Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

thực tiễn áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm dưới góc nhìn của luật tố tụng hình sự 9đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.21 KB, 42 trang )

1
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương 1: Một số vấn đề liên quan đến biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm trong tố tụng hình sự
I. Tổng hợp lý thuyết về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo trong
tố tụng hình sự
1. Khái niệm biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
1.1Khái niệm biện pháp ngăn chặn
1.2Khái niệm biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
2. Mục đích và căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
2.1Mục đích
2.1.1 Mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn
2.1.2 Mục đích áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
2.2Căn cứ áp dụng
2.2.1 Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
2.2.2 Căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
3. Đối tượng áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
4. Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm
4.1Thẩm quyền áp dụng
4.2Thủ tục áp dụng
4.3Thời hạn áp dụng
5. Giá trị tiền, tài sản và việc quản lý tiền, tài sản do bị can, bị cáo đặt
6. Hậu quả pháp lý khi bị can, bị cáo không thực hiện đúng nghĩa vụ khi cam
kết
II. Lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003
III. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự một số


nước trên thế giới
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
I. Mặt tích cực của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
II. Mặt hạn chế của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
2
Chương 3: Dự báo và giải pháp
I. Dự báo
II. Giải pháp
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng.
Tài liệu tham khảo
3
LỜI NÓI ĐẦU
Tội phạm được nhiều ngành khoa học khác nhau tìm hiểu như xã hội học, y học,
luật học, tâm lí học, giáo dục học… nhưng chủ yếu vẫn được nghiên cứu ở lĩnh vực Luật
học. Luật học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội phạm trong chuyên ngành Luật hình
sự và Tố tụng hình sự. Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực được hình thành từ rất
lâu trong lịch sử nhân loại. Từ khi xuất hiện tội phạm, nó đã tác động và ảnh hưởng rất lớn
đến mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, tình hình tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội
đang là những vấn đề phức tạp bức xúc và cấp bách đòi hỏi sự quan tâm thiết thực của mọi
tầng lớp trong xã hội loài người. Điều cần thiết lúc này là chúng ta cần đặt ra vấn đề đấu
tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn sự leo thang với tốc độ chóng mặt của tình hình tội
phạm, duy trì sự ổn định xã hội. Một trong những giải pháp có cơ sở khoa học để ngăn
chặn và phòng ngừa tội phạm là những biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật
Tố tụng hình sự mà biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một biện pháp
quan trọng được hầu hết các cơ quan có thẩm quyền quan tâm. Tuy là một biện pháp ngăn
chặn có tính chất quan trọng nhưng sự áp dụng trên thực tiễn lại có rất nhiều khó khăn, bất
cập. Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tố tụng hình sự nói riêng và phòng ngừa
tội phạm nói chung. Trong bối cảnh nền kinh tế- văn hóa- xã hội với tình hình tội phạm gia
tăng như hiện nay, xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách còn bỏ ngõ tồn tại ở

biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Bài tiểu luận này nghiên cứu những
vấn đề cơ bản, thực tiễn liên quan đến biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
dưới góc nhìn của Luật Tố tụng hình sự, hi vọng nó sẽ đem lại những kiến thức bổ ích cho
tất cả chúng ta.
Nội dung cơ bản của bài tiểu luận gồm:
Chương I: Một số vấn đề liên quan đến biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm.
Chương II: Thực trạng áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Chương III: Dự báo và giải pháp.
TP HCM ngày 12 tháng 12 năm 2012
4
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN BIỆN PHÁP ĐẶT TIỀN
HOẶC TÀI SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
5
I. TỔNG HỢP LÝ THUYẾT VỀ BIỆN PHÁP ĐẶT TIỀN HOẶC TÀI
SẢN CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ BẢO ĐẢM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Khái niệm biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng
hình sự
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhằm bảo vệ
Chính quyền mới, bảo vệ thành quả Cách Mạng và quyền lợi của công dân, Nhà nước ta đã
ban hành các văn bản về Tố tụng hình sự trong đó có quy định cụ thể về biện pháp ngăn
chặn. Hiện nay, biện pháp ngăn chặn vẫn còn giữ nguyên giá trị của nó, được quy định
thành một chế định riêng trong Bộ luật tố tụng Hình sự. Chế định biện pháp ngăn chặn là
một chế định quan trọng của Luật Tố tụng Hình sự nhằm góp phần đấu tranh, ngăn ngừa,
trấn áp tội phạm, bảo vệ an ninh Quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trước đây, những
biện pháp này được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như: Luật 103- SL/005 ngày
20/5/1976, Sắc luật 002- SLt ngày 18/6/1957 và Sắc Luật 02-SL ngày 15/3/1976 bao gồm

việc bắt, giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế. Nhận định được
tầm quan trọng của chế định biện pháp ngăn chặn, pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã
xây dựng hệ thống những biện pháp ngăn chặn và quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Qua các lần sửa đổi, bổ sung, hiện nay trong Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, hệ thống
các biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể trong chương VI bao gồm: bắt, tạm giữ, tam
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Tuy vậy,
khái niệm về các biện pháp ngăn chặn không được nêu trong Luật.
Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1 nêu khái niệm về biện pháp ngăn chặn như sau:
“Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính bắt buộc được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm phòng
ngừa và ngăn chặn hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, bảo đảm
thực hiện đúng đắn các nhiệm vụ khác của Tố tụng Hình sự”. Theo khái niệm này thì biện
pháp ngăn chặn mang tính quyền lực nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể bị
áp dụng. Mục đích chủ yếu của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn hành vi cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, bảo đảm thực hiện đúng đắn các nhiệm vụ khác của Tố
6
tụng Hình sự, nó không mang ý nghĩa trừng trị hay cải tạo đối với chủ thể bị áp dụng. Theo
đó thì mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Thuật ngữ pháp lý phổ thông dịch từ cuốn Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của
Nhà xuất bản Pháp lý Maxcơva, 1973 giải thích “ Biện pháp ngăn chặn là biện pháp
cưỡng chế về mặt TTHS do Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp dụng
đối với bị can (Người bị tình nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều
tra, dự thẩm hoặc trốn tránh Tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục
hoạt động phạm tội, cũng như để bảo đảm việc thi hành án”. Theo khái niệm của Từ điển
nghiệp vụ phổ thông thì biện pháp ngăn chặn là biện pháp chủ động nhằm đối phó kịp thời,
không để cho bọn phản Cách mạng và bọn tội phạm khác thực hiện âm mưu phạm tội của
chúng.
Luật TTHS Thụy Điển thì coi: “Biện pháp ngăn chặn là do Cảnh sát, Công tố và
Tòa án thực hiện đối với những người bị nghi vấn hợp lý và có căn cứ cho rằng họ phạm
tội mà Luật Hình sự quy định hình phạt đối với tội đó từ một năm tù giam trở lên, nếu

