Mục lục
I.Cơ sở lí thuyết 3
1.Lạm phát 3
a.Khái niệm: 3
b.Thước đo lạm phát: 3
2.Tiền tệ và lạm phát 4
3.Chính sách tiền tệ trong việc đối phó với lạm phát: 4
a.Khái niệm CSTT: 4
b.Các công cụ của CSTT: 4
II.Thực trạng lạm phát Việt Nam từ năm 2007 đến nay 5
1.Diễn biến: 5
a.Giai đoạn 2007-2008: lạm phát tăng cao 5
b.Năm 2009: diễn biến lạm phát khá trầm lắng 7
c.Từ năm 2010 đến nay: diễn biến bất thường 8
2.Nguyên nhân: 9
III.Vai trò của CSTT trong việc đối phó với lạm phát của Việt Nam từ
2007 đến nay 11
1.Thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát của Việt Nam
từ 2007 đến nay: 11
a.Giai đoạn thắt chặt CSTT từ năm 2007-2008 11
b.Giai đoạn nới lỏng CSTT cuối năm 2008 đến tháng 10/2010: 14
c.Giai đoạn thắt chặt từ cuối năm 2010 - đầu 2011: 15
2.Đánh giá CSTT của việt Nam trong việc đối phó với lạm phát giai đoạn 2007
đến nay 17
3.Đề xuất: 18
MỞ ĐẦU
Lạm phát luôn là vấn đề kinh tế vĩ mô được quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia.
Hiện nay, ở Việt Nam, sự gia tăng liên tục về giá của các mặt hàng thiết yếu như
xăng, gas, điện…đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống.
“Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là bản chất của tiền tệ”,vì vậy chính sách tiền
tệ là một trong những chìa khóa hữu hiệu nhằm kiểm soát và giải quyết vấn đề lạm
phát.
Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, thị trường mở rộng hơn, lạm
phát cũng diễn biến phức tạp và khó kiểm soát hơn. Cũng chính vì vậy, chính sách
tiền tệ ở Việt Nam đòi hỏi cần phải linh hoạt hơn để phù hợp với tình hình Việt Nam
trong bối cảnh chịu sự tác động của nền kinh tế thế giới.
Bởi những lí do trên, đề tài của nhóm em là “Chính sách tiền tệ trong việc đối
phó với lạm phát ở Việt Nam từ năm 2007 đến nay” với hi vọng phần nào mang đến
cái nhìn khái quát nhất về việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước để kiểm soát
lạm phát trong thời gian gần đây.
2
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí thuyết
1. Lạm phát
a. Khái niệm:
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung P theo thời gian.
Mức giá chung P : chỉ số chung về giá cả.
2 chỉ số chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số điều chỉnh GDP
b. Thước đo lạm phát:
Chỉ số giá tiêu dùng CPI- Consumer Price Index
CPI phản ánh sự biến động giá cả các giỏ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng điển
hình
Công thức Laspeyres:
100*
QP
QP
t
CPI
0
i
0
i
0
i
t
i
∑
∑
=
Trong đó: CPI
t
là chỉ số giá tiêu dùng trong thời kỳ t
P
i
là giá mặt hàng tiêu dùng thứ i/nhóm hàng i
Q
i
là lượng hàng tiêu dùng thứ i/nhóm hàng i
Chỉ số điều chỉnh GDP:
Chỉ số so sánh giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế để thấy sự biến động
của giá cả hàng hóa sản xuất trong nước.
