Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quản trị nhân lực tại công ty cổ phần đầu tư xây dựng và thương mại 3 - 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 105 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI



NGÔ QUỐC CHÍNH


QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ XÂY DỤNG VÀ THƯƠNG MẠI 3-2


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60340102


Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH QUANG TY





HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHU CẦU THỰC TIỄN VỀ QUẢN TRỊ
NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY 4
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 4
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực 4
1.1.1.1. Nguồn nhân lực 4
1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực 5
1.1.2. Quản trị nhân lực tại các doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường 6
1.1.2.1. Đặc điểm, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường trên thế
giới và ở Việt Nam hiện nay 6
1.1.2.2 Vị trí, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh thế thị trường và
những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc quản trị nguồn nhân lực
tại doanh nghiệp 15
1.1.2.3. Khái niệm về quản trị nguồn nhân lực trong doanh nghiệp 17
1.1.2.4. Những nội dung chủ yếu của công tác quản trị nhân lực trong doanh
nghiệp 18
1.1.2.5. Nhận xét chung về tầm quan trọng, ý nghĩa của quản trị nhân lực
trong doanh nghiệp và các tiêu chí đánh giá chất lượng quản trị
nhân lực 24
1.2. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU VỀ VẤN ĐỀ QUẢN
TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM HIỆN NAY 26
1.2.1. Đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước 29
1.2.1.1. Nhận xét khái quát về thực trạng nguồn nhân lực ở các doanh
nghiệp nhà nước 29
1.2.1.2. Những mặt đã làm được trong quản trị nhân lực 29
1.2.1.3. Những bất cập lớn trong quản trị nhân lực 30
1.2.2. Đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân 31
1.2.2.1. Nhận xét khái quát về thực trạng nguồn nhân lực ở các doanh

nghiệp tư nhân 31


1.2.2.2. Những mặt đã làm được trong quản trị nhân lực 32
1.2.2.3. Những bất cập trong quản trị nhân lực 32
1.2.3. Đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 33
1.2.3.1. Nhận xét khái quát về thực trạng nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài 33
1.2.3.2. Những mặt đã làm được trong quản trị nhân lực 34
1.2.3.3. Những bất cập trong quản trị nhân lực 34
1.2.4. So sánh về kết quả, chất lượng quản trị nhân lực giữa ba khu vực kinh tế.35
1.2.4.1. Nhận xét, so sánh chung 35
1.2.4.2. Những vấn đề lớn đang đặt ra đối với quản trị nguồn nhân lực
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay 37
1.3. NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN TRỊ NHÂN LỰC CỦA DOANH NGHIỆP
VÀ NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÁC DOANH NGHIỆP 38
1.3.1. Nhận xét chung về biện pháp quản trị nhân lực của các doanh nghiệp .38
1.3.2. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp 39
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG
TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI 3-2 (GIAI ĐOẠN
2006 - 2011 ) 45
2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY 45
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển của Công ty 45
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ; đặc điểm ngành nghề kinh doanh và khả năng
cạnh tranh của Công ty 46
2.1.2.1. Về chức năng, nhiệm vụ 46
2.1.2.2. Về đặc điểm ngành nghề kinh doanh 46
2.1.2.3. Các đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của Công ty 47

2.1.3. Cơ cấu tổ chức và đặc điểm nguồn nhân lực của Công ty 51
2.1.3.1. Về cơ cấu tổ chức 51
2.1.3.2. Về đặc điểm nguồn nhân lực hiện có của Công ty 55
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 61
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NHÂN LỰC CỦA CÔNG TY .63
2.2.1. Đối với công tác tuyển dụng nhân lực 63


2.2.2. Đối với việc sử dụng nguồn nhân lực đã được tuyển dụng 65
2.2.3. Đối với việc thực hiện các chế độ, chính sách theo quy định của pháp
luật dành cho người lao động trong Công ty 65
2.2.4. Đối với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong Công ty 69
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN
LỰC TẠI CÔNG TY 70
2.3.1 Những thành tựu nổi bật cần phát huy 70
2.3.2 Những hạn chế lớn cần khắc phục và nguyên nhân 71
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT, KINH DOANH
CỦA CÔNG TY ĐẾN NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUAN ĐIỂM,
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
TẠI CÔNG TY 3-2 74
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÔNG TY ĐẾN NĂM 2020 74
3.2. NHỮNG NHÂN TỐ LỚN NHÌN TỪ BỐI CẢNH MỚI CỦA THẾ GIỚI
VÀ TRONG NƯỚC CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN
CÁC NGÀNH NGHỀ SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA CÔNG TY 77
3.2.1. Những nhân tố lớn nhìn từ bối cảnh chung của thế giới 77
3.2.2. Những nhân tố lớn trong nước 80
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY 3-2 83
3.3.1. Nhóm giải pháp về tuyển dụng nhân lực 83

3.3.2. Nhóm giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực hiện có 85
3.3.3. Nhóm giải pháp về bảo đảm thực hiện các chế độ, chính sách tạo động
lực khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, chất
lượng công việc 86
3.3.4. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực 87
3.3.5. Một số kiến nghị quan trọng khác đối với bộ máy lãnh đạo, quản lý
Công ty 90
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC 92
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
CHLB : Cộng hòa Liên bang
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
XNCH : Xã hội Chủ nghĩa
QTNL : Quản trị nhân lực
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
KPCD : Kinh phí công đoàn
DN : Doanh nghiệp
NLĐ : Người lao động
THCV : Hình thức công việc
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DN ngoài NN : Doanh nghiệp ngoài nhà nước
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
NN : Nhà nước

FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
QĐ-TTg : Quyết định của thủ tướng
XD & KD : Xây dựng và kinh doanh
XD & TM : Xây dựng và thương mại
XD : Xây dựng
PTNN : Phát triển nông thôn
HĐQT : Hội đồng quản trị
CBCNV : Cán bộ công nhân viên
SXKD : Sản xuất kinh doanh
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
BĐS : Bất động sản
HN : Hà Nội


Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
HSX : Là sàn giao dịch của sở giao dịch chứng khoán thành phố
Hồ Chí Minh
SJS : Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và
Khu Công nghiệp Sông Đà (HOSE)
PVX : Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (HNX)
NTL : Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Từ Liêm (HOSE)
SHN : Công ty Cổ phần Đầu tư Tổng hợp Hà Nội (HNX)



DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Sơ đồ 1: Quá trình tuyển dụng nhân lực 19

Sơ đồ 2: Trình tự xây dựng một chương trình đào tạo/phát triển 24
Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần Xây dựng và Thương mại 3-2 51
Sơ đồ 4: Quy trình tuyển dụng nhân sự của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và
thương mại 3-2 64

Bảng 1: Cơ cấu nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp 27
Bảng 2: Danh sách cổ đông sang lập 45
Bảng 3: Biểu khai năng lực cán bộ chuyên môn và kỹ thuật của Công ty 56
Bảng 4: Cơ cấu về năng lực cán bộ chuyên môn và kỹ thuật của Công ty 57
Bảng 5: Cơ cấu về năng lực cán bộ chuyên môn và kỹ thuật của Công ty theo năm
kinh nghiệm 57
Bảng 6: Biểu khai năng lực công nhân kỹ thuật của Công ty 59
Bảng 7: Kết quả sản xuất của Công ty trong những năm qua 62
Bảng 8: Bảng lương khối lãnh đạo và văn phòng cấp cao 66
Bảng 9: Bảng lương khối công nhân 66
Bảng 10: Mức thưởng vượt kế hoạch dự án 68

Biểu đồ 1: Cơ cấu lao động theo năm kinh nghiệm 58
Biểu đồ 2: Cơ cấu công nhân phân theo bậc 60
Biểu đồ 3: cơ cấu của lao động trực tiếp và lao động giám tiếp 60


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi xã hội càng phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động sản
xuất kinh doanh giữ vai trò ngày càng quan trọng, có ảnh hưởng quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Công tác nghiên cứu, phân tích đánh giá các mặt của
hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế ngày càng được quan tâm trong các doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì yếu tố đầu tiên là nguồn

nhân lực, vì con người là nguồn gốc để sáng tạo ra giá trị mới, có con người thì các
nguồn lực khác mới có khả năng phát huy tác dụng. Đầu tư vào yếu tố quản lý con
người mang lại hiệu quả cao hơn hẳn so với đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và
các yếu tố khác của quá trình sản xuất kinh doanh.
Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong hơn 25 năm qua đã tác động mạnh mẽ
đến dây chuyền sản xuất, cung cách quản lý, đến nếp sống, suy nghĩ của mọi người
và của các doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo cả ở tầng vĩ mô và vi mô
đều phải quan tâm hơn đến vấn đề quản lý nguồn nhân lực một cách khoa học nhằm
nâng cao năng lực của từng cá nhân, từng con người và nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế cũng như của các loại sản phẩm hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam.
Nhân lực luôn được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có thể có công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ tốt, cơ
sở hạ tầng vững chãi, nhưng nếu thiếu lực lượng lao động thì doanh nghiệp đó khó
có thể tồn tại lâu dài và tạo dựng được lợi thế cạnh tranh. Có thể khẳng định rằng
chính con người tạo ra sự khác biệt giữa các doanh nghiệp. Bởi vậy,quản trị nguồn
nhân sự là rất quan trọng, thiết yếu đối với một doanh nghiệp, nó được coi là một
trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Với Công ty cổ phần Đầu tư xây
dựng và Thương mại 3-2, vấn đề quản trị nguồn nhân lực luôn được đặt lên hàng
đầu nhằm điều hành hợp lý quá trình hoạt động của Công ty, bảo đảm để khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực giúp cho Công ty luôn vững vàng, ngày một
phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.

2
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi quyết định chọn đề tài “Quản trị
nhân lực tại Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại 3-2” để thực hiện
luận văn cao học.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về quản trị
nguồn nhân lực, luận văn tập trung đánh giá thực trạng của công tác này tại Công ty

cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại 3-2, làm rõ nguyên nhân; từ đó đề xuất
những giải pháp mới nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng
nguồn nhân lực tại Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác quản trị nhân lực tại Công ty cổ
phần Đầu tư xây dựng và Thương mại 3-2.
Phạm vi nghiên cứu:
Chủ yếu nghiên cứu trong phạm vi các hoạt động gắn trực tiếp với công tác
quản trị nhân lực của Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương mại 3-2, trong
giai đoạn 2006 - 2011; và đặt trong tầm nhìn đến năm 2020
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng một số phương pháp cụ thể thích hợp với đối tượng, mục
đích, nhiệm vụ đã xác định. Trong đó chú trọng kết hợp các phương pháp như:
phương pháp thống kê; phân tích tổng hợp; phương pháp đối chiếu; khái quát hóa
….
5. Một số đóng góp mới của luận văn
Luận văn đề xuất và luận giải một số giải pháp mới nhằm góp phần nâng cao
chất lượng quản trị nhân lực tại Công ty 3-2, bao gồm:
- Nhóm giải pháp đối với công tác tuyển dụng nhân lực
- Nhóm giải pháp đối với công tác sử dụng nguồn nhân lực hiện có
- Nhóm giải pháp về bảo đảm thực hiện các chế độ, chính sách tạo động lực
khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, chất lượng công việc
- Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

3
Đồng thời đề xuất một số kiến nghị quan trọng khác đối với bộ máy lãnh
đạo, quản lý của Công ty 3-2.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn bao gồm 03 chương:
Chương 1:Cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn về quản trị nhân lực tại các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Chương 2:Thực trạng quản trị nhân lực tại Công ty cổ phần Đầu tư xây
dựng và Thương mại 3-2 ( giai đoạn 2006-2011 ).
Chương 3: Phương hướng phát triển sản xuất, kinh doanh của Công ty đến
năm 2020 và một số kiến nghị về quan điểm, giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng quản trị nhân lực tại Công ty 3-2.