không áp dụng những biện pháp ngăn chặn thì người đó sẽ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”.
Theo hai tác giả Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Nguyên thì “ Biện pháp ngăn chặn
là biện pháp cường chế do các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị
can, bị cáo và trong một số trường hợp được pháp luật quy định, có thể áp dụng cả đối với
người chưa bị khởi tố (Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngằn ngừa họ tiếp tục phạm
tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi
hành án”.
Theo Từ điển Luật học, “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố
tụng do Điều tra viên, Kiểm sát viên và Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu có đủ
căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, cản trở
việc xác minh sự thật về vụ án hoặc sẽ tiếp tục hoạt động phạm tội, cũng như để bảo vệ
việc thi hành án”.
Tập bài giảng Luật TTHS của Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh cho rằng
“Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế được quy định trong pháp luật TTHS
7
và được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố (Trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm đối với xã
hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có hành động gây khó khăn, cản trở cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”.
Từ những khái niệm trên, có thể thấy cho đến nay, khoa học pháp lý ở nước ta vẫn
chưa có khái niệm thống nhất về các biện pháp ngăn chặn.
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy biện pháp ngăn chặn có những đặc điểm chung
sau:
Thứ nhất, Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế TTHS;
Thứ hai, Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS có tính nghiêm
khắc;
Thứ ba, Biện pháp ngăn chặn có tính lựa chọn.
1.2.Khái niệm biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Chế định đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được quy định tại Điều 93

Chương VI Bộ Luật TTHS. Có thể nói, đây là biện pháp ngăn chặn thể hiện tính nhân đạo
cao nhất trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật TTHS. Tuy
nhiên, ngoài quy định tại Điều 93 thì vẫn chưa có khái niệm mang tính khái quát. Theo
Khoản 1 Điều 93 Bộ Luật TTHS năm 2003: “Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị
cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập”. Từ điều luật, ta có thể khái
quát khái niệm như sau: “ Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một
biện pháp ngăn chặn nhằm thay thế biện pháp tạm giam do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án áp dụng đối với các đối tượng là bị can, bị cáo khi họ đáp ứng được các điều
kiện về việc đặt tiền hoặc tài sản theo quy định của pháp luật nhằm mục đích bảo đảm sự
có mặt của họ khi được triệu tập”.
So với biện pháp tạm giam thì biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
ít nghiêm khắc hơn, không hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, quyền
8
về tài sản của bị can, bị cáo sẽ bị hạn chế ở một mức độ nhất định. Ngược lại, so với biện
pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền hoặc giá trị bảo đảm có quy định gần giống nhau. Chỉ
khác nhau ở điểm, bảo lĩnh thì cần có người nhận bảo lĩnh còn biện pháp đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm thì chính bị can, bị cáo là người dùng tiền, tài sản của mình để
bảo đảm.
Như các biện pháp ngăn chặn khác thì đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm vẫn
mang những ý nghĩa và mục đích nhất định. Trong đó, đây là biện pháp ngăn chặn tác động
trực tiếp đến tài chính, các quyền tài sản của bị can, bị cáo trong một thời gian nhất định
theo quy định của pháp luật.
2. Mục đích và căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm
2.1 Mục đích
2.1.1 Mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn
Các biện pháp ngăn chặn là một bộ phận hợp thành quan trọng của các biện pháp

cưỡng chế TTHS. So với các biện pháp cưỡng chế Tố tụng khác thì có thể xem biện pháp
ngăn chặn là những biện pháp nghiêm khắc nhất bởi vì khi áp dụng chúng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp như quyền bất khả xâm phạm, quyền tự do đi lại…Theo Điều 79 Bộ Luật TTHS
năm 2003 thì biện pháp ngăn chặn có mục đích là:
- Ngăn chặn kịp thời hành động phạm tội;
- Ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử;
- Ngăn chặn không để cho bị can, bị cáo tiếp tục thực hiện tội phạm;
- Để đảm bảo thi hành án (Ngăn chặn không để cho bị cáo trốn tránh trách
nhiệm pháp lý).
Mục đích của các biện pháp ngăn chặn được phản ánh ngay trong tên gọi của nó.
Ngược lại, nếu áp dụng sai mục đích đối với các biện pháp ngăn chặn thì đây là áp dụng
Luật không đúng căn cứ, sai mục đích. Biện pháp ngăn chặn không phải là những biện
pháp được áp dụng một cách tràn lan mà phải thật sự là kết quả của việc cân nhắc, so sánh,
lực chọn giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của công dân. Khi áp dụng các biện pháp
9
ngăn chặn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp
luật để bảo đảm sự tôn trọng các quyền của công dân, góp phần nâng cao hiệu quả trong
công cuộc phòng ngừa tội phạm.
Với mục đích trên, việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật TTHS có ý
nghĩa rất quan trọng. Các biện pháp ngăn chặn đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ngoài ra, chúng còn góp
phần bảo đảm việc thực hiện dân chủ, tôn trọng các quyển cơ bản của công dân được pháp
luật bảo vệ.
2.1.2 Mục đích áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm là một biện pháp ngăn chặn độc
lập trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Bộ luật TTHS, do đó biện
pháp này cũng mang đầy đủ mục đích của biện pháp ngăn chặn nói chung. Bao gồm: Kịp
thời ngăn chặn tội phạm; ngăn chặn bị can, bị cáo gây khó khăn cho hoạt động điều tra,

