MỤC LỤC
113
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASOSAI : Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (Asian
Organization of Supreme Audit Institutions)
BCĐKT : Bảng cân đối kế toán
BCKQHĐKD : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
BCLCTT : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
BCTC : Báo cáo tài chính
CPSXKDDD : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNXL : Doanh nghiệp xây lắp
HTKSNB : Hệ thống kiểm soát nội bộ
IFAC : Liên đoàn kế toán quốc tế
(International Federation of Accountants)
INTOSAI : Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao
(International Organization of Supreme Audit
Institutions)
KHKT : Kế hoạch kiểm toán
KLXL : Khối lượng xây lắp
KSNB : Kiểm soát nội bộ
KTNN : Kiểm toán Nhà nước
KTV : Kiểm toán viên
NSNN : Ngân sách nhà nước
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCT : Tổng công ty
TMBCTC : Thuyết minh báo cáo tài chính
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
DANH MỤC SƠ ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU
Với Việt Nam hiện nay, phát triển cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đang được quan tâm đặc biệt: Hàng nghìn công trình xây
dựng đang được thực hiện trên cả nước; Chi phí cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm
một tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách nhà nước và ngân sách của doanh nghiệp
Với đặc điểm của nền kinh tế hiện nay cùng với sự phức tạp trong quản lý tài chính
và xây dựng của hoạt động xây lắp dẫn đến nhiều sai phạm nghiêm trọng: Hiện
tượng tham ô, tham nhũng, biển thủ tài sản, xuyên tạc thông tin ngày càng tinh vi và
khó kiểm soát hơn; Việc ngăn ngừa sai phạm, nâng cao khả năng quản lý và điều
hành sản xuất kinh doanh (SXKD) trong doanh nghiệp xây lắp (DNXL) là cần thiết
và cấp bách.
Trên cơ sở làm việc, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về kiểm toán và
nghiên cứu thực tiễn kiểm toán tại các DNXL là các tập đoàn, tổng công ty lớn của
Nhà nước tại Kiểm toán Nhà nước, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Hoàn thiện kiểm
toán báo cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp do Kiểm toán Nhà nước thực hiện”
làm luận văn thạc sỹ của mình, nhằm đề xuất phương hướng và hoàn thiện kiểm
toán BCTC của DNXL do KTNN thực hiện, từ đó góp phần hoàn thiện quy trình và
phương pháp kiểm toán DNXL.
Luận văn sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích-tổng hợp
Phương pháp chọn mẫu, phân tích, đối chiếu, so sánh, quy nạp, tổng hợp…
Luận văn làm sáng tỏ hơn về cơ sở lý luận của kiểm toán BCTC DNXL, mô
tả và phân tích thực trạng kiểm toán BCTC DNXL do KTNN thực hiện. Luận văn
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kiểm toán BCTC DNXL do KTNN thực hiện
sao cho phù hợp với thực tế hoạt động của các DNXL hiện nay, góp phần nâng cao
chất lượng kiểm toán của KTNN và nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn
lực tài chính quốc gia.
i
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
DO KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
Trong phần này, Luận văn trình bày khái quát chung về doanh nghiệp xây lắp bao
gồm: khái niệm về doanh nghiệp xây lắp, đặc điểm hoạt động và đặc điểm sản phẩm
của doanh nghiệp xây lắp, phân tích khái quát về vai trò của doanh nghiệp xây lắp. Ảnh
hưởng của những đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp tới công tác tổ chức, quản lý tài
chính của doanh nghiệp, dẫn đến sự tác động tới kiểm toán BCTC DNXL.
DNXL có đặc thù của sản phẩm xây lắp khác với sản phẩm hàng hóa của các
ngành sản xuất vật chất khác nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động, quá trình
quản lý và vận hành của các doanh nghiệp xây lắp dẫn tới ảnh hưởng tới hoạt động
kiểm toán báo cáo tài chính các DNXL. Cụ thể:
- Do sản phẩm có tính chất riêng lẻ, mỗi sản phẩm là một công trình hoặc
hạng mục có năng lực sản xuất riêng biệt, thiết kế kĩ thuật riêng, nên việc lập dự
toán, tập hợp chi phí, doanh thu phải tính riêng cho từng công trình, hạng mục.
- Do sản phẩm xây dựng có tính cố định, nơi sản xuất gắn với nơi tiêu thụ
sản phẩm, nên luôn phải thay đổi địa điểm thi công xây dựng mỗi công trình. Từ đó
phát sinh nhiều chi phí như: xây nhà tạm, lán trại phục vụ thi công, chi phí vận
chuyển máy móc thiết bị…Dẫn tới việc quản lý tài sản, công cụ dụng cụ về số
lượng và chất lượng rất khó khăn.
- Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn, bao gồm phần ngầm và phần
nổi và có kết cấu phức tạp dẫn tới khó sửa chữa và tiêu tốn chi phí rất lớn.
- Do sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán nên doanh thu thường
được xác định trước khi sản xuất sản phẩm.
- Do sản phẩm xây lắp phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, chính sách
của địa phương nên khi kiểm toán cần phải căn cứ vào chính sách, quy định của từng
địa phương, từng thời điểm cụ thể và những quy định riêng cho mỗi công trình.
- Do sản phẩm xây dựng chủ yếu được tiến hành ngoài trời, chịu ảnh hưởng
rất lớn bởi điều kiện khí hậu, thời tiết, thiên nhiên… Phát sinh nhiều chi phí, nên
khi kiểm toán cần xác định chi phí hợp lý.
ii
Những đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
xây lắp cũng ảnh hưởng rất nhiều tới kiểm toán báo cáo tài chính DNXL. DNXL có
thể là tập đoàn, tổng công ty, công ty có rất nhiều các xí nghiệp, đội trực thuộc để
trực tiếp quản lý và thi công các công trình. Từ những đặc điểm trên thì trong hoạt
động kiểm toán, việc đánh giá mô hình cơ cấu tổ chức quản lý, HTKSNB nói chung
và quy chế KSNB nói riêng của DNXL là hết sức phức tạp và cần thiết.
Tiếp theo Luận văn trình bày khái quát chung về Kiểm toán Nhà nước và
kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp do Kiểm toán Nhà nước thực
hiện. Sự ra đời của KTNN Việt Nam đã đánh dấu một mốc quan trọng cho sự phát
triển ngành kiểm toán của Việt Nam và cũng là sự phát triển của nền kinh tế nước
nhà trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Kiểm toán BCTC do Cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện đưa ra ý kiến
xác nhận về việc BCTC được lập dựa trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện
hành cùng mức độ tuân thủ pháp luật có liên quan và phản ánh mức độ trung thực,
hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Từ đó, xác định mục tiêu, nội dung và đối
tượng kiểm toán trong kiểm toán BCTC DNXL.
Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp nhà nước của kiểm
toán nhà nước
Quy trình kiểm toán BCTC DNNN của KTNN là trình tự tiến hành công việc
của mỗi cuộc kiểm toán, trình tự đó đã được sắp xếp theo thứ tự phù hợp với diễn
biến khách quan của hoạt động kiểm toán, phù hợp với những chuẩn mực kiểm
toán, được quy định áp dụng thống nhất cho các cuộc kiểm toán của KTNN mà mọi
đoàn kiểm toán và KTV Nhà nước phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán, nhằm đảm
bảo chất lượng và hiệu quả của các cuộc kiểm toán.