4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHU CẦU THỰC TIỄN VỀ
QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
a) Khái niệm chung về nguồn nhân lực
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng được tạo thành bởi các thành viên là con
người hay nguồn nhân lực của nó. Do đó, có thể nói nguồn nhân lực của một doanh
nghiệp bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong doanh nghiệp đó, còn
nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con người, mà nguồn lực này, về cơ bản,
gồm có thể lực và trí lực.
 Thể lực là chỉ sức khỏe của thân thể nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng
sức khỏe của từng con người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc
và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực của con người còn tùy thuộc vào tuổi tác, thời

gian công tác, giới tính…
 Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài năng, năng
khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách… của từng con người. Trong sản
xuất kinh doanh truyền thống, việc tận dụng các tiềm năng về trí lực của con người
bị giới hạn bởi sự yếu kém của khoa học kỹ thuật; còn trong nền kinh tế thị trường
hiện đại, tiềm năng trí lực của con người càng được nhân rộng và hầu như không có
giới hạn.
b) Khái niệm nguồn nhân lực trong phạm vi một doanh nghiệp
Nguồn nhân lực đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành doanh nghiệp
và giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường. Tầm quan trọng của
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp xuất phát từ vai trò quan trọng của con người.
Con người là yếu tố cấu thành nên doanh nghiệp, vận hành doanh nghiệp và quyết

5
định sự thành bại của doanh nghiệp đó. Nguồn nhân lực là một trong những nguồn
lực không thể thiếu của mọi doanh nghiệp.
1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
a) Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động của xã
hội liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực quản lý dân số; nâng cao chất lượng sống
của con người; chăm sóc sức khỏe con người; sử dụng và đào tạo, trí tài thọ; sử
dụng lực lượng lao động hiện có và tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn cũng như về lâu dài.
b) Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi một doanh
nghiệp
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa hẹp) chính là toàn bộ những hoạt động
học tập được doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người
lao động. Các hoạt động đó có thể cung cấp trong vài giờ, vài ngày hoặc thậm chí
tới vài năm, tùy vào mục tiêu học tập; và nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề
nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và

trình độ nghề nghiệp của họ. Như vậy, xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực
bao gồm ba loại hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
- Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người
bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới, thích hợp hơn trong
tương lai.
- Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng): được hiểu là các hoạt động học
tập nhằm giúp cho con người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng,
nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm
vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ,
kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
- Phát triển: là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước
mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở
những định hướng tương lai của doanh nghiệp.

6
1.1.2. Quản trị nhân lực tại các doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường
1.1.2.1. Đặc điểm, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường trên thế giới và
ở Việt Nam hiện nay
a) Đặc điểm, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường trên thế giới
Nền kinh tế thị trường thế giới ở thế kỷ XXI đã, đang và sẽ có những xu
hướng phát triển đặc trưng chủ yếu sau:
 Tự do hóa và đa cực hóa.
Trên cơ sở tự do hóa, xu hướng đa cực hóa cũng đang trở thành phổ biến
trong trật tự mới của kinh tế quốc tế và quốc gia, được biểu hiện qua các khía cạnh:
Thứ nhất: Đa cực hóa về trung tâm tăng trưởng quốc tế và đa dạng hóa các
đồng tiền cực mạnh của thế giới. Thay vì thế giới xoay quanh hai cực với hai siêu
cường là Mỹ và Liên Xô trước kia, đang xuất hiện các trung tâm, các cực tăng
trưởng mới mà về triển vọng trung hạn có thể cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ: EU,
Nhật, Trung Quốc (bao gồm cả Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Macao và có thể

sẽ cả Đài Loan). Còn Liên bang Nga với SNG, hay Ấn Độ cũng như Brazin cũng
sẽ vươn mình lên những tầm cao sứ mạng mới trong tương lai không quá xa. Thời
đại mà đồng USD là “chúa tể” duy nhất trên thị trường tiền tệ thế giới đang suy tàn
cùng với sự xuất hiện đồng EURO và ý tưởng quốc tế hóa cao hơn là đồng nhân dân
tệ của Trung Quốc và đồng Yên Nhật. (Nguồn từ: Tạp chí kinh tế )
Thứ hai: Đa dạng hóa các mô hình phát triển, đa phương hóa việc quản lý và
giải quyết các vấn đề của mỗi quốc gia cũng như quốc tế. Mặc dù cơ chế kế hoạch
hóa tập trung bị thực tế bác bỏ, và cơ chế thị trường mở ngày càng chiếm ưu thế,
song trên toàn thế giới đang và sẽ còn chứng kiến sự nở rộ của các mô hình phát
triển kinh tế khác nhau: mô hình Mỹ, mô hình Thụy Điển, mô hình Hà Lan, mô
hình Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á, mô hình Nam Á, mô hình Niu Di Lân
và gần đây đang xuất hiện mô hình Trung Quốc, không có mô hình nào hoàn hảo và
thích hợp đối với mọi quốc gia. Vấn đề then chốt cho một nền kinh tế thành công là
mô hình được lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh quốc tế, lẫn các điều kiện lịch
sử cụ thể trong nước, đồng thời các nhà lãnh đạo và quản lý của nước đó phải làm
cho nó phù hợp nhất với lý thuyết mà họ ưa thích.

7
Thế giới cũng đang đặt ra nhu cầu và tạo điều kiện thực hiện đa phương hóa
việc quản lý và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển của một quốc
gia, của mỗi khu vực và toàn cầu (nhất là các vấn đề tài chính, tiền tệ, công nghệ,
môi sinh, phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm ). Đã chấm dứt thời mà mỗi nước
đóng cửa để tự giải quyết những vấn đề phát triển của mình, dù đó là vấn đề nhỏ
nhất và nước đó là mạnh nhất thế giới. (Nguồn từ: Tạp chí kinh tế )
Thứ ba: Đa cực hóa các trung tâm tăng trưởng quốc gia. Bên cạnh việc mở
rộng các trung tâm hiện có, ngày càng xuất hiện các trung tâm mới đầy năng động
trong mỗi nước; hơn nữa, chúng có xu hướng chuyển dịch về các vùng biên giới để
hình thành những khu vực “tam giác phát triển”, “tứ giác phát triển”, khai thác được
cùng lúc các lợi thế so sánh và thị trường của nhiều nước láng giềng cùng chung
biên giới, hoặc không. Những khu vực này xuất hiện ngày càng nhiều ở châu Á,