Chỉ số điều chỉnh
100*
QP
QP
100*
GDP
GDP
GDP
t
i
0
i
t
i
t
i
t
r
t
n
t
∑
∑
==
Trong đó P
t
và P
t-1
là chỉ số giá của thời kỳ t và thời kỳ (t-1)
Q
t
i
là lượng hàng hoá sản xuất và bán ra ở kỳ t
Tỉ lệ lạm phát:
Tỉ lệ lạm phát thời kì t =
100*
P
PP
1t
1tt
−
−
−
(%)
Trong đó: P
t
là chỉ số giá của thời kỳ t
P
t-1
là chỉ số giá của thời kỳ (t-1)
(Có thể tính theo CPI hoặc chỉ số điều chỉnh GDP)
3
2. Tiền tệ và lạm phát
Phương trình số lượng: MV=PY
M: cung tiền V: tốc độ chu chuyển tiền tệ
Y: sản lượng P: giá của 1 đơn vị sản lượng
MS=m.B B: cơ sở tiền tệ gồm tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền dự trữ
m=(cr+1)/(cr+rr)
cr: tỉ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng so với tiền gửi
rr: tỉ lệ dự trữ thực tế = dự trữ bắt buộc + dự trữ dôi ra
Lạm phát xảy ra khi lượng tiền cung ứng M tăng nhanh hơn sản lượng Y.
3. Chính sách tiền tệ trong việc đối phó với lạm phát:
a. Khái niệm CSTT:
CSTT là chính sách kinh tế vĩ mô mà NHTW sử dụng để làm thay đổi lượng
tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế đã đề ra từ trước.
Phân loại: CSTT mở rộng và CSTT thắt chặt.
b. Các công cụ của CSTT:
- Tỉ lệ dự trữ bắt buộc
- Thị trường mở
- Lãi suất
Trong trường hợp lạm phát tăng cao, để giảm lạm phát, NHTW có thể thực
hiện tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản đối với
đồng nội tệ, bán trái phiếu chính phủ cho công chúng qua thị trường mở.
4
tăng tỉ lệ
dự trữ bắt buộc
tăng
số nhân m
bán trái phiếu chính
phủ cho công chúng
thu tiền về
tăng lãi suất
tái chiết khấu
các NH giảm
vay tiền NHTW,
tăng dự trữ
cung tiền giảm
tãi suất tăng
đầu tư
giảm
AD
giảm
P giảm,
Y tăng
II.Thực trạng lạm phát Việt Nam từ năm 2007 đến nay
1. Diễn biến:
Năm 2007 2008 2009 2010
Mức tăng CPI so với tháng 12 năm trước 12,63 19,89 6,52 11,75
Mức tăng CPI bình quân năm so với năm trước 8,30 22,97 6,88 9,19
Đặc điểm chung diễn biến lạm phát Việt Nam qua các năm: lạm phát theo chu
kì, thường tăng mạnh vào các tháng cuối năm và đầu năm do nhu cầu mua sắm Tết.
Tuy nhiên những năm gần đây mức biến động ngày càng mạnh và CPI trong năm
2008, đầu năm 2009, những tháng đầu năm 2011 đã phá vỡ quy luật đó.
a. Giai đoạn 2007-2008: lạm phát tăng cao
CPI bắt đầu tăng mạnh vào 2 quý cuối năm 2007. Chỉ số giá tăng trung bình
khoảng 1,14%/tháng. Việc tăng chỉ số giá mạnh vào cuối năm 2007 đã đẩy CPI năm
này lên 12,63%, trong đó nhóm lương thực thực phẩm có mức tăng cao nhất. Lạm
phát năm 2007 vượt xa mức 8,5% mà Quốc hội đã đề ra.
5
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tiếp tục đà tăng từ cuối năm 2007, mức tăng CPI liên tục đạt trên 2% từ tháng
12/2007 đến tháng 6/2008.
Chỉ số lạm phát tháng 2/2008 lên tới 3,56% so với tháng 1/2008 và 15,7% so
với tháng 2/2007, mức tăng cao nhất trong hơn 12 năm và cũng là tỉ lệ cao nhất tại
khu vực Đông Nam Á trong khi đó lạm phát ở Trung Quốc chỉ ở mức 7,1 % và
Indonesia là 7,4 %.
Đến tháng 3/2008, lạm phát đạt 9,19% so với tháng 12/2007 đã vượt qua mức
theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008 là thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP (8,5%
-9%).