Quy trình kiểm toán chung của KTNN gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị kiểm toán
Chuẩn bị kiểm toán là công việc đầu tiên của một cuộc kiểm toán nhằm tạo
ra tất cả tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi thực hiện kiểm toán. Đây là công việc
quyết định chất lượng cuộc kiểm toán, bao gồm các công việc chủ yếu sau:
- Khảo sát và thu thập thông tin về đơn vị được kiểm toán;
- Lập kế hoạch kiểm toán;
- Thành lập đoàn kiểm toán.
iii
Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán
Thực hiện kiểm toán là giai đoạn quan trọng, quyết định đến chất lượng và kết
quả của cuộc kiểm toán. Thực hiện kiểm toán là giai đoạn các thành viên đoàn kiểm
toán áp dụng các phương pháp, thủ tục kiểm toán để thu thập các bằng chứng kiểm
toán thích hợp, và đầy đủ và tiến hành đánh giá chúng; từ đó đưa ra các kết luận kiểm
toán và ý kiến tư vấn, kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Tác giả phân tích
chi tiết các phương pháp kiểm toán, thử nghiệm kiểm toán cơ bản, thử nghiệm kiểm
toán tuân thủ, các trắc nghiệm kiểm toán, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư, kĩ
thuật chọn mẫu trong giai đoạn thực hiện kiểm toán BCTC DNXL.
Giai đoạn 3: Lập và gửi báo cáo kiểm toán
Giai đoạn này Tác giả nêu trình tự chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán, soạn thảo
báo cáo, thủ tục xét duyệt dự thảo kiểm toán, hoàn thiện dự thảo báo cáo và phát
hành báo cáo kiểm toán chính thức.
Giai đoạn 4: Kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán
Đây là giai đoạn cuối của quy trình kiểm toán nhằm đảm bảo kết quả kiểm toán
của cuộc kiểm toán được thực hiện đúng và đầy đủ. Đây là bước đặc thù của KTNN,
và chỉ trong quy trình kiểm toán của KTNN mới thực hiện bước công việc này.
iv
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP XÂY LẮP DO KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THỰC HIỆN
Trong chương này, Tác giả khái quát về Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, quá
trình hình thành và phát triển của KTNN Việt Nam, bao gồm: KTNN Việt Nam ra
đời Nghị định Số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, quá trình hoạt động và phát
triển trước và sau khi Luật KTNN ra đời ngày 01/01/2006, cũng như việc xây dựng
và ban hành hệ thống văn bản pháp lập phục vụ cho hoạt động kiểm toán. Kể từ đó
Kiểm toán Nhà nước với vị thế là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính
nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực
hiện chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động
đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước.
Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất, gồm: Bộ máy điều
hành, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực và các đơn
vị sự nghiệp. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của Kiểm
toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước. Số
lượng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành và Kiểm toán Nhà nước khu vực trong
từng thời kỳ được xác định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ do Tổng Kiểm toán Nhà
nước trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Cơ cấu tổ chức của KTNN Việt
Nam được chi tiết theo Sơ đồ 2.1.
Khái quát kết quả kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp do
Kiểm toán Nhà nước thực hiện
Qua kết quả kiểm toán hàng năm (chi tiết theo Báo cáo kiểm toán hàng năm
của KTNN) cho thấy, nhìn chung các đơn vị được kiểm toán đã thực hiện quản lý tài
sản, nguồn vốn theo các chế độ, chính sách của Nhà nước; đã ban hành các quy
định quản lý nội bộ phù hợp với chế độ chính sách Nhà nước hiện hành; chấp hành
tương đối tốt các chế độ tài chính, kế toán Nhà nước quy định; Báo cáo tài chính
được lập tương đối kịp thời; công tác kiểm soát và kiểm toán nội bộ từng bước được
coi trọng và tăng cường.
v
Tuy nhiên, việc chấp hành chế độ quản lý kinh tế nói chung và chế độ quản
lý tài chính, kế toán của các đơn vị được kiểm toán còn nhiều sai sót. Nhiều doanh
nghiệp còn lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, hợp lý. Nhiều doanh nghiệp lãi
nhiều thì báo lãi ít, lỗ thì báo cáo lãi…
Những nhân tố tác động đến kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp
xây lắp do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực hiện
Thứ nhất: Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Nhà nước
KTNN đã ban hành Quyết định 06/2010/QĐ-KTNN ngày 09/11/2010 về
việc ban hành Hệ thống chuẩn mực Kiểm toán Nhà nước thay thế Quyết định
06/1999/QĐ-KTNN ngày 24/12/1999. Theo đó thì Hệ thống chuẩn mực KTNN có 21
chuẩn mực bao gồm tổng thể những quy định về nguyên tắc hoạt động, điều kiện và
yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp, năng lực đối với KTV Nhà nước; quy định về
nghiệp vụ kiểm toán và xử lý các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động kiểm toán
mà KTV Nhà nước phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kiểm toán; là cơ sở để kiểm
tra, đánh giá chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của KTV Nhà nước.
Thứ hai: Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp nhà nước do
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ban hành
KTNN đã xây dựng và ban hành các Quy trình kiểm toán dựa trên quy trình
kiểm toán chung được quy định trong Luật KTNN. Ngày 27/1/2010, Tổng KTNN
đã ra Quyết định Số 02/2010/QĐ-KTNN ban hành Quy trình kiểm toán doanh
nghiệp nhà nước, thay thế cho quy trình cũ nhằm đảm bảo tính thống nhất và phù
hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, việc áp dụng quy trình này vào kiểm toán
BCTC DNXL còn nhiều bất cập do DNXL có những đặc điểm riêng có khác với
các ngành nghề khác.
Thứ ba: Công tác quản lý chất lượng kiểm toán
Quản lý chất lượng kiểm toán được hiểu là một hệ thống các giải pháp nhằm
tác động vào các hoạt động kiểm toán, đảm bảo cho các hoạt động đó được thực
hiện đúng nguyên tắc, quy trình, chuẩn mực kiểm toán phù hợp với yêu cầu và tiêu
thức đã đề ra.
KTNN đã xây dựng và áp dụng những biện pháp kiểm soát kết quả của cuộc
kiểm toán thông qua việc tổ chức kiểm tra chéo giữa các Vụ chức năng và Vụ
chuyên ngành, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các kiểm toán viên với nhau.
vi
Thứ tư: Trình độ, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của KTV
KTV là người trực tiếp thực thi các nghiệp vụ kiểm toán nên trình độ năng
lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của KTV có tác động rất lớn đến chất
lượng của cuộc kiểm toán.
Thứ năm: Những yếu tố thuộc về khách thể kiểm toán
Những yếu tố thuộc khách thể kiểm toán ở đây được hiểu là hệ thống kiểm
soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Các vấn đề như: Có sự hiện diện và hiệu lực
của HTKSNB của đơn vị. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến trọng tâm, quy mô, phạm
vi và phương pháp thực hiện kiểm toán BCTC DNXL. Trên cơ sở của việc đánh giá
HTKSNB để xác định hiệu lực của hệ thống KSNB, trên cơ sở đó đánh giá mức độ
rủi ro kiểm toán đối với từng nội dung kiểm toán.