nhất là khu vực Đông Nam Á và Nam Á.
Thứ tư: Đa dạng hóa phạm vi sản xuất - kinh doanh, các mặt hàng, ngành,
nghề chủ lực, nhất là các ngành và mặt hàng hướng xuất khẩu. Đa dạng hóa các bạn
hàng và thị trường của mỗi doanh nghiệp, quốc gia, khối kinh tế.
Thứ năm: Đa dạng hóa thành phần kinh tế, cũng như phối kết hợp ngày càng
linh hoạt và đa sắc hơn các chính sách kinh tế trong cùng một thời điểm và khu vực
địa lý kinh tế. Ranh giới sự phân biệt ngày càng được xóa nhòa hoặc “mềm hóa”, kể
cả không được phép áp dụng cứng nhắc, kéo dài hay đối lập nhau giữa các dự án
đầu tư nhà nước - tư nhân, giữa các chính sách hướng nội với hướng ngoại, giữa các
chính sách thắt chặt - nới lỏng, giữa sản xuất với buôn bán - tiêu dùng và ngay cả
giữa kế hoạch với thị trường.
 Khu vực hóa và toàn cầu hóa
Xu hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét,
bao quát và chi phối toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội quốc gia và quốc tế, với các biểu hiện và yêu cầu:
- Tăng cường sự đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong
phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu.
- Gia tăng khối lượng trao đổi quốc tế trước hết trong các lĩnh vực thương
mại, đầu tư, dịch vụ và lao động.

8
- Gia tăng các yêu cầu và hoàn thiện các định chế quốc tế mang tính chất
khu vực và toàn cầu quản lý các quá trình phối hợp và trao đổi đó. Gia tăng sức
mạnh và khả năng giải quyết các vấn đề quốc gia, khu vực và toàn cầu.
- Có sự đồng nhất ngày càng cao giữa các yêu cầu hội nhập tiểu khu, khu
vực, với hội nhập toàn cầu. Xu thế các doanh nghiệp khu vực hóa mở kiểu APEC sẽ
tăng lên. Bên cạnh đó cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn các loại hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương, khu vực và xuyên khu vực. Đồng thời sẽ ngày càng
đậm nét hơn xu hướng hội tụ của các doanh nghiệp các khối kinh tế khu vực, cũng
như về các yêu cầu chỉ tiêu phát triển kinh tế - tài chính - tiền tệ chủ yếu của các

nước thành viên mà EMU (Liên minh kinh tế - tiền tệ châu Âu) là điển hình nhất.
Có thể nói, bất chấp những biến đổi thăng trầm trong các nền kinh tế và khu
vực cụ thể, bất chấp những “xung khắc” tạm thời và ngày càng mỏng manh giữa xu
hướng khu vực hoá với xu hướng toàn cầu hoá, những nỗ lực và thành quả thúc đẩy
xu hướng hướng tới một sự hội nhập ngày càng đầy đủ hơn và rộng lớn hơn vẫn đang
và sẽ được tiếp tục không hề suy giảm. Khu vực hoá ngày càng biến thành “phòng
chờ” để các nước tham dự vào toàn cầu hoá. Xu hướng này đang bao quát hầu hết các
nước trên thế giới, mà trước hết là các nước lớn, các nền kinh tế quan trọng. Cả hai hệ
thống tài chính và thương mại đang liên tục mở rộng, và nhân loại đang thực sự bước
vào kỷ nguyên của các thị trường toàn cầu được kiểm soát tập thể.
 Tái cơ cấu các sản phẩm, các Công ty và các nền kinh tế trên cơ sở
những công nghệ mới về chất
Mô hình kinh tế thế giới hiện nay là mô hình kinh tế- công nghệ nhân đạo
hơn, trí tuệ hơn, có khả năng tự bảo vệ, vì thế hiệu quả và bền vững hơn. Cùng với
việc tạo ra những công nghệ mới, đang xuất hiện những điều kiện kinh doanh và cơ
cấu tiêu dùng mới. Thế giới ngày càng trở thành mạng lưới dày đặc và nhạy bén
hơn các quan hệ giao tiếp và tương tác lẫn nhau, làm tăng các cơ hội cho tự do cá
nhân, làm xói mòn các lợi thế cũ và tạo ra những sức mạnh, cùng lợi thế mới. Cả ở
cấp vi mô lẫn vĩ mô đang khởi động những quá trình tái cấu trúc vĩ đại chưa từng có
trong lịch sử, trong đó:
Đối với các sản phẩm: đang và sẽ có sự cải thiện căn bản về danh mục,
chủng loại, chất lượng, hình dáng, công dụng và giá cả của hàng loạt sản phẩm,

9
hàng hoá và dịch vụ theo hướng đa dạng hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng hơn,
tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, do đó, phổ cập rộng rãi hơn.
Sẽ xuất hiện hàng loạt sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới. Vòng đời sản phẩm sẽ
ngắn đi, thậm chí rất ngắn. Trong cơ cấu tiêu dùng mới, tỷ trọng lớn sẽ thuộc về
thông tin và những phương tiện cung cấp, xử lý và phân tích thông tin. Đặc biệt, thế
giớ sẽ ngày càng ưa chuộng và mở rộng sản xuất, cũng như tiêu dùng các sản phẩm