truy tố, xét xử; không để cho bị can, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội và đảm bảo
thi hành án. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy mục đích cụ thể và rõ ràng nhất của biện pháp
này là ràng buộc bị can, bị cáo bằng chính số tiền, tài sản của họ nhằm bảo đảm việc thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ, đồng thời tránh tình trạng bị can, bị cáo gây cản trở, khó khăn
cho hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.
2.2. Căn cứ áp dụng
2.2.1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong hoạt động tố tụng hình sự là các biện
pháp do Luật quy định được thực hiện khi xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn kẻ phạm tội
đang có hành vi thực hiện tội phạm, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc gây khó khăn
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Như vậy, ta có thể thấy các
biện pháp ngăn chặn chỉ có thể áp dụng trong những trường hợp cần thiết, không phải áp
dụng cho mọi loại tội phạm.
Pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định chặt chẽ các căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn, nó là những cơ sở pháp lý cho phép người có thẩm quyền áp dụng lần đầu tiên
10
đối với người phạm tội và chỉ khi đáp ứng được các căn cứ quy định thì mới có thể áp dụng
một trong các biện pháp ngăn chặn cụ thể, còn không thỏa mãn thì không được áp dụng tùy
tiện. Sở dĩ như vậy là vì các biện pháp ngăn chặn liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp nên việc áp dụng nó phải đảm bảo các yêu cầu về
quyền dân chủ của công dân, đồng thời đảm bảo mục tiêu của cuộc đấu tranh chống tội
phạm hình sự.
Điều 79 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền
theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau
đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm”. Theo đó, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn gồm có những căn cứ sau:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội,

mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều
quan hệ xã hội là khách thể được Luật Hình sự bảo vệ. Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm,
không để tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi
phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm rất cần thiết và cấp bách.
Vì vậy, Bộ luật TTHS quy định việc kịp thời ngăn chặn tội phạm là một trong các căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn. Căn cứ này thường được áp dụng để bắt người trong những
trường hợp sau:
+ Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có các căn cứ để cho rằng một người nào
đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
(Điểm a Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003)
+ Bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm
(Khoản 1 Điều 82 BLTTS năm 2003)
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử: Việc bị can, bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án cũng như quản lý giám sát được bị can, bị cáo về con người hay hành vi của họ
11
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Nếu bị can, bị cáo trốn
tránh hoặc có những hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì việc
xác định sự thật khách quan của vụ án sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Bộ luật TTHS
quy định khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử là một trong các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Đối tượng áp dụng căn cứ này
thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang còn áp dụng đối với những người chưa bị khởi tố khi có căn cứ để cho rằng họ
sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm như bỏ trốn, làm giả chứng cứ hoặc
tiêu hủy chứng cứ, sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm với nhau nhằm trốn
tránh pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại…
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội: Đối với bị can, bị
cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp cách ly họ với xã hội hoặc
hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục phạm tội là rất cần thiết. Những căn cứ
chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội có thể xác định trên những phương diện sau:

+ Về nhân thân bị can, bị cáo: Bị can, bị cáo là những đối tượng có nhân thân xấu
hay đã có nhiều tiền án tiền sự hay thuộc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp. Ví dụ: Bị cán, bị cáo là những phần tử lưu manh; sống bằng nghề trộm cắp, lừa
đảo…
+ Về tình trạng cư trú. Ví dụ: Đối tượng có nơi cư trú không rõ ràng thường tìm
cách trốn tránh.
+ Sự ràng buộc của gia đình, tổ chức, nghề nghiệp…
+ Về hành vi của bị can, bị cáo: có thể có những hành vi như đe dọa trả thù người tố
giác, người bị hại, người làm chứng; đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện hoặc các điều
kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm và xét thấy họ có khả năng thực hiện sự đe dọa
đó.
Khi xem xét các tình tiết trên thì cơ quan có thẩm quyền cần phải phân tích tổng hợp
để tránh suy đoán chủ quan và không nhầm hiện tượng với bản chất.
Lưu ý là khi áp dụng căn cứ này cần phân biệt với căn cứ “Để kịp thời ngăn chặn
tội phạm”. Cả hai đều nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa
12
hai căn cứ này là: “ để kịp thời ngăn chặn tội phạm” được áp dụng đối với người chưa bị
khởi tố về hình sự đối với hành vi được xác định là lí do dẫn đến việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với họ, còn “để ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội” chỉ được
áp dụng với các bị can, bị cáo khi có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội.
- Đảm bảo thi hành án: Thi hành án là giai đoạn quan trọng của TTHS nhằm
thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Thi hành các bản án
hoặc quyết định của Tòa án có liên quan trực tiếp đến người bị kết án. Sự có mặt của người
bị kết án khi bản án được thi hành là rất cần thiết đặc biệt là đối với người bị Tòa án quyết
định áp dụng hình phạt tù. Nếu người bị kết án trốn tránh hoặc có hành vi gây khó khăn thì
việc thi hành sẽ không đạt kết quả. Do vậy, Bộ luật TTHS quy định để bảo đảm thi hành án
trong các trường hợp nhất định là căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Tòa án thường áp
dụng căn cứ này trong những trường hợp sau:
+ Đối với bị cáo không bị tạm giam nhưng bị Hội đồng xét xử của Tòa án cấp sơ
thẩm kết tội, tuyên hành phạt tù mà có căn cứ cho rằng nếu không hạn chế tự do của bị cáo

thì bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, HĐXX có thể quyết định bắt tạm giam bị
cáo ngay tại phiên tòa để bảo đảm thi hành án;
+ Đối với bị cáo không bị tam giam nhưng bị HĐXX của Tòa án cấp phúc thẩm
tuyên hình phạt tù thì HĐXX ra quyết định bắt tạm giam ngay để bảo đảm thi hành án, trừ
trường hợp bị cáo có lí do để hoãn thi hành án phạt tù.
2.2.2. Căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và thực hiện
nhiệm vụ của TTHS, pháp luật TTHS cho phép các cơ quan Tố tụng, người tiến hành Tố
tụng áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết, trong đó có biện pháp đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm, theo đó cơ quan, người có thẩm quyền phải cân nhắc lựa chọn áp
dụng biện pháp này với biện pháp bảo lĩnh. Để có thể làm được điều đó, trách nhiệm của
cơ quan có thẩm quyền là phải đưa ra những căn cứ xác đáng để bảo đảm đúng quy định
của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Điều 76 Bộ luật TTHS năm 1988 chỉ quy định đối tượng áp dụng là người nước
ngoài bị khởi tố, truy tố mà không nêu rõ căn cứ về nội dung nên dẫn đến nhận thức rất
13
khác nhau. Còn Điều 93 Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ nêu có thể cho bị can, bị cáo đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Vì vậy, có thể hiểu
biện pháp này chỉ áp dụng cho bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng nhưng vì yêu cầu chính trị và chính sách đối ngoại của nhà nước mà không áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, biện pháp này được áp
dụng khi không đủ căn cứ tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc bảo lĩnh thì không thể bảo
đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập. Khoản 1 Điều 93 Bộ luật TTHS năm
2003 quy định. Việc phân tích, giải thích Điều 93 không nên chỉ căn cứ vào câu chữ mà
phải hiểu theo cả tinh thần và điều văn. Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát căn cứ
để áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo Điều 93 BLTTHS bao
gồm:
- Bị can, bị cáo không có căn cứ thuộc diện đối tượng tam giam nhưng có căn
cứ để cho thấy rằng bị can, bị cáo có thể gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án: Trong trường hợp này bị can, bị cáo không có hành vi cố tình chống lại, đối