6
Tháng 5/2008, CPI đạt mức tăng cao kỉ lục 3,91%, CPI tăng 25,2% so với
tháng 5/2007.
Tháng 6/2008, CPI tăng 2,14% so với tháng 5, là mức tăng thấp nhất tính từ
đầu năm. Trong 6 tháng đầu năm, bình quân chỉ số CPI tăng 2,86%/tháng.
CPI bắt đầu có xu hướng giảm tăng nóng từ tháng 7/2008. Mức tăng CPI tháng
9 giảm xuống còn 0,18% so với tháng trước và đạt âm trong cả 3 tháng quý
IV/2008, lần lượt là -0,19%, -0,76%, -0,68%.
Lạm phát năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại, đồng thời
cũng là năm có diễn biến khó lường, vượt qua quy luật thông thường. CPI tăng cao
liên tục trong cả 2 quý đầu năm, sau đó lại giảm liên tục trong quý IV.
b. Năm 2009: diễn biến lạm phát khá trầm lắng
Tiếp nối đà giảm giá từ nửa cuối năm 2008, CPI đầu năm 2009 không chứng
kiến mức tăng đáng kể. Tháng 2 CPI tăng 1,17% thì tháng 3 lại giảm 0,17%. Tỉ lệ
lạm phát quý I/2009 đạt gần 14,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong các tháng tiếp
theo CPI cũng tăng nhẹ. Tháng 6/2009, lạm phát giảm xuống 3,9% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Tháng 12, CPI tăng trên 1% do theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu
thường tăng giá trước Tết nguyên đán.
Cả năm 2009, CPI tăng 6,88% so với năm trước trong đó tăng mạnh nhất là
nhóm nhà ở vật liệu xây dựng (tăng 12,6%), tiếp đến là nhóm phương tiện đi lại,
bưu điện (11,8%) (do điều chỉnh giá xăng dầu). Nhóm chiếm tỉ trọng lớn nhất trong
7
cơ cấu tính CPI là lương thực thực phẩm tăng 5,8%. Nhóm giáo dục tăng 6,1% do
điều chỉnh học phí và nhập học tháng 9.
c. Từ năm 2010 đến nay: diễn biến bất thường
Nền kinh tế được đánh giá tăng trưởng khá nhanh trong năm 2010 với nhiều
chỉ tiêu tăng trưởng ấn tượng. GDP cả năm tăng 6,78% cao hơn chỉ tiêu đề ra là
6,5%. Tuy nhiên, mức tăng CPI lên tới 11,75% trong khi kế hoạch đề ra không quá
7%, con số báo cáo QH cũng chỉ dao động thêm 1% (khoảng 7 - 8%) đã khiến cho
mức tăng trưởng nhanh của nền kinh tế không còn nhiều ý nghĩa.
Diễn biến lạm phát năm 2010 vẫn đúng với quy luật tăng cao trong các tháng
đầu năm và cuối năm nhưng có điểm khác biệt cơ bản là mức tăng có độ vênh lớn,
tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%.
Ba tháng đầu năm CPI tăng cao nhưng ngay sau đó có liền 5 tháng tăng thấp về
gần mức 0%, để rồi lại vượt lên trên 1% trong 4 tháng còn lại của năm.
Lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu
hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục
tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực hiện được.
Trong 4 tháng chỉ số giá tăng vượt 1% đó thì 2 tháng cuối năm CPI đạt mức
tăng gần 2%, tạo thành xu hướng tăng mạnh mẽ.
Cuối năm 2010, lạm phát cán đích ở mức 11,75% so với tháng 12/2009 với
mức tăng cao nhất thuộc nhóm giáo dục (19,38%), ăn uống (16,18%), nhà ở và vật
8
liệu xây dựng (15,74%). Đây đều là những nhóm hàng thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống, sinh hoạt của người dân.