Thực trạng về đối tượng, mục tiêu và nội dung kiểm toán báo cáo tài
chính doanh nghiệp xây lắp do Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực hiện
Về mục tiêu kiểm toán
Mục tiêu kiểm toán tổng quát của một cuộc kiểm toán BCTC DNXL thì hầu
hết các KTV thường xác định cần đạt được hai mục tiêu sau:
- Xác định tính trung thực, hợp lý của các số liệu trên BCTC. Đây là mục
tiêu bắt buộc trong bất kỳ cuộc kiểm toán BCTC nào.
- Tập hợp các sai phạm đã phát hiện và đưa ra ý kiến kết luận.
Mặc dù việc xác định mục tiêu kiểm toán tổng quát là giống nhau, nhưng
trong từng cuộc kiểm toán thì việc đạt được các mục tiêu kiểm toán đó lại không
giống nhau. Từ mục tiêu kiểm toán tổng quát, KTV triển khai xác định các mục tiêu
chung và mục tiêu là: Hiện hữu, quyền và nghĩa vụ, phát sinh, đầy đủ, tính giá,
chính xác cơ học, trình bày và phân loại; từ đó triển khai các mục tiêu đặc thù cho
mỗi phần hành kiểm toán.
Nhìn chung cơ sở để xác định mục tiêu kiểm toán ở các cuộc kiểm toán
BCTC DNXL là giống nhau. Ngoài ra, do chưa có quy trình kiểm toán BCTC
DNXL nên việc xác định và triển khai để thực hiện các mục tiêu thường gặp khó
khăn, không chủ động. Các đoàn kiểm toán thường xác định mục tiêu chung chứ
không xác định những mục tiêu kiểm toán trọng tâm khi kiểm toán từng khoản mục
vii
bộ phận trên BCTC DNXL. Điều đó làm các KTV bị hạn chế trong sự chủ động và
linh hoạt. Động thời việc xác định nội dung, phạm vi kiểm toán thường không đúng
trọng tâm, thời điểm; các phương pháp kiểm toán không thích hợp hoặc không đầy
đủ, làm ảnh hưởng tới hiệu quả và chất lượng kiểm toán.
Về đối tượng kiểm toán
Đối tượng kiểm toán chính mà các KTV và Đoàn kiểm toán thường xác định
là các BCTC (BCĐKT, BCKQKD, BCLCTT, TMBCTC). Tuy nhiên do đặc điểm
của DNXL có nhiều khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác nên trong việc
xác định đối tượng kiểm toán của kiểm toán BCTC DNXL, KTV cần phải mở rộng đối
tượng kiểm toán nhằm giảm thiểu những thiếu sót hoặc bỏ sót trong công tác kiểm
toán. Đối tượng kiểm toán không chỉ giới hạn là các BCTC nói chung nữa mà cần phải
xác định thêm các BCTC của từng đơn vị trực thuộc trực tiếp quản lý và thi công công
trình, BCTC của từng hạng mục công trình hoặc hạng mục hoàn thành.
Về nội dung kiểm toán
Nội dung kiểm toán BCTC DNXL được xác định theo các khoản mục trên
BCTC DNXL. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và đặc thù của DNXL mà ngoài các
khoản mục trên BCTC DNXL, KTV thường quan tâm nhiều đến các thông tin về
HTKSNB và thông tin tài chính.
Về phương pháp, kĩ thuật kiểm toán
KTNN luôn chú ý bổ sung và hoàn thiện việc vận dụng phương pháp kiểm
toán trong quá trình kiểm toán. Phần lớn các cuộc kiểm toán đều đã vận dụng cả hai
loại thử nghiệm kiểm toán là: thử nghiệm kiểm toán cơ bản và thử nghiệm kiểm
toán tuân thủ kết hợp với các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán cụ thể khác.
Các phương pháp kỹ thuật mà KTV thường dùng để thu thập bằng chứng kiểm toán
là: quan sát, phỏng vấn, điều tra, lấy xác nhận xác minh tài liệu, tính toán và phân
tích. Tuy nhiên việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật kiểm toán của các KTV
trong các cuộc kiểm toán BCTC DNXL thường theo thói quen, kinh nghiệm nghề
nghiệp là chủ yếu.
Về kế hoạch hàng năm của KTNN
Vào quý 3 hàng năm, kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành, khu vực phân
công nhiệm vụ cho các phòng trực thuộc thực hiện khảo sát lập kế hoạch kiểm toán
viii
cho năm sau. Các phòng được phân công nhiệm vụ sẽ tổ chức việc thu thập thông tin
về tình hình của doanh nghiệp (tập đoàn, tổng công ty) dự kiến sẽ kiểm toán. Kế hoạch
kiểm toán năm sau thường đươc phê duyệt vào tháng 11 của năm trước liền kề.
Thực trạng về quy trình kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán
Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán năm được Tổng KTNN giao, KTNN chuyên
ngành (khu vực) dự kiến thành lập các đoàn kiểm toán và thành viên các đoàn kiểm
toán. Việc khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán của DNXL (thường là các tập đoàn hay
các tổng công ty) thường được tiến hành từ 2 đến 3 tuần vào cuối tháng 02 và trong
tháng 03 hàng năm. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, Trưởng đoàn chịu trách
nhiệm xây dựng kế hoạch kiểm toán của đoàn kiểm toán; chỉ rõ những trọng yếu và rủi
ro kiểm toán cụ thể trong từng nội dung, khoản mục kiểm toán: tài sản, nguồn vốn,
doanh thu, chi phí và kết quả SXKD, thực hiện nghĩa vụ với NSNN.
Nội dung cơ bản của kế hoạch kiểm toán: Mục tiêu kiểm toán; Đối tượng,
phạm vi và giới hạn kiểm toán, trong đó có bảng kê danh sách các công ty, đơn vị
dự kiến kiểm toán. Nội dung và phương pháp kiểm toán (được chi tiết theo từng
công việc kiểm toán cụ thể). Kế hoạch về thời gian: kế hoạch kiểm toán phải xác
định rõ: thời gian và thời hạn kiểm toán, thời gian từ khi bắt đầu cuộc kiểm toán và
thời gian kết thúc kiểm toán tại đơn vị, thời gian lập báo cáo kiểm toán và thời gian
phát hành báo cáo kiểm toán. Kế hoạch nhân sự bao gồm: Trưởng đoàn, các Phó
Trưởng đoàn, các thành viên trong đoàn. Kế hoạch chi phí: Tính trên cơ sở thời
gian, nhân sự dành cho cuộc kiểm toán, chi phí thuê tư vấn (nếu có) và không vượt
quá định mức quy chế chi tiêu nội bộ của KTNN và định mức của Nhà nước. Các
điều kiện vật chất khác phục vụ đoàn kiểm toán: phương tiện đi lại, giấy tờ, tài liệu
cần thiết cho cuộc kiểm toán… Kế hoạch kiểm toán sau khi được hoàn thành, phải
trình Lãnh đạo KTNN phụ trách phê duyệt.
Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán
Tại bước này, tổ kiểm toán đến DNXL thực hiện các hoạt động kiểm toán để
thu thập thông tin và đưa ra các kết luận cho các mục tiêu kiểm toán. KTV sử dụng
các phương pháp kiểm toán thích hợp tiến hành kiểm tra các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh, các số dư trên tài khoản trên bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu trên báo cáo kết
quả SXKD, báo cáo thực hiện nghĩa vụ với NSNN và tình hình thực hiện luật, chế
độ tài chính, kế toán của Nhà nước.
ix
Thứ nhất: Thực hiện một số thủ tục khảo sát về kiểm soát: Kiểm tra các
chứng từ, hồ sơ tài liệu quyết toán để xem xét các dấu hiệu kiểm soát và dấu hiệu
phê chuẩn. Phỏng vấn quy trình xử lý và ghi nhận nghiệp vụ, kiểm soát nghiệp vụ
thu tiền, chi tiền, doanh thu, giá vốn…Yêu cầu cung cấp tài liệu liên quan tới quy
định giao khoán, quy chế tài chính, đấu thầu, quy trình xây dựng, quy trình tập hợp
và luân chuyển chứng từ ghi nhận doanh thu, chi phí công trình, quy trình mua sắm
vật tư, máy móc thiết bị phục vụ thi công…
Thứ hai: thực hiện thủ tục phân tích
Cũng giống như thủ tục kiểm soát, thủ tục phân tích được xác định sẵn trong
kế hoạch kiểm toán. Sau khi thực hiện xong thủ tục kiểm soát, KTV đảm nhận phần
hành kiểm toán sẽ xác định có sử dụng hay không sử dụng thủ tục phân tích tùy vào
từng khoản mục kiểm toán. Thực hiện thủ tục phân tích trên thực tế không mất
nhiều thời gian, và thường là đơn giản. Kết quả sử dụng thủ tục phân tích không tác
động nhiều trong việc xác định sai phạm của KTV. Cho nên, mặc dù đã sử dụng thủ
tục phân tích nhưng KTV vẫn tiến hành kiểm tra chi tiết chứng từ, tài liệu kế toán ở
mức độ quy mô lớn để xác định ngay các sai phạm trong số liệu kế toán.
Thứ ba: Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết số liệu kế toán
Thủ tục kiểm tra chi tiết số liệu kế toán thường được các KTV thực hiện theo
hướng từ BCTC về chứng từ kế toán. Do đó, các thủ tục kiểm tra đối chiếu số tổng
hợp trên các báo cáo và sổ sách kế toán thường được thực hiện trước các thủ tục
kiểm tra chứng từ và việc ghi sổ. Cho nên, nhiều cuộc kiểm toán BCTC DNXL
hoặc kiểm toán nhiều khoản mục, thì việc kiểm tra chi tiết thường là việc kiểm tra
số tổng hợp (hoặc số dư) trên các báo cáo và sổ tổng hợp. Còn việc kiểm tra chi tiết
nghiệp vụ thường bỏ qua hoặc mức độ kiểm tra không nhiều.
Kết quả thực hiện kiểm toán được KTV thể hiện trên “Nhật ký làm việc của
KTV” theo hướng dẫn của KTNN. KTV phải ghi rõ các nội dung, công việc được
giao, mục tiêu, phương pháp kiểm toán, các phát hiện của KTV đối với các vấn đề
đã kiểm tra. Việc ghi chép này được thực hiện hàng ngày dưới sự kiểm tra và xác
nhận của Tổ trưởng tổ kiểm toán. KTV sắp xếp bằng chứng kiểm toán, làm căn cứ
lập “Biên bản xác nhận số liệu và tình hình kiểm toán của KTV”. Trên cơ sở các
bằng chứng kiểm toán thu thập được, ý kiến giải trình của đơn vị, KTV kiểm tra lại,
phân tích bằng chứng và đưa ra kết luận, lập Biên bản xác nhận số liệu và tình hình
kiểm toán của kiểm toán viên (theo mẫu quy định của KTNN).
x
* Kiểm toán một số nội dung chủ yếu của BCTC DNXL
Đối với việc kiểm toán hàng tồn kho:
KTV không kiểm kê tại thời điểm kiểm toán, không tham gia kiểm kê tại
thời điểm đầu năm và cuối năm mà lấy theo số liệu và tình hình kiểm kê của đơn vị.
KTV kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu, mẫu được chọn chiếm tỉ lệ từ 60%-70%
(tính theo giá trị các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và số dư cuối kỳ). Tại các DNXL
thì việc quản lý tài sản phục vụ cho công trường thi công là rất khó khăn và dễ gây
nhầm lẫn, sai sót. Kiểm toán hàng tồn kho thường giao cho KTV thực hiện kiểm
toán khoản mục chi phí sản xuất, xác định giá thành sản phẩm. KTV cần thực hiện
các thủ tục kiểm toán cơ bản sau:
- Xem xét thủ tục về nghiệp vụ nhập xuất được tiến hành đúng nguyên tắc và
quy định không? Khảo sát quá trình hoàn thành các thủ tục xuất kho hàng. Xem xét
việc theo dõi ghi sổ nhật ký hàng chuyển ra ngoài.
- Khảo sát kiểm soát nội bộ quá trình thi công xây dựng. Xem xét việc tổ
chức quản lý và theo dõi nhân sự ở các tổ, đội. Xem xét việc ghi chép thi công trên
các hạng mục xây lắp.
- Công tác kế toán chi phí có được kiểm soát thường xuyên không? Có xây
dựng định mức tiêu hao vật tư và dự toán chi phí không, có quyết toán vật tư và
phân tích biến động chi phí thoát ly định mức không?
- Xem xét quy trình và thủ tục kiểm kê, đánh giá sản phẩm dở dang.
- Khảo sát chi tiết quá trình tính giá và hạch toán hàng tồn kho. Phương pháp
tính giá có đúng nguyên tắc không? Quá trình áp dụng phương pháp tính giá có nhất
quán với các niên độ kế toán trước đó không? Số liệu tính toán có chính xác không?
- Kiểm tra quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành sản xuất sản phẩm. Đối
tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có gì thay đổi so với kỳ trước
không? Xem xét có những khoản chi phí nào không thuộc phạm vi của chi phí sản
xuất mà được tính vào giá thành sản xuất, ngược lại có khoản chi phí sản xuất nào
bị bỏ xót không? Phương pháp tính toán và phân bổ chi phí có nhất quán với các kỳ
trước hay không?
xi
Đối với kiểm toán nguyên giá TSCĐ:
KTV kiểm tra 100% các nghiệp vụ liên quan đến việc tăng, giảm nguyên giá
trong năm. Thực hiện các thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết theo quy định trong
quy trình kiểm toán. DNXL có một loại TSCĐ rất phổ biến là máy thi công. Nếu
máy thi công thuộc quyền sở hữu của đơn vị thì tiến hành trích khấu hao cho từng
loại máy. Máy thi công sử dụng cho công trình nào thì tính khấu hao cho công trình
đó, trong trường hợp máy thi công phục vụ cho nhiều công trình thì tiến hành phân
bổ khấu hao cho từng công trình, hạng mục công trình.
Nếu máy thi công thuê ngoài, thì KTV phải xem xét chứng từ, hợp đồng thuê
máy, nội dung cụ thể của hợp đồng, chứng từ thuê máy để làm căn cứ phân bổ chi
phí máy thi công cho từng công trình, hạng mục công trình, tránh trường hợp máy
thi công thuê ngoài lại được trích khấu hao như tài sản cố định của đơn vị.