phó với hoạt động tiến hành tố tụng. Mức độ gây khó khăn thường là không có mặt khi
được triệu tập làm cho việc tiến hành tố tụng bị gián đoạn, kéo dài, ảnh hưởng tới thời hạn
điều tra, truy tố theo luật định.
- Dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khi
đánh giá căn cứ này, các chủ thể tiến hành tố tụng dựa vào tội danh, loại tội phạm mà bị
can, bị cáo thực hiện để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Căn cứ này
chủ yếu dựa theo quy định của pháp luật để đánh giá
- Xem xét nhân thân của bị can, bị cáo: Trên thực tế, chưa có văn bản pháp luật
quy định như thế nào là nhân thân tốt, xấu của người phạm tội do đó căn cứ này chủ yếu
dựa vào cảm tính cũng như kinh nghiệm thực tế của người tiến hành tố tụng để suy đoán.
Bên cạnh đó, việc suy đoán còn dựa vào việc tìm hiểu các mối quan hệ, tiếp xúc với bị can,
bị cáo; thông tin từ gia đình, bạn bè, địa phương của bị cáo và một số nguồn thông tin
khác. Tuy nhiên, việc áp dụng căn cứ này cho thấy sự hạn chế, còn nhiều thiếu sót mà Pháp
luật nên quy định.
14
- Xem xét tình trạng tài sản của bị can, bị cáo: Đây là một căn cứ quan trọng
quyết định đối với việc có nên áp dụng biện pháp này với bị can, bị cáo hay không. Vì nếu
căn cứ này không thỏa mãn thì không thể áp dụng được bởi vì Luật yêu cầu khi bị can, bị
cáo thực hiện biện pháp này phải có một khoản tiền, tài sản nhất định để cơ quan có thẩm
quyền xem xét. Việc áp dụng căn cứ này phụ thuộc quan trọng nhất vào tiêu chí đánh giá là
bị can, bị cáo chứng minh được tình trạng tiền, tài sản của mình đủ để thực hiện biện pháp
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Dự vào quy định của điều luật ta thấy các căn cứ áp dụng của biện pháp đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn mang tính khái quát cao, chưa cụ thể. Khi cơ quan có
thẩm quyền áp dụng thì chỉ áp dụng những căn cứ này dẫn đến một thực trạng là việc đánh
giá mang tính chủ quan, phụ thuộc rất nhiều vào người, cơ quan có thẩm quyền, có thể dẫn
đến duy ý chí, Luật đã gián tiếp trao quyền này về cho người, cơ quan có thẩm quyền dẫn
đến việc không thống nhất, áp dụng tùy tiện. Hơn nữa, trong xã hội nước ta còn có nhiều
người nghèo, người không có điều kiện nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, nếu áp dụng
những căn cứ trên, trong thực tế sẽ xảy ra nhiều vấn đề phức tạp. Theo đó, người giàu,

người có điều kiện sẽ được tại ngoại, người nghèo, người không có điều kiện vì không có
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sẽ bị bắt giữ, tạm giam…Như vậy, vấn đề tồn tại ở
đây là thiếu sự công bằng của pháp luật, kéo theo hệ quả những người xấu sẽ lợi dụng vào
kẽ hở đó mà thực hiện những hành vi xấu cho xã hội. Ngoài ra, số lượng, chất lượng, mức
phạt của tiền và tài sản cũng là một vấn đề phức tạp mà pháp luật cần phải xem xét lại khi
xử lý các trường hợp cụ thể.
3. Đối tượng áp dụng của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
So với BLTTHS năm 1998 thì đối tượng áp dụng của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm trong BLTTS năm 2003 mở rộng áp dụng biện pháp này với công dân
Việt Nam. Về vấn đề này, chúng ta nhận thấy đã có sự công bằng trong ý tưởng và quan
điểm giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp
của nhà nước, đây là một quy định đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, không phải
bất kì bị can, bị cáo nào cũng được Nhà nước cho phép áp dụng biện pháp này mà còn phải
dựa trên những căn cứ nhất định. Như vậy, theo quy định của BLTTHS hiện hành thì nhân
15
thân của bị can, bị cáo sẽ không là đối tượng áp dụng của biện pháp này. Song, trong thực
tế thì Bộ luật TTHS vẫn chưa quy định cụ thể, chặt chẽ các điều kiện đối với người phạm
tội để được bảo đảm, nhất là về tính chất loại tội phạm, nhân thân người phạm tội, trách
nhiệm của người phạm tội…Tuy đây là một quy định có phần mở rộng diện đối tượng áp
dụng nhưng khi ban hành văn bản hướng dẫn nên đưa nội dung này vào và quy định một
cách cụ thể, chi tiết hơn.
4. Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm
4.1. Thẩm quyền áp dụng
Trong PLTTHS thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn được hiểu là quyền hạn và
nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có quyền
quyết định áp dụng, thay thế, hủy bỏ một trong các biện pháp ngăn chặn cụ thể.
Tại Khoản 2 Điều 93 BLTTHS năm 2003 quy định “Những người quy định tại
khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền
ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Quyết định của những

người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.
Khoản 1 Điều 80 BLTTHS quy định gồm những chủ thể sau:
A) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp;
B) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
C) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao; Hội đồng xét xử;
D) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này,
lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 còn quy định Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa cũng có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
16
Như vậy, so với BLTTHS năm 1998 thì BLTTHS năm 2003 đã quy định hoàn thiện
hơn, cụ thể hơn, chỉ rõ người có thẩm quyền là người có chức danh nào để xác định rõ
trách nhiệm.
4.2. Thủ tục áp dụng
Tại Điều 93 BLTTHS năm 2003 có quy định “Trình tự, thủ tục áp dụng thực hiện
theo quy định của pháp luật” như vậy có thể thấy về vấn đề này pháp luật quy định như thế
nào thì cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất.
Việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải có quyết
định của cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp cơ quan điều tra ra quyết định thì phải có sự
phê chuẩn trước của Viện kiểm sát cùng cấp. Đây là quy định đảm bảo sự khách quan trong
việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm.
Khác với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lĩnh. Khi áp dụng biện pháp này
phải lập thành biên bản theo Khoản 3 Điều 93 BLTTHS năm 2003. Nội dung biên bản phải
ghi rõ số tiền, tên và tình trạng tài sản được đặt, người đặt tiền, tài sản được giao một bản.
Việc quy định về thủ tục lập biên bản là một thủ tục cần thiết và quan trọng. Đây là căn cứ
pháp lý quan trọng chứng minh được bị can, bị cáo đã đặt số tiền hoặc tài sản bao nhiêu,
đồng thời có tính chất ràng buộc trách nhiệm của bị can, bị cáo thực hiện theo nghĩa vụ do