Chỉ số giá tiêu dùng trong 4 tháng đầu năm 2011 hình thành xu hướng tăng dần
qua các tháng. CPI tháng 1 tăng 1,74%. Mức tăng CPI tháng 2/2011 đã vượt quá
mốc 2% đạt 2,09%, tháng 3/2011 đạt 2,17%, và đến tháng 4 thì mức tăng CPI là
3,32%, cao nhất trong khoảng 3 năm trở lại đây (Trước đó, mức cao hơn thuộc
về tháng 5/2008).
Như vậy, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 9,64% so với
tháng 12/2010, vượt xa mục tiêu 7% đặt ra hồi đầu năm và đã ở rất gần mức 2 con
số. CPI bình quân 4 tháng đầu năm cũng đã tăng 13,95% so với cùng kì.
Đáng chú ý là, CPI tháng 3/2011 xuất hiện sự bất thường so với nhiều năm
trước đây. Tính từ năm 1995 đến nay, chưa có năm nào chỉ số giá tiêu dùng tháng 3
tăng cao hơn tháng 2, xét trong mức so sánh với tháng trước đó. Thêm vào đó, CPI
tháng 4 tiếp tục tăng rất mạnh, mức tăng cao nhất so với tháng 4 các năm kể từ
1995, cao hơn tới 1,12% so với tháng về nhì (4/2008). Một số chuyên gia cho rằng
đây vẫn chưa là đỉnh của lạm phát năm nay.
2. Nguyên nhân:
Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm
phát tiền tệ (đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Năm 2007, Việt
Nam chính thức gia nhập WTO, dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng
mạnh. Với việc tung một khối lượng lớn tiền đồng để mua ngoại tệ từ các nguồn
đổ vào nước ta (nhằm giữ tỉ giá), lượng tiền trong lưu thông đã tăng trên 30%,
hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng tín
dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm
2007 và có thể cả những năm sau.
Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh
nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu
nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi
về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện
trong một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm
9
phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá
xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so
với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi
đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp.
Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch
vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản
phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng
mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu
chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
Bên cạnh đó là quyết định tăng giá xăng, dầu, điện nước… thường được đưa ra
vào các dịp đầu năm cũng là nguyên nhân làm chi phí nhiều ngành sản xuất bị
đẩy cao.
Ngoài ra còn cần kể đến yếu tố tâm lí người dân. Giá vàng tăng cao, giá USD
trong nước tăng dù giá thế giới giảm, những diễn biến xấu đi của lạm phát
trong nước khiến người dân mất lòng tin vào tiền đồng, chuyển sang đầu tư vào
vàng và ngoại tệ càng làm đồng nội tệ mất giá. Thực tế cho thấy giá cả thường
có xu hướng tăng khi có thông tin nhà nước tăng lương cơ bản. Mặt khác người
dân có tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn
tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên và gây ra lạm
phát. Một ví dụ tiêu biểu là những cơn sốt gạo năm 2008. Tháng 4/2008, tin đồn
Việt Nam thiếu nguồn cung do xuất khẩu hết gạo đã khiến gạo tăng giá. Người
dân lo lắng tranh nhau đi mua gạo tích trữ càng đẩy giá lên cao hơn. Bên cạnh
đó lại xuất hiện những kẻ đầu cơ tích trữ gạo. Gạo tăng giá làm các mặt hàng
lương thực thực phẩm khác cũng tăng mạnh, có những mặt hàng tăng giá gấp
đôi, gấp ba.
10
III. Vai trò của CSTT trong việc đối phó với lạm phát của Việt
Nam từ 2007 đến nay
1. Thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát của Việt
Nam từ 2007 đến nay:
CSTT từ 2007-nay có thể chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thắt chặt từ 2007- 2008
- Giai đoạn nới lỏng cuối 2008- 10/2010
- Giai đoạn thắt chặt từ cuối 2010- đầu 2011
a. Giai đoạn thắt chặt CSTT từ năm 2007-2008
NHNN đã sử dụng đồng bộ các công cụ của CSTT như:
- Tăng mức dự trữ bắt buộc
- Tăng lãi suất
- Nghiệp vụ thị trường mở
i. Tăng mức DTBB
Việc tăng trưởng tín dụng quá nóng bắt đầu được nhìn nhận là nguyên nhân
dẫn đến lạm phát gia tăng.