Đối với việc kiểm toán nợ phải thu, nợ phải trả
Công nợ trong DNXL thường được theo dõi theo đầu công trình. KTV chỉ
kiểm tra chọn mẫu 70% các đầu công nợ (khách hàng hoặc chủ nợ) ở các tài khoản,
mẫu được chọn thường là các đầu công nợ có số phát sinh lớn trong năm, các đầu
công nợ có những phát sinh bất thường, các đầu công nợ kéo dài qua từ 2 niên độ kế
toán trở lên, đặc biệt là các đầu công nợ không có phát sinh trong năm được kiểm
toán. KTV cần lưu ý đối với khoản công nợ người mua trả tiền trước, kiểm tra xem
có khoản công nợ nào đã đủ điều kiện ghi doanh thu mà vẫn treo trên công nợ, hay
kết hợp với kiểm toán doanh thu để tránh trường hợp chưa đủ điều kiện ghi nhận
doanh thu nhưng đơn vị đã chuyển số tiền ứng trước của khách hàng sang doanh
thu. Việc kiểm toán công nợ phải thu và phải trả phải kết hợp chặt chẽ với kiểm
toán doanh thu và chi phí.
- Đối với kiểm toán doanh thu
KTV lựa chọn để kiểm tra các hợp đồng, hóa đơn có giá trị lớn hoặc công
trình thi công kéo dài qua từ 2 niên độ kế toán trở lên. Trong DNXL thì điều kiện để
ghi nhận doanh thu là: Căn cứ trên hợp đồng xây lắp thì doanh thu xây lắp được ghi
nhận sau mỗi đợt hoàn thành giai đoạn xây lắp mà được sự nhất trí xác nhận của cả
2 bên A-B. Do đó, doanh thu xây lắp không phải được ghi nhận khi bàn giao công
trình. Doanh thu của DNXL được xác định theo phương thức thanh toán theo giá trị
xii
khối lượng thực hiện hoàn thành.Tức là, khi kết quả của hợp đồng xây dựng được
ước tính một cách đáng tin cậy và được khách hàng xác nhận thì doanh thu trong kỳ
được ghi nhận tương ứng với phần công việc, hạng mục xây dựng đã hoàn thành
được khách hàng xác nhận trong kỳ. KTV phải căn cứ vào hợp đồng xây lắp, các hồ
sơ thanh toán giai đoạn, phiếu giá, hóa đơn, biên bản nghiệm thu hạng mục hoàn
thành, chứng từ tạm ứng, thanh toán, có đầy đủ xác nhận của chủ đầu tư và nhà thầu
để làm căn cứ ghi nhận doanh thu.
Đối với kiểm toán chi phí trực tiếp, chi phí sản phẩm dở dang, tính giá thành
sản phẩm
Chi phí trực tiếp ở các DNXL được tập hợp từ các: chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất
chung. KTV kiểm tra phương pháp tập hợp chi phí của doanh nghiệp. Thường ở
DNXL thì chi phí trực tiếp được tập hợp theo thực tế phát sinh ở từng công trình,
hạng mục công trình. KTV phải đối chiếu, so sánh, phân tích xem chi phí trực tiếp
có được tập hợp đúng theo từng công trình, hạng mục công trình không? Có bị kê
khai thừa không? (Ví dụ: một chi phí phát sinh mà được kê khai vào hai công trình).
Đối với các khoản chi phí nhân viên quản lý công ty, xí nghiệp, chi phí dịch vụ mua
ngoài Các khoản chi phí này gồm nhiều yếu tố chi phí và có liên quan đến nhiều
công trình, hạng mục công trình nên phải tiến hành phân bổ theo các tiêu thức khác
nhau. Văn phòng công ty và các xí nghiệp thành viên thực hiện phân bổ các khoản
chi phí trên theo sản lượng hoàn thành. KTV tiến hành kiểm tra các tiêu thức phân
bổ, và việc phân bổ có nhất quán hay không? Có được tập hợp đúng hay không?
Chi phí nhân công trực tiếp cũng là khoản mục dễ có rủi ro kiểm toán. Đa số
các DNXL thuê số lượng lớn nhân công trực tiếp theo mùa vụ và hợp đồng ngắn
hạn tùy vào công trình thi công. Do vậy, việc quản lý lượng nhân công này rất phức
tạp và dễ nhầm lẫn. KTV phải xem xét số lượng nhân công phục vụ cho mỗi công
trình, đối chiếu với thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động ngắn hạn, bảng
chấm công, bảng trả lương phải có đầy đủ chữ ký của người lao động, tránh trường
hợp tập hợp chi phí nhân công thừa, hay không đúng làm tăng chi phí các công trình
xây dựng.
Chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ: KTV phỏng vấn, xem xét cách thức tập
hợp chi phí sản xuất, căn cứ vào sổ chi tiết các TK 621, TK 622, TK 623, TK 627
xiii
để tổng hợp chi phí phát sinh trong kỳ theo khoản mục. Sau đó kết chuyển chi phí
sản xuất cho các công trình, hạng mục công trình trong kỳ sang Tài khoản 154 - Chi
phí sản xuất kinh doanh dở dang. Kế toán Tài khoản 154 được mở sổ theo dõi chi
tiết cho từng công trình, hạng mục công trình. KTV căn cứ vào kiểm kê sản phẩm
dở dang cuối kỳ, tính ngược lại để ra chi phí sản xuất trong kỳ.
Theo đặc điểm của DNXL thì việc tâp hợp chi phí sản xuất, xác định sản
phẩm dở dang cuối kỳ rất phức tạp, nhiều hạng mục, nên thường có sai sót. Công
tác tiến hành kiểm kê đánh giá KLXL dở dang của các công ty thường chưa kịp
thời, chưa được quan tâm đúng mức. Nó ảnh hưởng đáng kể đến việc xác định giá
thành thực tế của KLXL hoàn thành trong kỳ….
Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán là giai đoạn KTV phải làm một số công việc để hoàn tất
các công việc kiểm toán. Mục đích của giai đoạn này là giúp KTV rà soát lại tất cả
các công việc kiểm toán đã thực hiện, đánh giá các thông tin bằng chứng thu thập
được để đưa ra những ý kiến kết luận phù hợp.
Thứ nhất: Lập báo cáo kiểm toán của tổ kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của các tổ kiểm toán được lập trên cơ sở tập hợp các biên
bản xác nhận số liệu và tình hình kiểm toán của kiểm toán viên, biên bản họp tổ với sự
thống nhất của các KTV trong tổ. Báo cáo kiểm toán của tổ kiểm toán phải trình
Trưởng đoàn kiểm toán xét duyệt, sau đó tổ kiểm toán sẽ tổ chức họp thông qua báo
cáo kiểm toán với đơn vị được kiểm toán. Báo cáo kiểm toán của tổ kiểm toán sẽ được
phát hành cùng thời gian với việc phát hành báo cáo kiểm toán của Đoàn kiểm toán.
Thứ hai: Lập và phát hành báo cáo kiểm toán của đoàn kiểm toán
Báo cáo kiểm toán của đoàn kiểm toán là báo cáo kiểm toán của toàn Tổng
công ty (Tập đoàn) được lập sau khi công việc kiểm toán tại các tổ kiểm toán hoàn
tất. Báo cáo kiểm toán của đoàn kiểm toán được lập trên cơ sở các báo cáo kiểm
toán của các tổ kiểm toán. KTNN ban hành Quy định về trình tự lập, xét duyệt và
phát hành báo cáo kiểm toán theo quyết định Số 03/2008/QĐ-KTNN ngày
26/02/2008.