xanh, sạch, và bảo vệ sức khoẻ con người bằng những công nghệ có hàm lượng
khoa học ngày càng cao và thân thiện với môi trường. Công nghệ mới khiến giá trị
của thông tin trở nên đắt hơn. Chất lượng nắm bắt, xử lý các thông tin trở thành
nhân tố quyết định chất lượng sống, cũng như sự thành công của mỗi cá nhân và
doanh nghiệp, của mỗi quốc gia và cả khu vực.
Đối với các Công ty: Sẽ có hai xu hướng song song diễn ra. Một mặt, nền
kinh tế quốc gia và thế giới càng lớn và mở rộng hơn thì các Công ty trung bình và
nhỏ sẽ càng thống trị và có tương lai hơn. Các doanh nghiệp sẽ được mô hình hóa
doanh nghiệp theo quy mô nhỏ (thậm chí có Công ty một người), phi tập trung hoá,
giảm bớt các khâu trung gian, cơ cấu thành nhiều đơn vị độc lập, có quyền tự chủ
cao, giảm bớt tệ nạn quan liêu, được chuyên môn hoá cao, có tinh thần hợp tác, hoạt
động mang tính toàn cầu, chặt chẽ và tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng
cao hơn (hiện tại, các Công ty nhỏ dưới 19 người đang tạo ra 50% giá trị hàng xuất
khẩu ở Mỹ và CHLB Đức. Có tới 90% giá trị nền kinh tế Mỹ là do các Công ty
dưới 500 người tạo ra).
Mặt khác, sự hợp nhất để trở thành lớn hơn, mạnh hơn, giảm chi phí và có
sức cạnh tranh hơn, đáp ứng những nhu cầu to lớn của nền kinh tế tương lai sẽ trở
thành xu hướng vận động của các tổ hợp kinh doanh dịch vụ tài chính ngân hàng và
thông tin. Sẽ ngày càng có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia có giá trị tài sản lớn hơn
GDP của một nước, thậm chí của nhiều nước. Các Công ty xuyên quốc gia đang
kiểm soát 2/3 chu chuyển ngoại thương và đầu tư quốc tế và sẽ không mất đi vai trò
to lớn của chúng trong việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế
toàn cầu. Trong tương lai, các Công ty này sẽ được điều chỉnh theo định hướng:
Toàn cầu hoá chiến lược kinh doanh; Đa nguyên hoá các chủ thể đầu tư; Đa dạng
hoá thị trường và lĩnh vực đầu tư; Địa phương hoá xí nghiệp của các Công ty ở

10
nước ngoài, cả về hướng kinh doanh, cơ cấu sản phẩm, công nghệ, nguyên liệu,
nhân lực và vốn đầu tư. (Nguồn: Tạp chí kinh tế).
Đối với các nền kinh tế: Các cấu trúc ngành nghề sẽ chuyển dịch theo hướng:

Thu hẹp và mất đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và xuất
hiện những ngành khai thác, chế biến nguyên liệu mới thích hợp; các ngành dịch vụ
sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận nhất trong nền kinh tế quốc
gia và quốc tế; các công nghệ mới, các xa lộ thông tin, vận tải toàn cầu phát triển,
đang thu hẹp lại khoảng cách của các quốc gia, đồng thời mở rộng giới hạn không
gian kinh tế và sinh tồn của con người lên khoảng không, xuống đáy đại dương hay
các vùng sa mạc, các vùng băng tuyết quanh năm và đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển
các yếu tố của hoạt động tái sản xuất kinh tế - xã hội. Các Công ty và quốc gia
không chỉ lập kế hoạch cho thị trường trong nước, mà còn phải cho cả thị trường
khu vực và toàn cầu. Nền công nghiệp mới, tự động hoá và có tính toàn cầu sẽ xuất
hiện cùng với nền kinh tế thị trường toàn cầu. Chế độ doanh nghiệp lao động của
Công ty và quốc gia cũng thay đổi mạnh, sẽ bớt đi kiểu làm việc tập trung tại công
sở và chế độ ăn lương suốt đời tại một Công ty, một quốc gia.
Con người lao động mới sẽ có tri thức toàn diện hơn, năng động, tự chủ hơn,
di chuyển chỗ làm việc thường xuyên và trên phạm vi ngày càng rộng hơn. Đô thị
hoá sẽ tăng nhanh, các cấu trúc chính trị và giao lưu văn hoá - xã hội quốc gia và
quốc tế sẽ có sự dịch chuyển tương ứng. “Nền kinh tế nợ” sẽ trở thành đặc trưng
cho mọi Công ty và quốc gia. Nói cách khác, mỗi Công ty và mỗi nước sẽ ngày
càng có nhu cầu và khả năng tiếp cận rộng rãi, thường xuyên hơn với các nguồn vốn
bên ngoài, cũng như tích cực đầu tư ra bên ngoài hơn. Tăng trưởng với tốc độ nhanh
nhất so với tất cả các hoạt động kinh doanh khác, các hoạt động tài chính-tín dụng
sẽ ngày càng trở thành vũ khí cạnh tranh và công cụ “đồng hoá” một Công ty, một
quốc gia lợi hại nhất. Tình trạng nợ khó đòi và tín dụng không hiệu quả sẽ ra tăng,
kéo theo những xung lực tiềm ẩn gây bất ổn định thị trường tài chính - tiền tệ quốc
gia và quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu bức bách hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát an toàn tài chính - tín dụng cả ở cấp vi mô lẫn cấp vĩ mô (cấp
quốc gia lẫn khu vực và quốc tế).

11
 Tư duy mới về bàn tay nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường

Thế giới mới đang định hình, đòi hỏi tư duy mới thích ứng về bàn tay quản
lý của nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị trường, tránh các cực
đoan, phiến diện trong nhận thức, tăng cường sự phối hợp đồng bộ các công cụ và
cấp độ quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ động xử lý kịp thời các tác động mặt trái
của chính sách lựa chọn trong thực tiễn bằng hợp lực của sức mạnh doanh nghiệp và
tài chính trong và ngoài nước, với vai trò trung tâm là nhà nước…, với các biểu hiện
và yêu cầu chủ yếu sau:
Một là, không duy ý chí, giáo điều, cực đoan, hoặc quá nhấn mạnh và tuyệt
đối hóa vai trò chỉ huy tập trung, mang tính áp đặt một chiều của nhà nước, hoặc thả
nổi hoàn toàn và đặt toàn bộ quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt có tính đầu
cơ, mù quáng, “bầy đàn” cao của các tín hiệu và sức mạnh thị trường tự do, nhấn
mạnh lợi ích tư nhân, cục bộ và ngắn hạn. Vấn đề then chốt cho một nền kinh tế
thành công là mô hình phát triển được lựa chọn phải phù hợp cả với bối cảnh quốc
tế, lẫn các điều kiện lịch sử cụ thể trong nước, cho phép khai mở, cộng hưởng cao
nhất các tiềm năng và hiệu quả các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước, tham
gia sớm, ngày càng chặt chẽ và hiệu quả vào “chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu”. Đặc
biệt, sự phát triển các tiềm năng và tự do cá nhân; sự hợp tác và thịnh vượng về
kinh tế; sự đồng thuận, dân chủ và gắn kết về xã hội trong một thế giới ngày càng
“phẳng”, hòa hợp và thân thiện hơn với môi trường đang và sẽ ngày càng được coi
là các yếu tố hợp thành chủ yếu, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của văn
minh nhân loại đương đại.
Hai là, chủ động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc
gia trong phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu. Đang qua dần thời mà mỗi nước
đóng cửa để tự giải quyết những vấn đề phát triển của mình, dù đó là vấn đề nhỏ
nhất và nước đó là lớn, mạnh nhất thế giới.
Ba là, vai trò đầu tư trực tiếp ngày càng giảm hoặc được định hướng hỗ trợ
phát triển đầu tư tư nhân. Nhà nước có vai trò ngày càng to lớn trong cuộc chiến với
các chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế bột phát, nhất là khủng hoảng tài chính -
ngân hàng, dư nợ xẩy ra ở trong nước hay nước ngoài, nguyên nhân không trực tiếp
từ sai lầm của chính phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước. Đồng thời, vai trò của