pháp luật quy định.
Việc quy định thủ tục rõ ràng, trình tự khoa học sẽ góp phần hạn chế những phát
sinh không mong muốn, là cơ sở để xem xét, giải quyết các thắc mắc, khiếu nại của bị can,
bị cáo nếu họ có yêu cầu. Do vậy thủ tục là vấn đề quan trong và cốt lõi nhất trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn.
4.3. Thời hạn áp dụng
Mặc dù thời hạn áp dụng là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng vì nó xác định khoảng
thời gian trong đó người bị áp dụng phải chịu sự ràng buộc của pháp luật, sự hạn chế nhất
định về quyền đồng thời còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của người đặt tiền
và tài sản có giá trị để bảo đảm nhưng Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định thời hạn áp
dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là bao lâu và thời điểm chấm dứt
là khi nào. Do Luật không quy định cụ thể nên dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau như sau:
17
- Thời hạn áp dụng bắt đầu từ khi công bố văn bản áp dụng, kéo dài suốt cả
quá trình tiến hành tố tụng đến khi bản án có hiệu lực pháp luật;
- Cơ quan nào ra quyết định áp dụng biện pháp này thì thời hạn áp dụng là thời
hạn tiến hành tố tụng mà cơ quan đó thực hiện;
- Nghĩa vụ của người đặt tiền hoặc tàn sản có giá trị để bảo đảm xuất hiện từ
lúc việc đặt tiền hoặc tài sản đó được chấp thuận và chấm dứt khi giai đoạn xét xử kết thúc.
- Thời hạn áp dụng tùy thuộc từng giai đoạn tiến hành tố tụng gắn với cơ quan
tiến hành tố tụng.
Vì có nhiều cách hiểu khác nhau như trên nên khi áp dụng thời hạn rất lúng túng, có
nhiều quan điểm và cách làm khác nhau.
Tuy là biện pháp ngăn chặn không được áp dụng nhiều trong thực tế nhưng rõ ràng
đây là một thiếu sót của Luật mà các cơ quan có thẩm quyền cần phải lưu tâm.
5. Giá trị tiền, tài sản và việc quản lý tiền, tài sản do bị can, bị cáo đặt
Tại Khoản 5 Điều 93 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trình tự, thủ tục, mức tiền
hoặc giá trị tài sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền
hoặc tài sản đã đặt được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, các nội dung
nêu trên cho đến nay vẫn là quy định chung chung, chỉ quy định “tài sản có giá trị”, chưa

cụ thể và chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất. Vì Luật hiện hành không quy định cụ thể
giá tiền, tài sản cần phải đặt nên thẩm quyền quyết định thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng nhưng căn cứ để xác định giá tiền, tài sản thì chưa có sự thống nhất. Cụ thể:
- Về mức tiền, số lượng tài sản đặt để bảo đảm: Ở đây cần xác định rõ tài sản
là những vật gì, giá trị như thế nào, tiền là bao nhiêu? Các loại giấy tờ chứng nhận quyền
sở hữu, giấy xác nhận là cổ đông…có được mang ra đặt không. Có ý kiến cho rằng phải
căn cứ vào tính chất của tội phạm để quyết định số lượng tiền và tài sản phải đặt. Quan
điểm khác lại cho rằng phải căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân của bị can, bị cáo và
khả năng tài sản để quyết định số lượng tiền, tài sản cần phải đặt. Một quan điểm nữa lại
cho rằng có thể thông qua mức lương hàng tháng để quyết định số lượng tiền, tài sản cần
phải đặt. Hay một quan điểm khác lại nói cần phải căn cứ vào mức độ thiệt hại do bị can, bị
cáo gây ra…
18
- Về thủ tục thẩm định tài sản của bị can, bị cáo: Thủ tục này là một thủ tục
khó thực hiện trên thực tế bởi vì không thể yêu cầu bị can, bị cáo khai báo mình có tất cả
bao nhiêu tiền và tài sản. Ngoài ra có những bị can, bị cáo không chỉ gây thiệt hại về vật
chất mà còn gây thiệt hại về tinh thần cho người bị hại thì thủ tục giám định thiệt hại như
thế nào cũng không được quy định rõ trong Luật.
- Về thủ tục hoàn trả lại tiền, tài sản: Khi thời hạn áp dụng đã hết thì vấn đề
này được đặt ra, quy định trong thời gian bao nhiêu ngày, có những thao tác cụ thể nào từ
cơ quan tiến hành tố tụng Luật cũng không nói rõ. Điều này có thể dẫn đến việc mất lòng
tin của bị can, bị cáo vào cơ quan có thẩm quyền.
- Về thủ tục sung công quỹ: Trình tự ra sao, thủ tục giữ gửi tài sản như thế nào,
ai tham gia, bao gồm những hành vi nào…Luật cũng không quy định rõ. Chiếu theo các
quy định của pháp luật về thủ tục sung công quỹ có quy định tại 40 Luật tịch thu tài sản và
Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về vấn đề sung công quỹ nhưng lại không
đề cập đến thủ tục sung công quỹ đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Còn Công văn số 319/TA của Tòa án Quân sự Trung ương, hiện nay đã và đang áp
dụng cho biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cũng không quy định rõ nội
dung chi tiết như trình tự thế nào, ai là người trực tiếp thực hiện. Việc sung công quỹ tiền,