Báo cáo kiểm toán của đoàn kiểm toán sau khi hoàn thiện sẽ được trình
Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành (khu vực). Kiểm toán trưởng ra quyết định
thành lập tổ thẩm định báo cáo kiểm toán cấp Vụ và tổ chức họp thẩm định báo cáo
xiv
kiểm toán ở cấp Vụ. Báo cáo kiểm toán sau khi được chỉnh sửa ở cấp Vụ sẽ được
trình Lãnh đạo KTNN xét duyệt, đồng thời gửi các Vụ chức năng để thẩm định (Vụ
Tổng hợp, Vụ Pháp chế). Sau đó, đoàn kiểm toán lập báo cáo kiểm toán chính thức
để kết luận tại tổng công ty. Trên cơ sở ý kiến kết luận của Lãnh đạo KTNN hoặc
người được ủy quyền, Trưởng đoàn kiểm toán hoàn chỉnh báo cáo kiểm toán, trình
Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành (khu vực) và trình Lãnh đạo KTNN ký để
phát hành.
Giai đoạn 4: Kiểm tra tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán
KTNN đã ban hành quyết định Số 05/2010/QĐ-KTNN ngày 16/7/2010 về
Quy trình kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán của KTNN. Việc kiểm tra tình
hình thực hiện kiến nghị, kết luận kiểm toán của cuộc kiểm toán này được thực hiện
bắt đầu từ ngày 01 tháng 4 năm sau theo quy trình chi tiết được quy định.
Lưu trữ hồ sơ kiểm toán
Tài liệu của mỗi cuộc kiểm toán đều phải được lập thành hồ sơ để lưu trữ.
Hồ sơ kiểm toán phải được đưa vào lưu trữ tại các KTNN chuyên ngành (khu vực)
trong thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày phát hành báo cáo kiểm toán của cuộc
kiểm toán, sau đó được lưu chung vào kho lưu trữ của KTNN. Thời hạn lưu trữ hồ
sơ kiểm toán của KTNN tối thiểu là hai mươi năm.
Đánh giá thực trạng kiểm toán BCTC DNXL do KTNN thực hiện
Trong phần này, Tác giả đã nêu những kết quả đạt được trong việc thực hiện
kiểm toán BCTC DNXL bao gồm: các quy định hiện hành; mục tiêu đối tượng và nội
dung kiểm toán DNXL; về quy trình kiểm toán; về phương pháp kĩ thuật kiểm toán.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được của kiểm toán BCTC DNXL
còn tồn tại những hạn chế làm ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán. Những hạn chế
bao gồm:
Thứ nhất: Về các quy định hiện hành liên quan đến kiểm toán BCTC DNXL
Đến nay, hệ thống chuẩn mực và quy trình kiểm toán đã được ban hành,
nhưng quy trình kiểm toán BCTC của KTNN là dành cho DNNN nói chung, trong
khi DNXL có những đặc điểm riêng, phức tạp và có nhiều khía cạnh không phù hợp
với quy trình kiểm toán BCTC DNNN. Nhóm chuẩn mực kiểm toán thực hành còn
chung chung, thiếu hướng dẫn cụ thể, thiếu những quy định trong tác nghiệp của
KTV, điều đó gây khó khăn không nhỏ cho KTV, nhất là những người mới vào
xv
nghề, chưa có kinh nghiệm thực tế. KTNN chưa có mẫu báo cáo ngắn nên chưa đáp
ứng được nhu cầu xác nhận tính trung thực, hợp pháp của BCTC của doanh nghiệp
trong trường hợp doanh nghiệp muốn xác minh BCTC mà vẫn đảm bảo bí mật các
thông tin tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo kiểm toán còn mang tính chất báo cáo
thanh tra, nặng về nêu các phát hiện. Hệ thống hồ sơ mẫu biểu kiểm toán còn thiếu
chương trình kiểm toán chi tiết của KTV.
Do những hạn chế nêu trên những xác nhận đưa ra thường dựa vào kinh
nghiệm chủ quan của KTV nên độ chính xác không cao và giới hạn rất nhiều. Từu
đó đặt ra việc hoàn thiện công tác kiểm toán nói chung và quy trình, phương pháp
kiểm toán BCTC DNXL nói riêng là rất cần thiết trong thời điểm hiện tại.
Thứ hai: Về đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp kiểm toán
BCTC DNXL
- Đối tượng kiểm toán BCTC DNXL chưa được mở rộng
Đặc điểm nổi bật của DNXL là thời gian thi công các công trình thường dài
liên quan đến nhiều niên độ kế toán, việc tập hợp chi phí, xác định doanh thu theo
từng công trình. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức và cơ chế khoán trong xây dựng công
trình là phổ biến. Vì vậy, khi kiểm toán BCTC DNXL cần phải mở rộng đối tượng
kiểm toán không chỉ là BCTC ở kỳ này mà còn là các kỳ liên quan, nhiều khi phải
tập hợp số liệu từ khi khởi công công trình đến thời điểm kiểm toán.
- Mục tiêu kiểm toán chưa mở rộng và cụ thể hóa theo từng loại thông tin
Hiện nay, mục tiêu kiểm toán BCTC DNXL thường chỉ là xác nhận mức độ tin
cậy của các thông tin được trình bày trên BCTC. Đây là mục tiêu tổng quát của kiểm
toán BCTC. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành xây dựng và DNXL, nên khi kiểm toán
BCTC cần cụ thể thành các mục tiêu đặc thù của từng khoản mục trên BCTC. Ngoài
việc kiểm toán xác nhận BCTC còn phải đánh giá tính tuân thủ quy trình xây dựng công
trình, các điều khoản trong hợp đồng xây dựng và chấp hành việc vận dụng chuẩn mực
kế toán hợp đồng xây dựng, cũng như các quy định kế toán khác khi thực hiện công tác
kế toán đối với DNXL.
- Nội dung kiểm toán còn dàn trải, chưa có sự chọn lọc và tập trung cho phù
hợp với từng cuộc kiểm toán.
Nội dung kiểm toán thường xác định chung cho mọi cuộc kiểm toán BCTC
xvi
mà chưa được cụ thể hóa theo từng cuộc kiểm toán cũng như từng loại hình doanh
nghiệp. Những nội dung trọng tâm cần được kiểm toán và xác nhận rõ ràng thì đôi
khi lại rơi vào giới hạn kiểm toán. Do vậy, trong mỗi cuộc kiểm toán BCTC DNXL
sẽ có tình trạng nội dung xác định bị thiếu hoặc thừa, ảnh hưởng đến phạm vi, chất
lượng và hiệu quả kiểm toán.
- Tổ chức kiểm toán BCTC DNXL:
Trong tổ chức kiểm toán thì quy trình kiểm toán KTV sử dụng các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán rất chung chung, do đó, phương pháp kiểm toán và kỹ
thuật thu thập bằng chứng chưa được vận dụng một cách khoa học, đồng bộ. Việc
thực hiện các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán phụ thuộc vào đặc điểm thực tế tại
đơn vị và kinh nghiệm của mỗi KTV. Tuy nhiên việc định ra các nguyên tắc để
hướng dẫn và kiểm soát việc thực hiện các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán
không thể không thực hiện. Đối với phương pháp kiểm toán cơ bản thì KTV chưa
thực hiện đầy đủ các thủ tục phân tích mà chủ yếu là kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và
số dư tài khoản. Đa phần chỉ tập trung kiểm tra số liệu tổng hợp và đối chiếu giữa
các sổ kế toán với chứng từ.
