Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của việt nam trong giai đoạn hiện nay, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 132 trang )




1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lời tựa

Việt Nam chính thức mở cửa đổi mới nền kinh tế vào năm 1986, nhưng
đến năm 1989 mới thực sự cải cách toàn diện và triệt để nhằm ổn định và mở cửa
nền kinh tế, thực sự thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ra
đời và ngày càng phát triển nhanh về số lượng. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ
năm 1997 đến năm 2000, thì những cải cách mới chỉ ở một mức độ nhất định,
còn chậm phát triển, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Kể từ
năm 2000 đến nay, trong chương trình đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước,
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc hình thành, phát triển các doanh
nghiệp, doanh nhân và coi đó là lực lượng chủ lực của phát triển kinh tế – xã hội
và hội nhập kinh tế quốc tế. Với sự tập trung vào khu vực phát triển kinh tế tư
nhân, hơn nữa trong bối cảnh tự do hoá thương mại buộc Việt Nam phải đầu tư
mạnh hơn vào hạ tầng cơ sở phục vụ cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh do hội
nhập nền kinh tế quốc tế.
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2006
đánh dấu một mốc mới trong cải cách phát triển kinh tế của đất nước. Thông qua
những cải cách theo định hướng thị trường và điều chỉnh theo thị trường toàn cầu
với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương mại và luật pháp quốc
tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng ổn định nền
kinh tế đất nước, mở rộng thương mại nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài,
xóa đói giảm nghèo, và phát triển con người.
Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp, các doanh nhân, các nhà
quản lý doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh để đủ sức đứng vững
trên thương trường. Năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp, các doanh nhân


là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả




2

năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực
tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn những năm trước, trong đó cần đặc biệt chú
trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về
chiến lược cạnh tranh Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu như hiện nay
theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2011 - 2012 do Diễn đàn Kinh tế Thế
giới (WEF) công bố xếp Việt Nam ở vị trí thứ 65 trên tổng số 142 quốc gia được
khảo sát, rớt 6 bậc so với năm ngoái.
Trong khuôn khổ bài viết em xin đi sâu vào đề tài (Năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
hiện trạng và giải pháp). Nhằm góp một phần tri thức hạn chế của mình vào sự
phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, từ đó các doanh
nghiệp sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Ngoài ra cũng để các
bạn đọc cùng tham khảo.
Em xin chân thành tiếp thu và rất mong nhận được mọi sự chỉ dạy của các
Giáo sư, Tiến sỹ, các Thầy, Cô giáo và sự đóng góp ý kiến của bạn đọc để luận
văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn các Giáo sư, Tiến sỹ, các thầy, cô giáo đã giảng
dạy, hướng dẫn cho em hoàn thành khóa học. Em xin đặc biệt trân trọng cảm ơn
Giáo sư, Tiến sỹ, Nhà giáo ưu tú: Nguyễn Kim Truy đã trực tiếp hướng dẫn để
em hoàn thành đề tài luận văn này!


Học viên







3

1. Lý do chọn đề tài.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ Việt Nam (VINASME) , có đến
97% doanh nghiệp đăng ký ở Việt Nam là DNVVN. Khối này tạo ra đến hơn
40% tổng sản phẩm quốc nội, tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm, chủ yếu
mang lại lợi ích đặc biệt cho nguồn lao động chưa qua đào tạo. Trong nhiều năm
tới, khối DNVVN vẫn là động cơ chạy chính cho nền kinh tế Việt Nam. Nhưng
cũng phải thừa nhận một thực tế, là khối này cũng chỉ phát triển mạnh trong
những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận khiêm tốn, công nghệ thấp do không có lợi
thế về quy mô (tiềm lực tài chính, địa bàn hoạt động, thị phần…) mà thường tập
trung vào các vấn đề như lựa chọn mục tiêu kinh doanh phù hợp với khả năng,
ổn định, củng cố thị phần đã có hay phát triển thị trường từng bước và có chọn
lọc khâu, điểm đột phá thuận lợi nhất. Các DNVVN vẫn phải tự vận động và liên
kết để hợp tác kinh doanh mà thiếu vắng vai trò rõ nét của chính sách nhà nước.
Việc gia nhập WTO đã mang lại nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa (SMEs) phát triển giống như việc tạo ra một sân chơi công bằng, dễ
dàng tiếp cận được với các yếu tố sản xuất nhập khẩu đầu vào tại thị trường
trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh
tế quốc gia tham gia sâu hơn vào nền kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới.
Tuy nhiên sau khi gia nhập WTO, Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các đối thủ
mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ,
kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong điều

kiện mới. Nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với
những thách thức thật sự to lớn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
(DNVVN) dự đoán được những khó khăn to lớn trong cả hai thị trường trong
nước và trên thế giới bởi vì họ thiếu lợi thế cạnh tranh hơn các đối thủ nước