tài sản của bị can, bị cáo là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với bị can, bị cáo đặc biệt
là vấn đề về quyền sở hữu nhưng Luật lại không quy định rõ ràng, đây quả là một vấn đề
khúc mắc chưa được giải quyết trong Luật cần phải làm rõ.
- Về trình tự áp dụng: Điều Luật cũng không nêu rõ cụ thể trình tự như thế
nào, cách thức ra sao, việc chứng minh tiền và tài sản được thực hiện như thế nào, ai có
nghĩa vụ chứng minh, việc thẩm định tài sản do cơ quan nào phụ trách, thủ tục ra sao? Tất
cả Luật đều không quy định cụ thể
6. Hậu quả pháp lý khi bị can, bị cáo không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết
Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung
quỹ nhà nước và trong trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác.
19
Trong trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết thì cơ
quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
Quy định này như một sự ràng buộc tích cực cho họ, nếu họ không thực hiện nghĩa
vụ thì sẽ bị mất tiền, tài sản và ngược lại, nếu họ thực hiện đúng nghĩa vụ thì số tiền, tài sản
sẽ được hoàn trả mà bị can, bị cáo không bị tạm giam. Như vậy, về bản chất thì biện pháp
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là việc bị can, bị cáo mang tiền hoặc tài sản của
mình cho cơ quan tiến hành tố tụng để đổi lấy sự tự do đi lại, tự do thân thể của bản thân
đồng thời cam kết với cơ quan tiến hành tố tụng về sự có mặt của bị can, bị cáo trong các
giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, một điều tồn tại ở đây là khi cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng biện pháp này thì không thể đồng thời áp dụng thêm biện pháp ngăn chặn nào khác.
Do đó, dẫn đến việc bị can, bị cáo có thể trốn khỏi lãnh thổ Việt Nam thì mục đích của biện
pháp này không đạt được. Vì vậy, Luật cần phải có thêm một biện pháp bổ sung đi kèm với
biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm nhằm đảm bảo sự có mặt của bị can, bị
cáo khi được triệu tập.
II. Lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm.
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988

Sau cách mạng tháng Tám, đất nước ta đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách, hai
vấn nạn lớn nhất của ta lúc bấy giờ là giặc đói và giặc dốt cần được giải quyết, bên cạnh
việc chống thù trong và giặc ngoài. Trước tình hình đó, việc xây dựng một hệ thống pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà đặc biệt về TTHS là khó có thể thực hiện một
cách toàn diện được.
Nhìn lại lịch sử lập pháp của nước ta, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành một số
văn bản, trong số đó có Sắc lệnh số 23 ngày 21/2/1946 là văn bản đầu tiên ghi nhận việc
bắt người, tạm giữ, tạm gia như những biện pháp hữu hiệu nhất để chống lại các phần tử
phản cách mạng. Theo đó, Việt Nam Công an vụ được thành lập, có chức năng bảo vệ an
ninh trật tự, tiến hành các hoạt động cần thiết như bắt người, tạm giữ, tạm giam với mục
đích kịp thời ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi phạm tội. Lúc này pháp luật vẫn chưa
đề cập gì đến biện pháp bảo lĩnh hay đặt tiền và tài sản để bảo đảm.
20
Sau năm 1954, miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhằm đáp
ứng tình hình mới, tại kỳ họp khoá 6 Quốc hội khoá 1 đã xác định phương hướng, vấn đề
cốt lõi và mục đích ban hành pháp luật có liên quan đến quyền tự do dân chủ là: một mặt là
phải đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân, mặt khác phải thực hiện đầy đủ chuyên
chính đối với kẻ thù của nhân dân. Theo đó, Sắc lệnh số 103/SL – 005 công bố ngày
20/5/1957, trong đó quy định về bắt người, tạm giam, tạm tha. Theo quy định của Sắc lệnh
này, chế đinh tạm tha là một quy định mang tính chất gần giống với biện pháp cho bảo lĩnh
ngày nay. Ta nhận định rằng, chế định tạm tha theo quy định của sắc lệnh 103/SL – 005
ngày 20/5/1957 là văn bản pháp luật tố tụng đầu tiên có quy định về việc can phạm tại
ngoại. Sắc lệnh không quy định thế nào là tạm tha nhưng nếu các căn cứ để tạm giam
không còn nữa, hoặc can phạm tại ngoại sẽ không ảnh hưởng đến quá trình điều tra thì cơ
quan tư pháp, Toà án sẽ tự mình ra quyết đinh cho can phạm tại ngoại. Dĩ nhiên, khi được
tạm tha, can phạm vẫn không thay đổi tư cách pháp lý, họ vẫn là bị can, bị cáo trong vụ án
và hành vi vi phạm của họ vẫn được điều tra và xử lý. Ngoài những điểm giống với biện
pháp bảo lĩnh ngày nay, nếu đối chiếu thêm với Điều 93 Bộ luật TTHS 2003, ta thấy quy
định về tạm tha và biện pháp đặt tiền để bảo đảm có những nét giống nhau, tuy quy định về
tạm tha không đề cập đến tiền, tài sản để đảm bảo cho việc tại ngoại nhưng về căn cứ, cả

hai đều là những biện pháp được áp dụng để thay thế cho biện pháp tạm giam. Tuy nhiên
quy định này còn quá đơn giản, chưa có những quy định mang tính ràng buộc cũng như
không có ý nghĩa ngăn chặn hay đề phòng họ cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà
đó chỉ là những đặc điểm mang tính tiền đề để nghiên cứu, phát triển các biện pháp ngăn
chặn không giam giữ sau này. Từ đó cho thấy, thời kỳ này, quy định để đặt tiền và tài sản
có giá trị để bảo đảm chưa được đề cập đến.
Lúc này bên cạnh những văn bản pháp luật do Chính phủ Việt Nam ban hành, để
duy trì và bảo vệ chính quyền của mình, Chính phủ Việt Nam Cộng hoà cũng đã ban hành
Bộ luật hình sự tố tụng năm 1972, trong đó tại Điều 146, Phụ tiết 2, Chương 1, Thiên 3 quy
định về tạm giam có đề cập đến tiền bảo chứng, xem nó như điều kiện để được tự do. Tiền
bảo chứng không những được dùng khi chấm dứt sự tạm giam mà còn được dùng cả khi bị
can chưa bị tống giam. Tiền bảo chứng sẽ phải hoàn lại cho bị can nếu y được miễn tố hay
21
tha bổng, ngược lại nếu y không đến hầu một khi có lệnh đòi hay bất tuân các nghĩa vụ
trong biện pháp kiểm soát tư pháp và không thi hành án Toà tiền bảo chứng sẽ sung vào
công quỹ. Thẩm phán phải ghi điều này trong phần dẫn lý và truyền tịch thu phần bảo
chứng này sau khi kết phạt. Căn cứ vào các quy định nêu trên, có thể thấy, bộ luật hình sự
tố tụng 1972 của chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã có quy định về tiền bảo chứng là một
trong các biện pháp kiểm soát tư pháp, về bản chất việc dùng tiền bảo chứng là nhằm đổi
lấy sự tại ngoại tránh bị tạm giam. Mục đích áp dụng là nhằm bảo đảm sự có mặt của bị
can khi có lệnh trình diện (giấy triệu tập). Thời gian áp dụng do Thẩm phán, dự thẩm quyết
định áp dụng bất kỳ lúc nào trong suốt thủ tục tố tụng, trước hoặc đang bị tạm giữ. Nghĩa là
trước khi bị tạm giam, họ có quyền đặt tiền bảo chứng để không bị tạm giam hoặc sau khi
tạm giam, họ dùng tiền để được tự do. Tiền bả chứng được sử dụng như một khoản kinh
phí phát sinh trong thời gian thụ lý vụ án, dùng để bồi thường thiệt hại, các nghĩa vụ dân sự
khác có liên quan. Nếu bị phạt tiền, cơ quan tố tụng cũng có quyền sử dụng khoản tiền đó
để thi hành án. Như vậy, biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm đã xuất hiện trong luật,
dù tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung về bản chất, chế định này được quy định khá rõ
ràng. Tuy nhiên, do đây là điều luật do chính phủ Việt Nam Cộng hoà ban hành thể hiện ý
chí của giai cấp cầm quyền đối lập với chính phủ Việt Nam nên những quy định này không