Thứ ba: Về quy trình kiểm toán BCTC DNXL
Thực tế hiện nay chưa có quy trình kiểm toán BCTC DNXL, do đó khi thực hiện
kiểm toán BCTC DNXL thì vẫn áp dụng quy trình kiểm toán BCTC DNNN được ban
hành và thiết kế sẵn theo hướng dẫn của các chuẩn mực, quy định kiểm toán, dẫn đến
nhiều bất cập và hạn chế cho KTV khi thực hiện kiểm toán.
Nguyên nhân của những tồn tại trong kiểm toán báo cáo tài chính do
Kiểm toán Nhà nước thực hiện
Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các tồn tại, hạn chế nêu trên là:
Thứ nhất: Hệ thống chính sách, chế độ và pháp luật chưa đầy đủ, chặt chẽ,
đồng bộ cho các lĩnh vực khác nhau. Mặt khác lại thường xuyên thay đổi, do vậy
quá trình kiểm toán gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc, hạn chế rất nhiều đến
hoạt động kiểm toán.
Thứ hai: Các quy định về hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán chưa
đầy đủ, đồng bộ. Mặc dù cho đến nay, KTNN đã ban hành khá đầy đủ chuẩn mực
xvii
kiểm toán, quy trình kiểm toán và các quy định khác điều chỉnh hoạt động kiểm
toán, phù hợp với chuẩn mực kiểm toán, nguyên tắc kiểm toán của INTOSAI và đã
phần nào đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng
kiểm toán. Tuy nhiên, hệ thống các quy định đó vẫn còn nhiều hạn chế. Chưa có
quy trình kiểm toán BCTC cho loại hình DNXL.
Thứ ba: Vai trò kiểm soát của Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành (khu
vực) đối với các đoàn kiểm toán, tổ kiểm toán còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là
do địa bàn kiểm toán rộng và một đợt kiểm toán có đồng thời nhiều cuộc kiểm toán
diễn ra nên khó kiểm soát. Vai trò, phương thức kiểm soát chất lượng kiểm toán của
kiểm toán trưởng và trưởng đoàn kiểm toán chưa phân định rõ ràng, hoặc chưa thực
hiện đầy đủ. Đặc biệt là trong trường hợp kiểm toán trưởng kiêm nhiệm trưởng
đoàn kiểm toán thì không phân định được rõ ràng chức năng của trưởng đoàn với
chức năng quản lý của kiểm toán trưởng; vai trò kiểm soát của kiểm toán trưởng đối
với cuộc kiểm toán hầu như không còn, chỉ còn lại vai trò kiểm soát của trưởng
đoàn kiểm toán. Mặt khác, khi kiểm toán trưởng làm trưởng đoàn kiểm toán, cũng
khó có thời gian tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát chất lượng kiểm toán của các
cuộc kiểm toán.
Thứ tư: Đội ngũ kiểm toán viên đã tăng lên đáng kể về số lượng, nhưng trình
độ và kinh nghiệm của các kiểm toán viên trẻ, mới vào nghề còn rất ít. Thêm vào đó,
việc đào tạo kiểm toán viên trẻ còn mang nặng tính lý thuyết, chưa đi sâu vào “cầm
tay chỉ việc” nên khi đi kiểm toán thực tế, các KTV trẻ thường lúng túng và gây ra
hiệu quả kiểm toán không cao.
Ngoài ra có một nguyên nhân đến từ chính bản thân DNXL mà không thể
không đề cập đến là: Tính chất phức tạp của hoạt động xây lắp và công tác kế toán.
Nhu cầu cần kiểm toán và thái độ hợp tác với các đoàn, tổ kiểm toán. Sức ép về chi
phí, thời gian và nội dung kiểm toán…
Những hạn chế được đề cập trên đây cần phải nhìn nhận một cách toàn diện,
cầu thị để từng bước khắc phục cả ở giác độ vĩ mô và vi mô.
xviii
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP DO KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
Qua những phân tích khái quát và chi tiết trong chương 1 và chương 2 nêu
trên, ở chương 3 Tác giả đưa ra sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm toán BCTC
DNXL do KTNN thực hiện. Với vai trò quan trọng của ngành Xây lắp nói chung và
DNXL nói riêng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, thì việc kiểm toán BCTC
DNXL do KTNN thực hiện là rất cần thiết nhằm giúp cung cấp thông tin cho các
bên hữu quan, giúp Nhà nước quản lý việc sử dụng vốn Nhà nước hiệu quả, giúp
doanh nghiệp hoàn thiện hơn trong hoạt động và quản lý. Thông qua đó, giúp
KTNN nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng kiểm toán, xây
dựng cơ quan KTNN thành cơ quan có uy tín về mặt chuyên môn cũng như quản lý,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được các mục tiêu nêu trên thì Tác giả đưa ra phương hướng hoàn thiện
cùng với các các giải pháp hoàn thiện cụ thể đối với kiểm toán BCTC DNXL do
KTNN thực hiện như sau:
Phương hướng hoàn thiện:
Một là: Hoàn thiện kiểm toán BCTC DNXL phải đảm bảo tính đồng bộ:
Hoàn thiện pháp luật và quy định cũng như chuẩn mực về kiểm toán; hoàn thiện tổ
chức các công việc kiểm toán; hoàn thiện đối tượng, nội dung, mục tiêu kiểm toán;
hoàn thiện quy trình và phương pháp kiểm toán; hoàn thiện tổ chức áp dụng quy
trình kiểm toán vào hoạt động kiểm toán thực tiễn.
Hai là: Hoàn thiện quy trình kiểm toán BCTC DNXL phải đảm bảo về số
lượng và hiệu quả trong công tác kiểm toán. Hoàn thiện quy trình kiểm toán phải
đảm bảo khái quát hết các vấn đề trọng yếu và đủ đại diện cho tổng thể.
Ba là: Khi hoàn thiện BCTC DNXL phải dựa trên căn cứ, cơ sở khoa học
của lý luận kiểm toán và thực trạng hoạt động kiểm toán của KTNN cũng như thực
trạng của nền kinh tế hiện nay. Như vậy công tác kiểm toán được hoàn thiện mang
tính lý luận và vừa có ý nghía thực tiễn cao.
xix
Bốn là: Hoàn thiện nội dung, quy trình và phương pháp kiểm toán phải đảm
bảo tính có thể ứng dụng, dễ đào tạo chuyển giao. Muốn vậy hoàn thiện phải đảm
bảo tính đầy đủ, chi tiết được sắp xếp theo một trình tự khoa học, dễ hiểu, dễ làm,
dễ vận dụng.