4

ngoài, không có nhiều kinh nghiệm trên thương trường, chi phí sản xuất cao,
chất lượng sản phẩm thấp. Hơn nữa, tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ tiên
tiến, kỹ năng quản lý và chuyên môn, và thị trường không đủ thông tin đó là
những trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có lợi thế cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Do tính cấp thiết từ thực tế trên vì vậy em đã chọn đề tài (Năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, hiện trạng và giải pháp).
2. Mục đích nghiên cứu.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Small and Medium-sized Enteprises, hay
SME) là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất của tình trạng lạm phát tăng cao
và chính sách thắt chặt tín dụng ở Việt Nam hiện nay. Điều trớ trêu là SMEs
chiếm đến 97% tổng số các doanh nghiệp đăng ký ở Việt Nam và tạo ra đến
40,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), theo số liệu của Hiệp hội các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Năm 2015 mọi hàng rào thuế quan giữa các nước ASEAN sẽ
được xoá bỏ, điều này thực sự là nguy hiểm và khó khăn rất lớn cho các doanh
nghiệp của nước ta bởi khi hàng rào thuế quan trong ASEAN hoàn toàn loại bỏ
thì các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ,
kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao sẽ có nhiều cơ hội đầu tư vào Việt Nam,
trong khi đó thì trình độ, khả năng thích ứng với khoa học tiến tiến và công nghệ

cao của các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đủ đáp ứng được với nhu cầu của
phát triển. Đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam thường kinh
doanh trong những lĩnh vực có lợi nhuận thấp và công nghệ thấp, chất lượng sản
phẩm không cao, thương hiệu thì mờ nhạt, thì khả năng cạnh tranh, sự tồn tại
trên thương trường ngay tại sân nhà và sự vươn lên của các doanh nghiệp trong



5

nước là khó khả thi nếu như ngay từ bây giờ các doanh nghiệp trong nước không
đầu tư mạnh vào con người (nhân lực), cơ sở hạ tầng (vật lực), nguồn vốn (tài
lực), khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh thì sẽ không kịp.
Từ những thực tế trên mà mục đích nghỉên cứu đề tài (Năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, hiện trạng và giải pháp) để thấy được thực trạng cùng những thành công
và hạn chế nhằm tìm ra những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường và góp phần
đẩy nhanh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.
Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát
triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong quá trình phát triển và hội
nhập nền kinh tế thế giới của quốc gia hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao năng lực và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
+ Về nội dung: Những chính sách của nhà nước tác động đến sự phát triển
và khả năng cạnh tranh của DNVVN, hoạt động của DNVVN và những đóng
góp của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.

Đồng thời những kinh nghiệm về phát triển DNVVN của một số nước trên
thế giới cũng được nghiên cứu để góp phần làm rõ hơn những vấn đề về phát
triển DNVVN ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp như: mô tả, phân
tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp điều tra khảo sát thực tế. Đồng thời còn sử




6

dụng các phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, phương pháp
nghiên cứu sự phát triển DNVVN ở Việt Nam. Ngoài ra học viên còn khảo sát,
tham vấn ý kiến của các nhà doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách, các
chuyên gia trong nghiên cứu lĩnh vực phát triển doanh nghiệp trong đó có
DNVVN ở Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu.
Ngoài lời tựa, kết luận, danh mục các bảng, biểu, các chữ viết tắt, các tài
liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.

Chương 2: Cơ sở lý luận và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng phát triển năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Việt Nam hiện nay.
Chương 4:
Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.

- Làm rõ thực trạng phát triển DNVVN của Việt Nam, nhằm tìm ra những
giải pháp tiếp tục phát triển các doanh nghiệp này cho phù hợp với điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để thực hiện các giải pháp đó đối với phát
triển DNVVN của Việt Nam hiện nay.








