúng pháp luật,
nhưng vẫn bị kháng cáo, kháng nghị lên Toà án cấp trên và các bản án, quyết định này
đã bị sửa, huỷ theo ý chí hay sự đánh giá chủ quan. Trong những trường hợp này,
người đã có có quyết định hoặc bản án bị cải sửa, huỷ (vượt quá tỷ lệ cho phép) sẽ bị
khiển trách, kiểm điểm một cách vô lý. Điều này đã tác động đến tâm lý của Thẩm
phán, Hội thẩm khi xét xử và tới lượt mình, Thẩm phán, Hội thẩm không được độc lập
giải quyết vụ án theo suy nghĩ của mình mà phải “uốn” theo ý kiến của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác.
4. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN:
Tòa án được xác định là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử nhân danh nhà nước và
pháp luật, là nơi thể hiện tập trung nhất của nền công lý cho nên việc cải cách hoạt
động tư pháp của tòa án được xem là một khâu then chốt. Tòa án chỉ có thể thực hiện
tốt chức năng của mình khi Tòa án thực sự không chịu ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố
nào và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử.
Tuy nhiên trong thực tiễn, Tòa án vẫn chưa có một vị thế độc lập mà còn bị tác động
bởi yếu tố bên trong cũng như yếu tố bên ngoài bởi các yếu tố khách quan cũng như
chủ quan. Tòa án là nơi nhân danh công lý mang lại công bằng cho xã hội thì vấn đề
“độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong hoạt động xét xử càng trở nên có ý nghĩa.
“Độc lập” được quy định trong nguyên tắc là độc lập giữa các thành viên của HĐXX,
giữa HĐXX với cá nhân, tổ chức, các cơ quan nhà nước, giữa Tòa án cấp dưới và Tòa
án cấp trên. Độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật và pháp luật là cấp trên duy nhất

của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử.
4.1. Đổi mới một số quy định liên quan tới nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo PL”:
4.1.1. Thẩm phán:
Tuy số lượng cán bộ Tòa án có phần cải thiện hơn song vẫn thiếu về số lượng và yếu
về chất lượng. Bên cạnh đó các Thẩm phán chưa được đào tạo lại hay quá dựa vào
kinh nghiệm mà thiếu cập nhập tri thức pháp lý mới nên hiểu biết pháp luật một cách
máy msóc. Nhà nước cần quan tâm hơn đến vấn đề đào tạo người và đào tạo lại số
Thẩm phán còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài việc trang bị về kiến thức pháp
luật và kiến thức xã hội có liên quan. Huấn luyện các kĩ năng nghề nghiệp cần thiết,
cung cấp các thông tin về kinh nghiệm xét xử, cần từng bước có chương trình đào tạo
chuyên sâu hoặc đào tạo Thẩm phán có chuyên môn hóa cao theo từng lĩnh vực cụ
thể. Ngoài ra người làm công tác xét xử phải thường xuyên cập nhập những quy định
mới để áp dụng chính xác ở từng thời điểm.
Với cơ chế hiện nay, người thẩm phán khó có thể có đủ bản lĩnh để độc lập. Lãnh đạo
Tòa án vẫn được coi là thủ trưởng của họ trong khá nhiều mối quan hệ “ngoài tố
tụng”. Vẫn còn phổ biến việc áp dụng những quy tắc “bất thành văn” như báo cáo án,
thỉnh thị án, duyệt án… cho dù việc đó được “núp” sau sự biện hộ chỉ là sự “tham
khảo” về chuyên môn nhưng người thẩm phán khó mà không tuân thủ vì “số phận”
của họ phụ thuộc khá nhiều vào những người cho ý kiến đó. Đó là chưa nói đến việc
nếu vị Chánh án của Tòa không vô tư và khách quan? Ngay việc phân công xét xử
cũng do lãnh đạo Tòa quyết định cũng là một việc cần xem xét lại khi đại đa số các
nền tư pháp khác áp dụng chế độ phân công án một cách ngẫu nhiên để tránh những
“những đường dây chạy án.”
Cơ chế bổ nhiệm và nhiệm kỳ thẩm phán hiện nay cũng cần phải suy nghĩ một cách
nghiêm túc. Quy trình tuyển chọn và bổ nhiệm, tái nhiệm của thẩm phán hiện nay phụ
thuộc khá nhiều vào lãnh đạo của Tòa án nơi thư ký, thẩm tra viên và người thẩm
phán công tác và của Tòa án cấp trên. Việc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ
nhiệm toàn bộ thẩm phán địa phương cũng nên cân nhắc lại. Ý kiến cho rằng việc bổ
nhiệm thẩm phán địa phương bởi Chủ tịch Nước theo quy định trước đây mang tính

“hình thức” nên được nhìn nhận lại từ khía cạnh bảo đảm độc lập của cá nhân người
thẩm phán, đó là chưa nói đến việc người thẩm phán nhân danh đất nước khi ra phán
quyết. Để có được những Thẩm phán thật sự có năng lực, cần tuyển chọn Thẩm phán
không chỉ từ đội ngũ cán bộ toà án mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như
điều tra viên, công tố viên, luật sư, kể cả những luật gia đã qua đào tạo nghề Thẩm
phán nhưng chưa làm Thẩm phán. Để được làm Thẩm phán, các ứng viên cần trải qua
một kỳ thi quốc gia nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa họ cho chức
danh này. Vì vậy, cần nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển Thẩm phán ở
từng cấp toà án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia. Những người trúng
tuyển kỳ thi quốc gia nếu có đủ các tiêu chuẩn khác mà pháp luật quy định sẽ được
Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm làm Thẩm phán.Thẩm phán sẽ là
Thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều động họ dễ dàng khi thấy cần thiết. Việc bổ
nhiệm Thẩm phán cần tiến hành theo ngạch, bậc và theo nguyên tắc Thẩm phán không

×