Ngay lập tức Ngân hàng Nhà nước đã tìm đến những biện pháp hút tiền tư
lưu thông về => Tăng mức DTBB đối với tiền gửi VND dưới 12 tháng lên 10% (kể
từ ngày 01/06/2007) và 11% (kể từ tháng 3/2008).
Với quyết định này, các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho Ngân
hàng Nhà nước với số tiền tổng cộng là gần 20.000 tỷ đồng.
Biến động tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VNĐ ngắn hạn (%)
Nguồn: NHNN Việt Nam
11
ii. Tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu kể từ ngày 1/2/2008
Cụ thể
- Lãi suất cơ bản từ 8,25% tăng lên 8,75%/năm;
- Lãi suất tái cấp vốn từ 6,5% tăng lên 7,5%/năm;
- Lãi suất chiết khấu từ 4,5% tăng lên 6%/năm.
Tuy nhiên liều lượng của biện pháp tăng lãi suất là không đủ và lạm phát vẫn
tiếp tục tăng cao trong tháng 3 và tháng 4.
Cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước cũng quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 12%
lên 14% vào ngày 11/6/2008.
Nguồn: giavang.com
Tác dụng:
12
- Với việc tăng lãi suất cơ bản này, các NHTM đã có thể tăng lãi suất huy
động lên đến 21%/năm một cách hợp pháp và không chịu sự ràng buộc của các
mệnh lệnh hành chính như trước đó.
- Biện pháp này đã cứu nguy tình trạng thiếu thanh khoản của các NHTM
=> vốn huy động đã tăng lên mặc dù vẫn ở mức khiêm tốn nhưng cũng đủ đảm bảo
khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng.
- Lãi suất huy động tăng cao kéo theo lãi suất cho vay tăng cao cũng
khiến cho tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm mạnh.
Công cụ tăng lãi suất đã có tác dụng ngay lập tức, lạm phát trong tháng
6 đã có dấu hiệu tăng chậm lại với chỉ số giá tiêu dùng CPI chỉ tăng 2,14%, chậm
hơn nhiều so với tháng 5 trước đó.
iii. Nghiệp vụ thị trường mở:
Ngày 15/2/2008, Ngân hàng Nhà nước quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng
tín phiếu bắt buộc các TCTD mua 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc có kỳ hạn 12 tháng
với lãi suất chỉ có 7,58%/năm và không được sử dụng để tái chiết khấu tại NHNN,
để giảm lượng tiền trong lưu thông. Tổng cộng 41 ngân hàng thương mại đã phải
mua tín phiếu đúng thời hạn và đủ số lượng đặt ra.
Tác dụng của các công cụ của CSTT: giảm lượng tiền lưu thông => kiềm chế
lạm phát
Hạn chế: Những biện pháp hút tiền tư lưu thông về của Ngân hàng Nhà nước
được áp dụng một cách dồn dập và đã gây sốc cho các ngân hàng thương mại, khiến
cho tình hình thanh khoản của những ngân hàng lâm vào cảnh khó khăn, đặc biệt là
những ngân hàng nhỏ. Tình trạng thiếu thanh khoản của nhiều ngân hàng cổ phần
thậm chí ở trong tình trạng báo động, buộc họ phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất rất cao, có lúc lên đến 30%/năm đối các khoản vay qua đêm.