12
công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài
chính - ngân hàng, là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ trong bất luận trường
hợp nào và vào thời điểm nào…Ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa,
dây chuyền có tính hai mặt của các biến cố và chính sách kinh tế trên thị trường trong
nước và quốc tế. Cần dập ngay khủng hoảng từ khi nó còn nhen nhóm, thay vì khi nó
đã trở thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí là khó đo lường.
Bốn là, bàn tay điều chỉnh của nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm
can thiệp hành chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có
tính định hướng và giám sát nhiều hơn, vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị
trường, vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi
ích trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh
nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Tăng cường vai trò của các loại
quỹ bình ổn thị trường và sử dụng linh hoạt các công cụ nợ, biến nợ xấu thành
chứng khoán có thể mua - bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần thiết
và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó.
b) Đặc điểm, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nằm trong khu vực kinh tế năng động và nhạy cảm của nền kinh tế thế giới,
Việt Nam không thể không chịu tác động của những xu hướng phát triển kinh tế
quốc tế chủ yếu nêu trên. Chúng tạo ra nhiều cơ hội quý báu và cả những thách thức
to lớn cho quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế của nước ta mà có thể sơ bộ
nêu ra dưới đây:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế đa sở hữu, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tiếp
tục là lực lượng sản xuất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, chủ yếu hoạt động trong những lĩnh vực thuộc độc quyền nhà
nước liên quan đến an ninh quốc phòng, khai thác các tài nguyên quý, hiếm, hoặc
tham gia kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực nhạy cảm quan trọng, có ý nghĩa
chiến lược, đảm bảo cơ sở cho sự ổn định lành mạnh và định hướng sự phát triển
chung của nền kinh tế quốc gia.

Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng tất yếu hội nhập quốc tế
hóa – nói cách khác, nó ngày càng gắn bó mật thiết với nền kinh tế thị trường khu
vực và toàn cầu. Tính chất quốc tế hóa này bao phủ ngày càng đậm nét và xuyên

13
suốt các quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, từ việc tiếp cận các yếu
tố “đầu vào” (nguyên liệu, công nghệ, nguồn vồn, thiết bị máy móc, kể cả nhân
lực), đến quá trình doanh nghiệp quản lý bên trong doanh nghiệp (cơ cấu doanh
nghiệp, công nghệ quản lý, các tiêu chuẩn chất lượng), cũng như việc thực hiện
“đầu ra” cho các hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp (thị trường, đối tác
và các luật lệ, thể chế quốc tế). Sẽ ngày càng giảm dần sự khác biệt giữa các loại
hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và tính chất trong nước - nước ngoài của
các doanh nghiệp, cũng như các thị trường. Các Công ty cổ phần, đa sở hữu sẽ ngày
càng trở thành hình thức chủ yếu trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các
Công ty tư nhân và Công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn hơn và có đóng góp ngày càng quan trọng hơn, trở thành động lực chính cho sự
phát triển kinh tế tương lai của mỗi địa phương, cũng như cả nước. Sự hợp tác, gắn
kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sẽ ngày càng đậm nét và hiệu quả hơn, cũng như
ngày càng trở nên phức tạp, với sự tham gia đồng thời của tất cả các doanh nghiệp
với đủ loại hình, quy mô, tính chất và trình độ phát triển khác nhau, ngày càng
mang tính liên cấp, liên ngành, liên quốc gia trong sự tuân thủ các luật chơi và tiêu
chuẩn chất lượng đồng nhất.
Mỗi doanh nghiệp sẽ vừa có sự chuyên môn hóa sâu trong sản xuất - kinh
doanh, vừa có sự năng động cao, sẵn sàng điều chỉnh, thay đổi, đa dạng hóa các
mẫu mã, sản phẩm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước những biến động nhanh
chóng của thị trường và đơn đặt hàng của đối tác. Các doanh nghiệp ngày càng đòi
hỏi lực lượng lao động có trình độ, chất lượng cao. Lao động trong các doanh
nghiệp và trên thị trường lao động nói chung cũng sẽ có tính linh hoạt nhiều hơn và
dần phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Nhu cầu thành lập hiệp hội những người
chủ sử dụng lao động sẽ ngày càng đậm nét. Xuất hiện ngày càng phổ biến các hiện

tượng phá sản, giải thể, chia tách và sáp nhập, mua bán chuyển nhượng các doanh
nghiệp, các cổ phần, cổ phiếu doanh nghiệp; Bên cạnh đó, những khả năng và biểu
hiện độc quyền kinh tế kiểu mới, phi truyền thống, phi hành chính sẽ ngày càng
hiện hình trong sự đa dạng, thậm chí rất tinh vi của nó. Các tranh chấp và chấn động
kinh tế, thương mại, lao động và các dạng tội phạm khác cả truyền thống và phi
truyền thống, ngày càng mang tính quốc tế và liên ngành, sẽ ảnh hưởng tới doanh