7

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Lý thuyết cạnh tranh.
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh.
Khái niệm cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học giả
trường phái Tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mọi thành viên trong thị trường một dư địa
hoạt động nhất định và mang lại cho mọi thành viên một phần xứng đáng so với
khả năng của mình”.
Qua thời gian và không gian các quan niệm về cạnh tranh được xem là sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều

lĩnh vực như kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành
lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận
cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình
cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện
sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.
Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp
và các ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành
của khách hàng. Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự
mình đưa ra các quyết định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản xuất, và
tự định giá cho sản phẩm hay dịch vụ.
Hộp 1.1: Thuật ngữ cạnh tranh trong kinh tế.




8

Thuật ngữ cạnh tranh kinh tế được nhà kinh tế học người Anh là Adam
Smith đưa ra. Cạnh tranh trong kinh tế luôn liên quan đến quyền sở hữu, nói
cách khác, sở hữu là điều kiện để cạnh tranh kinh tế diễn ra.
Các thuật ngữ được cho là có liên quan mật thiết đến thuật ngữ cạnh tranh
kinh tế là: Cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, độc quyền…
Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất,
nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân…) nhằm giành lấy những vị
thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau
hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất

muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với
giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp
với các đối thủ trong cùng một ngành…
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh
tranh phi giá cả (Khuyến mãi, quảng cáo) Hay cạnh tranh của một doanh nghiệp,
một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự
do và công bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng
được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập
thực tế.
Nguồn: doanh)#cite-note-0
Ở Việt Nam, theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt “cạnh tranh là
tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành



9

phần hơn, phần thắng về phía mình”
1
. Theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học
“cạnh tranh – sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, Tập đoàn hay quốc gia.
Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không
phải ai cũng có thể giành được”
2
. Trong Đại Từ điển Kinh tế thị trường “cạnh
tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà
mục đích là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương
đối thỏa mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh
doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong việc đầu tư, đồng thời hoạt
động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu quả cao, không có hiện tượng quá

dư thừa về khả năng sản xuất trong một thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt
trình độ hợp lý ”
3
.
Đề cập đến cạnh tranh một số nhà khoa học cho rằng cạnh tranh là vấn đề
giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ và đó là phương thức để giành lợi
nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói cách khác là giành lợi thế để hạ thấp
các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh doanh và nâng cao giá của “đầu
ra” sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy trên quy mô toàn xã hội cạnh tranh
là phương thức phân bố các nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động
lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác đồng thời với tối đa hóa
lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích lũy và tập
trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp và từ đó cạnh tranh còn là môi
trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều
kiện thị trường.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

1
Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, tr. 258
2
Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2001, tr. 42.
3
Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức Bách Khoa: Đại Từ diển Kinh tế thị trường, Hà Nội, 1998, tr.
247.




10


Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và
trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp
phần vào sự phát triển kinh tế.
Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt
hơn nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào
trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản
xuất để nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh
tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản
xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi
phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn để
đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
Cạnh tranh là bản chất của nền kinh tế thị trường, là tiền đề của hệ thống
tự do kinh doanh (free-enterprise) vì càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau trên thị trường thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng
có chất lượng tốt hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá
trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ bỏ ra.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong
muốn về mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu
của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh
tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp
luật. Vì lý do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các
định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.
Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không



11


lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn
lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại, ) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hóa
giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng
thời cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích
hơn cho mọi người và cho cộng đồng, xã hội.
1.1.3. Các hình thái cạnh tranh.
Đặc điểm của cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hoá vì nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất
hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất với sự phân công lao
động xã hội tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận
lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao
thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển nhằm giảm mức hao phí lao
động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết để thu được nhiều
lợi nhuận. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh
tranh.
Cạnh tranh cũng là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế trong cơ chế
thị trường, nhằm mục đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm
hàng hoá để đạt được lợi nhuận cao nhất. Câu nói cửa miệng của nhiều người
hiện nay "thương trường như chiến trường", phản ánh phần nào tính chất gay gắt
khốc liệt đó của thị trường cạnh tranh tự do.
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, trên đây là một số cách phân loại
cạnh tranh cơ bản là:
1.1.3.1. Xét theo phạm vi kinh tế: cạnh tranh được chia thành hai loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành:
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh một loại