Chỉ trong vòng 1 tuần Ngân hàng Nhà nước lại bơm ra 33.000 tỷ đồng thông qua
nghiệp vụ thị trường mở (nơi mua bán các loại giấy tờ có giá như tín phiếu, trái
phiếu…) nhằm cứu nguy cho tình trạng thiếu thanh hoản của các ngân hàng thương
mại.
13
Kết cục là động thái này triệt tiêu tác dụng của việc hút tiền từ lưu thông về. Hệ
quả của những biện phát bất nhất này không những không làm lạm phát giảm mà
thậm chí còn tăng cao hơn trong tháng 4 và tháng 5. Theo Tổng cục Thống kê, giá
tiêu dùng tháng 5 tăng đến 3,91% so với tháng trước, cao nhất so với các tháng từ
đầu năm đến nay, đưa tốc độ tăng giá sau 5 tháng lên đến 15,96% so với tháng
12.2007.
b. Giai đoạn nới lỏng CSTT cuối năm 2008 đến tháng 10/2010:
Khủng hoảng tài chính quốc tế tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước, áp
lực giảm phát xuất hiện. Để phục hồi kinh tế, NHNN đã thực hiện CSTT nới lỏng
theo hướng
i. Giảm các mức lãi suất
- Cuối 2008-2009 lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu giảm
từ 6-7%. Cụ thể:
Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm
xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái
chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm).
- Đến tháng 10 năm 2010, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức
8%/năm. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều giảm
=> tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng cho
nền kinh tế
Lãi suất chủ đạo của NHNN Việt Nam năm 2008 và 2009
Nguồn: số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
14
ii. Giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi VND
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%;
điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh
khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm
xuống 1,2%/năm
iii. Gói kích cầu
Tuy nhiên, trước ảnh hưởng của chính sách hỗ trợ kinh tế sau khủng hoảng
trên phạm vi toàn cầu và các biện pháp chống suy giảm kinh tế trong nước trong đó
kích cầu nền kinh tế là một trong những giải pháp trọng tâm, chính phủ đã dùng 9 tỷ
USD cho gói kích cầu kinh tế (đứng thứ 3 thế giới về tỷ trọng gói kích cầu/tổng
GDP, chỉ sau Trung Quốc và Malaixia). Trong đó dành riêng 1 tỷ đô la (tương
đương hơn 17 ngàn tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất
vay vốn lưu động ngắn hạn cho doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân để sản xuất,
kinh doanh nhằm giảm giá thành hàng hoá và tạo việc làm.
c. Giai đoạn thắt chặt từ cuối năm 2010 - đầu 2011:
15
- 2 tháng cuối năm 2010: NHNN đã nâng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9%
- Năm 2011: 4 quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Theo các Quyết định này,
NHNN quy định các mức lãi suất
• 18/2/2011
· Lãi suất tái cấp vốn từ mức 9% một năm lên 11%.
· Lãi suất cho vay qua đêm 9% lên 11%.
· Lãi suất cơ bản vẫn được giữ ở mức 9%.
• 8/3/2011:
· Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán
bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng: 12,0%/ năm.
· Điểm quan trọng nhất là lãi suất tái chiết khấu sau 4 tháng giữ ở mức
7% đã đột ngột tăng lên 12%.
• 31/3/2011:
· Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm tăng lên là 13%
=> Khẳng định động thái thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong
năm 2011, nhằm siết chặt các nguồn vốn trên thị trường, tạo sức ép để các tổ chức
tín dụng giảm tăng trưởng
• 29/4/2011 (có hiệu lực từ ngày 1/5/2011):
16
· Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN
đối với các ngân hàng: 14,0%/ năm.
· Lãi suất tái chiết khấu: 13%
Ngoài ra, NHNN ra quy định về trần lãi suất huy động vốn bằng USD của tổ chức,
cá nhân tại tổ chức tín dụng lần lượt là 1%/năm và 3%/năm nhằm giảm tiền gửi
USD, khuyến khích các cá nhân bán USD cho ngân hàng và chuyển sang tiền gửi
VNĐ.