14
nghiệp nhiều hơn, các vấn đề phát sinh trực tiếp và gián tiếp từ quá trình sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng với mức độ phức tạp và gây hậu quả
nặng nề hơn.
Thứ hai, đó là nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc cơ chế thị trường
mở, có sự điều tiết của nhà nước pháp quyền XNCH. Môi trường đầu tư - kinh
doanh sẽ ngày càng bình đẳng và đồng nhất hoá giữa các loại hình doanh nghiệp, và
phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Sẽ có sự phân biệt rành mạch hơn
chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh. Nhà nước sẽ chủ yếu can
thiệp gián tiếp vào doanh nghiệp thông qua sử dụng đồng bộ các công cụ kinh tế -
hành chính (trong đó công cụ kinh tế thị trường là chủ yếu) điều chỉnh "nồng độ" môi
trường đầu tư - kinh doanh để định hướng hoạt động của các doanh nghiệp theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch đã thông qua, phù hợp đòi hỏi của thị trường. Các cơ quan
tư pháp sẽ được củng cố, được tôn trọng và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn. Các
thiết chế thị trường sẽ được hình thành và phát triển đồng bộ, lành mạnh và ngày
càng đóng vai trò ngày càng quan trọng, nó sẽ trực tiếp nuôi dưỡng, thẩm định và
phán quyết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đoàn thể, hiệp
hội ngành nghề của doanh nghiệp cũng sẽ có sự phát triển, mở rộng quy mô, tính chất
để trở nên có tính “mở” hơn, mang tính thị trường hơn, bao quát và thu hút ngày càng
rộng rãi hơn các doanh nghiệp hội viên, không phân biệt nguồn gốc sở hữu, loại hình
doanh nghiệp và tính chất ngành nghề, địa phương. Vai trò hoạt động của các hiệp
hội doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ sẽ ngày càng tăng và được củng cố
trong nề kinh tế, đồng thời mở rộng dần sang lĩnh vực xây dựng chính sách, cải thiện

môi trường đầu tư và cả các lĩnh vực chính trị -xã hội khác.
Thứ ba, đó là nền kinh tế ngày càng hướng vào khai thác các động lực và đáp
ứng các yêu cầu phát triển theo chiều sâu và bền vững. Khoa học công nghệ (nhất là
công nghệ sạch, hiện đại), khả năng lao động tự giác, sáng tạo và trách nhiệm đạo
đức của người lao động được tôn trọng (đặc biệt là bộ phận nhân lực trình độ, chất
lượng cao; các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà khoa học, tư vấn các
doanh nhân, các chuyên gia và thợ giỏi ) và ngày càng trở thành động lực phát
triển kinh tế mạnh nhất của đất nước. Thông tin, khoa học - công nghệ và nhân tài
trở thành động lực chính cho sự phát triển doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp

15
trở thành một nghề chuyên nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp thành công thường
là các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thành công thương hiệu, cũng như văn hóa
kinh doanh đặc sắc của mình và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội có liên quan
của doanh nghiệp. Các yêu cầu bảo vệ môi sinh, bảo vệ thiên nhiên, tiết kiệm năng
lượng, giảm thiểu chất phát thải và phế liệu sản xuất sẽ ngày càng được đề cao,
kiểm soát chặt chẽ với sự phát động, thúc đẩy và kiểm soát ngày cang nghiêm ngặt
và hiệu quả hơn của bàn tay Nhà nước…Đặc biệt, sự phát triển các tiềm năng và tự
do cá nhân; sự hợp tác và thịnh vượng về kinh tế; sự đồng thuận, dân chủ và gắn kết về
xó hội trong một thế giới ngày càng “phẳng”, hòa hợp và thân thiện hơn với môi trường
đang và sẽ ngày càng được coi là các yếu tố hợp thành chủ yếu, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển của đất nước trong nền văn minh nhân loại đương đại.
Điều quan trọng là cần chủ động tìm ra một hướng đi thích hợp, bền vững.
Đặc biệt, cần chủ động thực hiện hiệu lực và hiệu quả vai trò của bàn tay Nhà nước
với tư cách người khởi xướng, định hướng và thúc đẩy chung, thông qua những quy
hoạch, kế hoạch, đề án và dự án tổng thể, chung và chuyên ngành thích hợp, cùng
với sự hỗ trợ của các công cụ thuế, đầu tư, thông tin, các hoạt động đào tạo, xúc tiến
đầu tư, xúc tiến thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh có tính định hướng
cao, cũng như tăng cường các hoạt động điều tiết và giám sát khác giúp các doanh
nghiệp Việt Nam tăng sức cạnh tranh trong kinh tế thị trường; bảo đảm ổn định hợp

đồng và thị trường; tăng gắn kết kinh tế, giảm chi phí kinh doanh; phát triển theo
hướng hiện đại hoá, quốc tế hoá và bền vững hơn.
1.1.2.2 Vị trí, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh thế thị trường và những
yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc quản trị nguồn nhân lực tại doanh nghiệp
a) Vị trí, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh thế thị trường
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ
yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của
doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức
sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết
định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân
sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá
đói, giảm nghèo

16
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu
lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp tăng
nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh
hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Có thể nói, sự phát triển đồng bộ, mạnh mẽ và có hiệu quả của hệ thống
doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn
quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội.
b) Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với việc quản trị nguồn nhân lực tại
doanh nghiệp
Với thực trạng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay thì đến 2020 cũng chỉ có
50% lực lượng lao động được thông qua đào tạo (chưa bàn đến chất lượng có phù
hợp hay không). Thực trạng này đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải chủ động phát triển nguồn nhân lực của chính mình. Doanh nghiệp không nên

và cũng không thể trông chờ, ỷ lại vào hệ thống giáo dục đào tạo, mà phải chủ
động, tích cực phát triển nguồn nhân lực của chính mình. Việc đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cần đi vào thực chất là nâng cao năng lực thực hiện các kỹ năng
chuyên môn và năng suất của người lao động nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh
nghiệp chứ không phải số lớp, buổi học được thực hiện hay bằng cấp đạt được. Để
việc đào tạo và phát triển nhân lực của doanh nghiệp đi vào thực chất là nâng cao
năng lực thực hiện của người lao động nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp,
cần lưu ý là các chương trình đào tạo và phát triển nhân lực nên sử dụng Tiếp cận
Năng lực (competency approach) trong phát triển những năng lực cần thiết cho
người lao động. Alan Greenspan – Cựu chủ tịch Quỹ Dự Trữ liên bang Hoa kỳ đã
nói: “Những người lao động ngày nay phải được trang bị không chỉ đơn giản là các
bí quyết kỹ thuật mà còn với các năng lực để sáng tạo, phân tích và chuyển hóa
thông tin và để tương tác hiệu quả với những người khác”.
Nâng cao năng lực thực hiện của người lao động đòi hỏi tư duy tổng thể,
toàn diện và chiến lược về nguồn nhân lực. Trong bối cảnh ngày nay, nhân lực đã
trở thành một chủ đề có tính chiến lược. Xử lý và giải quyết vấn đề nhân lực phải