12

hàng hóa, dịch vụ. Trong đó các doanh nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động
kinh doanh, thậm trí bị phá sản, các doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh
tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh tất yếu sảy ra, tất cả đều nhằm vào
mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành:
Là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an
toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang
các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình
thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.1.3.2. Xét theo mức độ cạnh tranh.
+ Cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trường canh tranh hoản hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người
bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã. Là
loại cạnh tranh theo các quy luật của thị trường mà không có sự can thiệp của các
chủ thể khác. Giá cả của sản phẩm được quyết định bởi quy luật cung cầu trên
thị trường. Cung nhiều cầu ít sẽ dẫn đến giá giảm, cung ít cầu nhiều sẽ dẫn đến
giá tăng.
Các doanh nghiệp được tự do ra nhập, rút lui khỏi thị trường. Do đó trong
thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh muốn thu
được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào, cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của người tiêu
dùng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường phổ biến nhất




13

hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh lớn, các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh những loại hàng hóa
và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa những loại hàng hóa, dịch vụ này ở nhãn
hiệu, có những loại hàng hóa, dịch vụ chất lượng như nhau, song sự lựa chọn của
người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín, nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của
cạnh tranh không hoàn hảo đó là độc quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh
mang tính độc quyền.
+ Cạnh tranh độc quyền:
Là sự cạnh tranh mang tính chất “ảo”, thực chất cạnh tranh này là sự
quảng cáo để chứng minh sự đa dạng của một số sản phẩm nào đó, để khách
hàng lựa chọn một trong số những sản phẩm đó của doanh nghiệp mình, chứ
không phải của doanh nghiệp khác.
Loại cạnh tranh này xảy ra khi trên thị trường một số lượng lớn các nhà
sản xuất, sản xuất ra những sản phẩm tương đối giống nhau nhưng khách hàng
lại cho rằng chúng có sự khác biệt, dựa trên chiến lược khác biệt hoá sản phẩm
của các công ty.
Ví dụ, trên thị trường có các sản phẩm “dầu gội đầu” tương đối giống
nhau. Nhưng có hãng thì bảo rằng sẽ làm sạch gầu sau khi gội, hãng thì bảo là
đem lại làn tóc mềm mại, hãng thì bảo rằng sẽ làm tóc khỏe ra và chống dụng
tóc
Trong cạnh tranh độc quyền có thể phân chia thành hai loại:
.* Độc quyền nhóm: Là loại độc quyền xảy ra khi trong ngành có rất ít nhà
sản xuất, bởi vì các ngành này đòi hỏi vốn lớn, rào cản ra nhập ngành khó. Ví
dụ: ngành công nghiệp sản xuất ôtô, máy bay.
* Độc quyền tuyệt đối: Xảy ra khi trên thị trường tồn tại duy nhất một nhà
sản xuất và giá cả, số lượng sản xuất ra hoàn toàn do nhà sản xuất này quyết





14

định. Ví dụ: Điện, nước ở Việt Nam do nhà nước cung cấp.
1.1.3.3. Xét theo đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh:
+ Cạnh tranh lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh tranh theo đúng quy định của pháp luật,
đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh. Cạnh tranh có tính chất thi đua, thông qua
đó mỗi chủ thể nâng cao năng lực của chính mình mà không dùng thủ đoạn triệt
hạ đối thủ. Phương châm của cạnh tranh lành mạnh là “không cần phải ép chết
đối thủ để mình tồn tại”.
Có thể thấy, kinh doanh như một cuộc chơi nhưng không giống như chơi
thể thao, chơi bài hay chơi cờ, khi mà phải luôn có kẻ thua – người thắng (lose –
win); trong kinh doanh, thành công của doanh nghiệp không nhất thiết đòi hỏi
phải có những kẻ thua cuộc. Thực tế là hầu hết các doanh nghiệp chỉ thành công
khi những người khác thành công (gọi là sự “cộng sinh của hai bên”). Đây là sự
thành công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn nhau. Tình huống
này được gọi là “cùng thắng” (win – win).
Ở Việt Nam có câu “buôn có bạn, bán có phường” có nghĩa là không nhất
thiết các doanh nghiệp cạnh tranh cùng một mặt hàng phải sống chết với nhau
mà thông thường phải liên kết với nhau thành các phố kinh doanh cùng một mặt
hàng như phố hàng trống, hàng mã….
+ Cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh không lành mạnh là bất cứ hành động nào trong hoạt động
kinh tế trái với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng.
Và cũng gần như sẽ không có người thắng nếu việc kinh doanh được tiến hành
giống như một cuộc chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt chỉ dẫn đến
một hậu quả thường thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự sụt giảm mức