2. Đánh giá CSTT của việt Nam trong việc đối phó với lạm phát giai
đoạn 2007 đến nay
- Trước tháng 6/2007, chính sách tiền tệ được nới lỏng quá mức khiến cung tiền
trong lưu thông tăng vọt, trong khi mức độ mở rộng của chính sách tài khoá thấp
hơn nhiều so với chính sách tiền tệ khiến nền kinh tế không thể hấp thụ được nguồn
vốn lớn, hiệu quả đầu tư thấp, nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài.
- Cuối năm 2007, đầu năm 2008, thực hiện CSTT thắt chặt mạnh tay dồn dập,
khiến cho tình hình thanh khoản của các ngân hàng lâm vào cảnh khó khăn,
đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, đồng thời gây thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Nhằm cứu nguy cho các NHTM, NHNN lại bơm ra 33.000 tỉ đồng, triệt tiêu tác
dụng của việc hút tiền từ lưu thông về, đẩy lạm phát tăng cao trong tháng 4 và
5/2008. Lạm phát giảm kể từ nửa cuối năm 2008 1 phần là nhờ tác dụng của
CSTT nhưng cũng cần kể đến nguyên nhân giá thế giới giảm, nguyên nhân
hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp làm ra lại cũng không bán được, rất khó khăn,
dẫn tới giảm giá…
- Giai đoạn cuối năm 2008-giữa năm 2010: CSTT khá thành công: NHNN
từng bước nới lỏng CSTT, dần dần giảm lãi suất, tỉ lệ dự trưc bắt buộc, chuyển
hướng từ ưu tiên kiểm soát lạm phát trong năm 2008 sang chủ động ngăn chặn
suy giảm kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2009. Có thể nói lạm phát năm 2009
nằm trong dự tính và kiểm soát được lạm phát là một thành công của Việt Nam
trong năm này. Thành công đó càng đặc biệt hơn khi đi đôi với tốc độ tăng
trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp không tới mức nguy hiểm như dự đoán
những tháng đầu năm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động
17
tiêu cực tới nền kinh tế nước ta, đặc biệt hoạt động xuất khẩu và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
- Giai đoạn từ nửa cuối năm 2010 đến nay: trước diễn biến lạm phát tăng cao,
NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ chủ yếu qua công cụ lãi suất. Tuy nhiên , quyết
định nâng lãi suất khá muộn và đột ngột, thực hiện dồn dập vào cuối tháng 2/2011,
đẩy mức lãi suất lên cao gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ. Cho đến thời điểm hiện tại, CSTT chưa thực sự thành công. Thời điểm ban
hành còn chưa chủ động và điểm rơi chính sách chưa được lựa chọn chính xác.
Với độ trễ CSTT Việt Nam theo nhiều tính toán là từ 6-7 tháng và với mức tăng
giá như hiện nay thì nhiều nhà kinh tế dự đoán đỉnh lạm phát sẽ là quý 3 năm
2011, sau đó lạm phát mới phần nào được kiềm chế.
3. Đề xuất:
Cần thực hiện CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ. Ngân hàng Nhà
nước cần nắm chắc thông tin, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán, dư nợ
tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế, việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh
doanh chứng khoán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh doanh tiền tệ
khác. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng hợp lý dư
nợ tín dụng, khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và kiềm chế lạm phát.
Tăng cường công tác giám sát các tổ chức tín dụng, bổ sung các công cụ giám sát
theo cơ chế thị trường, thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn
những biến động trên thị trường tín dụng, tiền tệ.
NHNN dựa vào độ trễ của CSTT mà đề ra giải pháp đúng thời điểm, định lượng
rõ ràng.
Hiện tại nên tiếp tục duy trì việc thắt chặt tiền tệ. Cần tín hiệu rõ ràng hơn từ
CSTK, thực hiện CSTK thắt chặt đi đôi với CSTT thắt chặt, CSTK hỗ trợ CSTT.
18