Các giải pháp hoàn thiện:
Hoàn thiện các quy định hiện hành liên quan đến kiểm toán báo cáo tài
chính doanh nghiệp xây lắp
KTNN cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Hệ thống chuẩn mực KTNN và
Quy trình kiểm toán BCTC DNNN theo hướng sau:
- Nhóm chuẩn mực kiểm toán thực hành trong Hệ thống chuẩn mực KTNN
cần có những quy định cụ thể trong tác nghiệp của KTV. Nhóm chuẩn mực báo cáo
cần được cụ thể hóa theo hướng chi tiết các công việc thực tế, thủ tục kiểm toán mà
KTV phải thực hiện. Để KTV dễ dàng vận dụng vào thực tế kiểm toán, KTNN cần
ban hành văn bản hướng dẫn chuẩn mực kiểm toán.
- Xây dựng quy trình kiểm toán DNNN có chi tiết theo một số chuyên ngành,
lĩnh vực cụ thể cần thiết như: quy trình kiểm toán doanh nghiệp kinh doanh thương
mại, quy trình kiểm toán doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, quy trình kiểm toán
doanh nghiệp xây lắp…
- KTNN cần ban hành mẫu báo cáo ngắn gọn xác nhận tính đúng đắn, trung
thực của BCTC DNXL sao cho dễ hiểu, phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng báo
cáo kiểm toán.
Hoàn thiện việc lập và giao kế hoạch kiểm toán hàng năm của Kiểm toán
Nhà nước chuyên ngành, khu vực
Về việc lập kế hoạch kiểm toán hàng năm
Hiện nay, việc xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN chuyên
ngành, khu vực trong đó có kế hoạch kiểm toán các DNXL còn bị động. Để các đơn
vị thực sự chủ động trong công tác lập kế hoạch năm thì KTNN cần phải xây dựng
kế hoạch đồng bộ hệ thống kế hoạch, gồm: kế hoạch kiểm toán dài hạn (5 năm); kế
hoạch kiểm toán trung hạn (2-3 năm); kế hoạch kiểm toán mỗi năm. Các KTNN
chuyên ngành (khu vực) cần phải có sự phân công chuyên môn hóa cho các phòng
kiểm toán trực thuộc theo dõi các tổng công ty trong phạm vi, lĩnh vực, địa bàn
xx
được giao. Các phòng được giao nhiệm vụ chuyên trách phải có kế hoạch theo dõi
và liên hệ chặt chẽ với đơn vị được kiểm toán để cập nhật thường xuyên liên tục về
đơn vị, làm căn cứ cho xây dựng kế hoạch kiểm toán, không bị động như hiện nay.
Việc xây dựng kế hoạch kiểm toán phải căn cứ và hướng vào những kế hoạch
kinh tế, chính sách kinh tế vĩ mô, nhiệm vụ trọng tâm của đất nước …
Về giao kế hoạch kiểm toán cho Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, khu vực
Việc giao kế hoạch kiểm toán cho các KTNN chuyên ngành, khu vực cần
phù hợp với những quy định về chức năng, nhiệm vụ và địa bàn phụ trách của mỗi
KTNN chuyên ngành, khu vực, vẫn còn sự chồng chéo và không rõ ràng trong việc
giao nhiệm vụ cho các KTNN chuyên ngành và khu vực.
Hoàn thiện việc xác định đối tượng, mục tiêu và nội dung kiểm toán báo
cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp
Về xác định đối tượng kiểm toán
- Đối tượng kiểm toán cần phải được KTV kiểm tra và đưa ra ý kiến xác
nhận là BCTC DNXL bao gồm: BCĐKT, BCKQHĐKD, BCLCTT và TMBCTC
của các công ty con và của tổng công ty;
- Đối tượng cần phải được xác định để kiểm tra nhằm thu thập thông tin,
bằng chứng bổ sung cho việc đưa ra ý kiến xác nhận: Báo cáo tài chính của các xí
nghiệp, đơn vị phụ thuộc phải lập; Báo cáo tập hợp doanh thu, chi phí theo từng
công trình hay hạng mục công trình, theo từng xí nghiệp; báo cáo tình hình thực
hiện sản lượng xây lắp theo công trình hoặc từng xí nghiệp…
Về xác định mục tiêu kiểm toán
Mục tiêu kiểm toán tổng quát của toàn bộ cuộc kiểm toán bao gồm: Xác nhận
mức độ trung thực, hợp lý, hợp pháp của BCTC DNXL; Kiểm tra, đánh giá việc
tuân thủ hợp đồng xây dựng và chế độ kế toán liên quan đến DNXL; Thực hiện tư
vấn về quản lý tài chính cũng như quản lý doanh nghiệp ở đơn vị được kiểm toán;
Chỉ ra và kiến nghị với đơn vị được kiểm toán phát huy những mặt tốt và khắc phục
sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế, tài chính,
kế toán…; Kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm, sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện chế độ quản lý kinh tế, tài chính…
xxi
Về việc xác định nội dung kiểm toán
Do tính đặc thù của DNXL nên nội dung kiểm toán cần phải xác định một số
nội dung trọng tâm của các khoản mục trọng yếu sau: Doanh thu, chi phí, phải thu,
phải trả, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, tình hình đầu tư ra bên ngoài…
Các thông tin khác bao gồm: Kiểm toán việc tuân thủ các quy định trong
hoạt động xây dựng và công tác kế toán; Kiểm toán tính hợp lý các điều khoản hợp
đồng xây dựng; Kiểm toán việc áp dụng về đơn giá, định mức được duyệt của Nhà
nước. Định mức và đơn giá là những vấn đề phức tạp có liên quan đến quy định của
Nhà nước và của khu vực thi công; Kiểm toán tính tuân thủ các điều khoản trong
hợp đồng xây dựng và việc vận dụng các quy định kế toán DNXL trong việc ghi
nhận doanh thu, chi phí hợp đồng xây dựng; Kiểm toán các văn bản pháp lý có liên
quan đến quyết toán vốn đầu tư khi công trình hoàn thành, kế cả báo cáo kế toán
vốn đầu tư hàng năm của chủ đầu tư; Kiểm toán việc chấp hành các quy định và
thực hiện về trách nhiệm của các bộ phận tham gia quản lý đầu tư xây dựng có thực
hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ và đúng quyền hạn hay không, trước hết các nhà thầu
phụ, ban quản lý công trình, các đơn vị thiết kế, lập dự toán, đơn vị cấp phát vốn…
Hoàn thiện quy trình kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp xây lắp
Hoàn thiện giai đoạn chuẩn bị kiểm toán
Chuẩn bị kiểm toán là bước công việc rất quan trọng trong việc tìm hiểu
thông tin đối với từng DNXL và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phục vụ cho các
bước công việc sau này. KTV cần phải thu thập thông tin để đạt được một mức độ
hiểu biết nhất định về DNXL cũng như BCTC DNXL để có thể xác định đúng đắn
các bước công việc tiếp theo.
Hoàn thiện giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Việc thực hiện tốt các bước công việc trong giai đoạn này sẽ giúp xác định đầy
đủ các vấn đề cần thiết trong khi thực hiện kiểm toán như: mục tiêu, nội dung, phạm vi
và phương pháp là đúng đắn. Qua đó giúp KTV thực hiện và kiểm soát các hoạt động
kiểm toán đạt chất lượng và hiệu quả. Cụ thể các bước công việc như sau:
Hoàn thiện giai đoạn thực hiện kiểm toán
- Họp tiến hành triển khai kế hoạch kiểm toán. Mục đích là giúp các thành
viên trong đoàn kiểm toán nắm bắt được một cách tổng quát về cuộc kiểm toán
cũng như thấy được những công việc cần phải thực hiện.
xxii