17
xuất phát từ tầm nhìn, chiến lược, và các mục tiêu của doanh nghiệp. Chính tầm
nhìn, chiến lược phát triển của doanh nghiệp mới giúp xác định nhu cầu nhân lực về
số lượng và chất lượng: cần loại người nào, kiến thức, thái độ, kỹ năng gì để từ đó
có chiến lược thu hút, hấp dẫn, động viên, và đào tạo phù hợp. Rất nhiều doanh
nghiệp hiện nay không có chiến lược phát triển hoặc nếu có thì nó cũng có chất
lượng chưa cao, và vì vậy cần tập trung cho chiến lược này. Theo đó, đồng thời việc
đào tạo và phát triển năng lực cho người lao động, cần chú trọng nhiều hơn tới ý
thức, thái độ, và tình cảm của người lao động cũng như chú trọng vào việc đổi mới
việc quản lý nhân lực gắn liền với xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp,
Bill Kline, Giám đốc Phụ trách học tập của Delta Air Lines đã nói: “Bạn có thể thực
hiện tất cả những hoạt động đào tạo và phát triển bạn muốn và tạo ra tất cả mọi thứ
mà bạn nghĩ là quan trọng. Nhưng, điều làm cho doanh nghiệp của bạn hoạt động

nằm ở trái tim, tâm hồn và khối óc của những người lao động của bạn”.
1.1.2.3. Khái niệm về quản trị nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
Mục tiêu cơ bản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là sử dụng một cách có
hiệu suất nguồn nhân lực để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp đó. Quản trị nhân
lực nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số lượng và chất lượng lao động cần thiết cho
doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đặt ra. Quản trị nhân lực giúp tìm kiếm và phát
triển những hình thức, những phương pháp tốt nhất để người lao động có thể đóng
góp nhiều sức lực cho việc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời cũng
tạo cơ hội phát triển không ngừng của chính bản thân người lao động.
Có nhiều cách hiểu về Quản trị nhân lực (còn gọi là Quản trị nhân sự, Quản
lý nhân sự, Quản lý nguồn nhân lực). Khái niệm Quản trị nhân lực có thể được trình
bày ở nhiều giác độ khác nhau:
 Với tư cách là một trong những chức năng cơ bản của quản trị doanh
nghiệp QTNL bao gồm hoạch định (kế hoạch hóa) doanh nghiệp, chỉ huy và kiểm
soát các hoạt động nhằm thu hút, sử dụng và phát triển con người để có thể đạt được
các mục tiêu của doanh nghiệp.
 Đi sâu vào công việc của QTNL, là tất cả các hoạt động của một doanh
nghiệp để thu hút, xây dựng, phát triển, sử dụng, động viên và cung cấp tiện ghi cho
nhân lực.

18
 Song dù ở giác độ nào thì QTNL vẫn là tất cả các hoạt động của một
doanh nghiệp để thu hút, xây dựng, phát triển, sử dụng, đánh giá, bảo toàn và giữ
gìn một lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu công việc của doanh nghiệp cả về
mặt số lượng và chất lượng.
Không một hoạt động nào của doanh nghiệp mang lại hiệu quả nếu tách rời
“Quản trị nhân lực”. Quản trị nhân lực là bộ phận cấu thành không thể thiếu của
quản trị kinh doanh. Quản trị nhân lực thường là nguyên nhân của thành công hay
thất bại trong các hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Thực chất của QTNL là công tác quản lý con người trong phạm vi nội bộ một

doanh nghiệp, là sự đối xử của doanh nghiệp đối với người lao động. Nói cách khác,
QTNL chịu trách nhiệm về việc đưa con người vào doanh nghiệp giúp cho họ thực
hiện công việc, thù lao cho sức lao động của họ và giải quyết các vấn đề phát sinh.
1.1.2.4. Những nội dung chủ yếu của công tác quản trị nhân lực trong doanh nghiệp
a) Tuyển dụng nhân lực
Quá trình tuyển dụng nhân lực là quá trình đánh giá các ứng viên theo nhiều
khía cạnh khác nhau dựa vào yêu cầu của công việc, để tìm được những người phù
hợp với các yêu cầu đặt ra trong số những người đã thu hút trong quá trình tuyển
mộ. Cơ sở của tuyển chọn là các yêu cầu của công việc đã được đề ra theo bản mô
tả công việc và bản yêu cầu đối với người thực hiện công việc. Quá trình tuyển chọn
phải đáp ứng được các yêu cầu dưới đây:
- Tuyển chọn phải xuất phát từ kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch
nguồn nhân lực.
- Tuyển chọn được những người có trình độ chuyên môn cần thiết cho
công việc để đạt tới năng suất lao động và hiệu suất công tác cao.
- Tuyển được những người có kỷ luật, trung thực, gắn bó với công việc và
doanh nghiệp
Quá trình tuyển dụng nhân lực là khâu quan trọng nhằm giúp cho các nhà
quản trị nhân lực đưa ra được các quyết định tuyển dụng một cách đúng đắn nhất.
Quyết định tuyển dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với thực hiện chiến lược kinh
doanh của các doanh nghiệp, bởi vì quá trình tuyển chọn tốt sẽ giúp cho các doanh
nghiệp có được những người có kỹ năng phù hợp với sự phát triển của doanh
nghiệp trong tương lai. Tuyển chọn tốt cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được

×