được xem là pháp luật của Việt Nam. Nhưng cũng không thể phủ nhận tiền bảo chứng
được quy định trong bộ luật hình sự tố tụng 1972 của chính quyền Việt Nam Cộng hoà là
một chế định tiến bộ, là tiền đề cho việc quy định chế định đặt tiền hoặc tài sản của pháp
luật Việt Nam sau này.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, đứng trước tình hình pháp luật hai miền
Nam Bắc có những quy định khác nhau, ngày 2/7/1976 Quốc hội xác định cần phải xây
dựng một hệ thống pháp luật áp dụng chung trên phạm vi cả nước. Ngày 28/6/1988, Quốc
hội đã thông qua Bộ luật TTHS đầu tiên của Việt Nam mà trong đó chế định đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm được quy định là một trong các biện pháp ngăn chặn độc lập.
2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003
22
Sau 13 năm nghiên cứu và soạn thảo, Ba dự thảo Bộ luật TTHS đã đệ trình Quốc
hội và ngày 28/6/1988 Quốc hội khoá 8 đã chính thức thông qua. Theo đó, tại điều 76 Bộ
luật TTHS năm 1988 quy định về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo như sau:
1- Đối với bị can hoặc bị cáo là người nước ngoài thì cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Toà án có thể cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt theo giấy
triệu tập.
Quyết định của cơ quan điều tra về việc cho đặt tiền hoặc tài sản phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
2- Phải lập biên bản về việc đặt tiền hoặc tài sản và giao cho bị can hoặc bị cáo
một bản. Biên bản phải ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được đặt.
3- Trong trường hợp bị can hoặc bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng theo
giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án thì số tiền hoặc tài sản đó bị
sung quỹ Nhà nước.
Theo quy định này thì đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm được hiểu là hình thức bảo
lĩnh bằng tiền đối với người nước ngoài, biện pháp ngăn chặn này được quy định dưới
dạng qui phạm lựa chọn, có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo là người nước ngoài
mà cũng có thể là không, luật quy định như vậy nhằm mục đích thực hiện chính sách ngoại
giao với các nước nhưng không phải tất cả các đối tượng là người nước ngoài đều được áp
dụng biện pháp đặt tiền khi thực hiện tội phạm, họ vẫn có thể bị giam. Điều luật cũng quy

định tương đối rõ ràng về trình tự, thủ tục, chủ thể áp dụng mà quy định dùng chung,
không giới hạn tội phạm mà họ thực hiện có mức độ nghiêm trọng như thế nào. Tài sản
được nêu trong điều luật mang tính khái quát, đơn giản không ghi nhận là tài sản gì, có giá
trị như thế nào. Mặc dù bộ luật TTHS 1988 lần đầu tiên ghi nhận và quy định chế định này
vào trong luật nhưng cần phải nhìn nhận, thời kỳ này việc quy định biện pháp đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bả đảm là một quy định tiến bộ, phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
23
III. Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự một số
nước trên thế giới
Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một quy định tương đối phổ
biến trên thế giới. Tuy tên gọi ở mỗi nước có khác nhau nhưng nhìn chung biện pháp này
đều được các nước ghi nhận là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Các quốc
gia phát triển, những nước có bề dày lịch sử và kinh nghiệm lập pháp đều ghi nhận và quy
định biện pháp này vào trong luật. Một số nước quy định là biện pháp bảo lĩnh, tại ngoại,
một số nước quy định là biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Việc tìm
hiểu, đối chiếu quy định về biện pháp này của các quốc gia khác nhau giúp chúng ta có
thêm nhiều thông tin; trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự các nước
về biện pháp đặt tiền, chúng ta sẽ lựa chọn, rút ra những điểm hay, tiến bộ và qua đó lựa
chọn những quy định phù hợp để hoàn thiện chế định đặt tiền trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam trong thời gian tới .
• Ở Nga, biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được quy đinhk tại Điều
106 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga năm 2001. Theo điều này thì đối tượng áp
dụng có thể là người bị tình nghi thực hiện tội phạm, bị can đã bị khởi tố, ngoài ra những
thế nhân, pháp nhân cũng có thể đặt tiền để được tại ngoại. Luật quy định việc đặt tiền
nhằm bảo đảm sự có mặt của họ khi được triệu tập và phòng ngừa họ thực hiện tội phạm
mới. Điều luật này không quy định hình thức và mức tiền cụ thể, tuy nhiên hình thức đặt
như thế nào và bao nhiêu, pháp luật trao quyền cho người có thẩm quyền quyết định dựa
vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can,
người bị tình nghi. Biện pháp ngăn chặn này được áp dụng ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào.
Ngoài ra, ở Nga còn có quy định cho đặt tiền để được giam giữ tại nhà. Bên cạnh đó, pháp

luật còn cho phép những người khác khi họ có điều kiện về tài chính bảo đảm cho việc đặt
tiền để bảo lĩnh người bị tình nghi, bị can tại ngoại, họ sẽ đứng ra bảo lĩnh thay, đương
nhiên luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của họ đối với nguười bị tình nghi, bị can mà
họ nhận bảo lĩnh, họ sẽ chịu trách nhiệm trước cơ quan Công tố, Tòa án về nghĩa vụ đã
cam đoan.
24
Về hậu quả pháp lý người bị tình nghi, bị can không thực hiện nghĩa vụ đã cam
đoan thì số tiền đã đặt bị sung quỹ Nhà nước theo quyết định của Tòa án. Quy định này so
với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về cơ bản giống nhau, nhưng ở Nga pháp luật trao
quyền hạn cho tòa án ra quyết định tịch thu công quỹ. Do cùng ảnh hưởng của hệ thống
pháp luật XHCN nên phần nào chế định về biện pháp đặt tiền của Việt Nam và Nga có
điểm tương đồng với nhau. Về tên gọi hoàn toàn giống nhau, nhưng đi sâu vào phân tích
thì chế định này ở Nga có những quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn về mặt thủ tục, tuy nhiên
cũng còn nhiều nội dung cần so sánh nghiên cứu thêm.
• Ở Mỹ, pháp luật không quy định là đặt tiền, tài sản để bảo đảm như ở Việt Nam mà
quy định là biện pháp bảo lĩnh. Theo đó, người bị bắt về hình sự sẽ đóng một khoản tiền
thế chân hay những vật thế chấp cho Tòa án để được tại ngoại hầu tra, nếu người này
không ra Tòa án thì số tiền này sẽ mất, và Tòa án sẽ ra lệnh truy nã để bắt họ. Người bị bắt
có thể đóng số tiền này cho Tòa án , nếu họ ra Tòa thì họ sẽ không mất số tiền thế chân.
Ngoài ra nếu không đủ tiền đóng, người bị bắt có thể đóng một số tiền nhỏ, khoảng 10%
cho dịch vụ bảo lĩnh thông qua hợp đồng bảo lĩnh (bail bond). Dịch vụ này sẽ đứng ra
đóng số tiền thế chấp cho Tòa và số tiền 10% sẽ thuộc về dịch vị bảo lĩnh nếu người này ra
hầu Tòa. Mỗi quận có quy định tiền thế chân tùy theo tội hình, tiền bảo lĩnh chủ yếu được
tính dựa trên tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm mà họ thực hiện. Ngoài ra, quan
Tòa còn dựa vào những yếu tố như người đã bị bắt đã từng trốn không ra hầu Tòa, ngay cả
trong những vụ phạt vi cảnh, những tiền án mà họ đã có hay những liên hệ của họ trong
cộng đồng mà xem xét mức tiền đóng bảo lĩnh. Có những trường hợp người bị bắt được thả
mà không cần đóng tiền thế chân vì dựa vào hạnh kiểm của họ, quan tòa tin rằng họ sẽ ra
hầu Tòa.
Theo quy định tại điều 132 bộ luật tố tụng hình sự Đức, thì một người bị nghi ngờ là đã

thực hiện tội phạm mà không có nơi ở cố định hoặc nơi thường trú trong phạm vi lãnh thổ
mà bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực và các căn cứ cho việc ra lệnh bắt giam không được
thỏa mãn thì thẩm phán có thể ban hành một quyết định nhằm đảm bảo thủ tục tố tụng hình
sự được tiến hành đối với người bị áp dụng,cụ thể là buộc họ nộp một khoản tiền đủ cho
25
tiền phạt có thể được tuyên và án phí. Trong trường hợp bị cáo không thực hiện theo nghĩa
vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án thì số tiền đã đặt sẽ bị tịch thu. Trong trường hợp
khẩn cấp, cơ quan công tố cũng có quyền ra quyết định cho tại ngoại qua hình thức bảo
lĩnh bằng tiền .
• Ở Nhật luật không quy định thành biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm như Nga và Việt Nam. Khoản 1 điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản 1991 quy
định “ Khi các căn cứ, sự cần thiết để tạm giam không còn nữa thì tòa án theo yêu cầu của
công tố viên, bị cáo đang bị tam giam hoặc luật sư bào chữa của họ, người đại diện hợp
pháp, người phụ trách, vợ hoặc chồng, người thân, anh, chị, em của bị cáo hoặc tự mình
hủy bỏ việc tạm giam bằng một quyết định”. Luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định một
cách chặt chẽ biện pháp bảo lĩnh, đây là một quy định tiến bộ được áp dụng phổ biến ở
Nhật Bản. Theo quy định thì khi có đơn yêu cầu cho phép bảo lĩnh thì công tố viên, thẩm
phán phải giải quyết cho bị cáo được bảo đảm. Luật quy định các trường hợp không được
áp dụng biện pháp bảo lĩnh tương đối cụ thể và rõ ràng, cụ thể là trừ một số loại tội có cùng
hình phạt lên đến tử hình hoặc có đủ căn cứ để nghi ngờ rằng bị cáo có thể hủy chứng cứ.
Bị cáo hoặc người thân của họ đều có quyền đứng ra dùng tiền để bảo lĩnh tại ngoại, chỉ có
tòa án mwosi có quyền quyết định việc cho bảo lĩnh hay không trước khi tham khảo ý kiến
của công tố viên. Khi quyết định cho bảo lĩnh thì tòa án xác định số tiền bị cáo sẽ đặt ra
bao nhiêu, khoản này đủ để bảo đảm sự có mặt của bị cáo, có xem xét đến bản chất của vụ
án và các tình tiết khác có liên quan đến hoạt động phạm tội của bị cáo, cũng như chứng cứ
chống lại người đó, có xem xét đến đạo đứa, hạnh kiểm và khả năng tài chính của họ. Khi
được bảo lĩnh, bị cáo còn có thể bị hạn chế đi lại trong một phạm vi nhất định. Ở Nhật, luật
quy định không nhất thiết phải là bị cáo mới có quyền bảo lĩnh, tòa án có thể cho phép một
người không phải là bị cáo được tòa thừa nhận là hợp lý đệ trình các séc có thể đổi thành
tiền mặt hoặc giấy bảo đảm để thay thế cho khoản tiền bảo lĩnh. Về hậu quả pháp lý mà bị

cáo phải chịu khi không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết như là:
- Bị cáo không có mặt mà không có lý do chính đáng khi đã được triệu tập.
- Bị cáo đã bỏ trốn hoặc có những căn cứ đủ nghi ngờ ràng bị cáo có thể bỏ trốn.

×