15

lợi nhuận ở khắp mọi nơi.
Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty, doanh
nghiệp thường xuyên phải cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy
trì sự phát triển và gia tăng lợi nhuận. Do đó các nhà kinh doanh cho rằng cạnh
tranh thuộc phạm trù tư bản nên quan điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết
các nhà kinh doanh đều nhầm tưởng “cạnh tranh” với nghĩa đơn thuần theo kiểu
“thương trường là chiến trường”.
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi cho
doanh nghiệp mình. Đôi khi đó là sự trả giá của người khác. Đây là tình huống
“cùng thua” (lose – lose). Không ít cơ sở sản xuất, doanh nghiệp còn sử dụng
những chiêu thức "đen" nhằm hạ thấp và loại trừ các doanh nghiệp hoạt động
trên cùng một lĩnh vực ngành nghề để độc chiếm thị trường.
+ Những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh.
Một trong những thủ đoạn không lành mạnh, ít tốn kém đầu tư mà gây
thiệt hại lớn cho các đối thủ cạnh tranh là tung tin thất thiệt, thường gọi là tin
đồn. Tin đồn có ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp đối thủ, tập trung vào các vấn
đề nhạy cảm như phương thức kinh doanh, tổ chức nhân sự, chất lượng sản
phẩm, thậm chí đôi khi cả những khuyết tật đời tư cá nhân của các nhân vật chủ
chốt trong đơn vị, doanh nghiệp đó.
Trên thế giới, không ít các đại gia lừng danh đã từng là nạn nhân của
những thông tin thất thiệt này như: Sony, Erickson, Coca Cola, Pepsi
Ở Việt Nam, tuy nền kinh tế thị trường mới hình thành và phát triển chưa
lâu nhưng thủ đoạn tung tin thất thiệt cũng xảy ra và đang có chiều hướng ngày
một gia tăng khiến nhà nước không kiểm soát một cách hiệu quả được, làm
không ít doanh nghiệp làm ăn chân chính thiệt hại kinh tế rất lớn.
Đó là những thủ đoạn tung tin đồn gây thiệt hại lớn, còn như cạnh tranh





16

kiểu tin đồn cò con thì hầu như diễn ra hằng ngày mà nhiều người gọi là "hội
chứng" tin vịt.
Ví dụ thứ nhất: một doanh nghiệp đang tham gia đấu thầu xây dựng một
công trình, bỗng có tin đồn doanh nghiệp này đang có vấn đề về tài chính, hay
các công trình đã được doanh nghiệp thực hiện trước đó có nhiều vấn đề gian dối
không bảo đảm chất lượng, thế là thua thầu, thậm chí không được tham gia đấu
thầu chờ kết quả kiểm tra. Tương tự như vậy, khu du lịch này muốn hạ bệ khu du
lịch kia thì tung tin: khu du lịch ấy mất vệ sinh, chất lượng phục vụ kém, trật tự
an ninh không bảo đảm thế là dễ dàng mất khách.
Tin đồn thất thiệt đang trở thành một vũ khí cạnh tranh của những doanh
nghiệp làm ăn không lương thiện. Việc đối phó được với hình thức cạnh tranh
kiểu này rất khó khăn. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa (đặc biệt là ở Việt Nam)
chưa có được những biện pháp hữu hiệu để chống lại hình thức cạnh tranh bằng
cách tung tin thất thiệt này, hầu hết họ đều dựa vào các cơ quan quản lý Nhà
nước.
Nhưng ngay các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng rất lúng túng và bị
động trong xử lý đối với thủ đoạn cạnh tranh "đen" này. Minh chứng cụ thể nhất
là hội chứng tin đồn về giá gạo ảo trong những tháng đầu năm 2008, làm cho các
doanh nghiệp và người tiêu dùng lao đao, các cấp ngành chức năng lúng túng,
gây cho việc xuất khẩu gạo trì hoãn, thiệt hại cho kinh tế của Việt Nam.
Hộp 1.2: Ví dụ thủ đoạn canh tranh không lành mạnh.
Ví dụ thứ hai: Theo báo Tin Tức đưa tin ngày 2/7/2012 4:49:41 PM với
tiêu đề: Khi hai hãng rượu… “say”! (VOV) - Thật nguy khi cả 2 người đều say
mà không có người thứ ba tỉnh táo để xử lý, giúp đỡ.

.Rượu Vodka chứa chất độc hại?



17

Chuyện tố cáo lẫn nhau giữa 2 hãng rượu mang nhãn hiệu Vodka Men và
Vodka AvinaA đã đi từ bàn nhậu đến cửa công, khiến dư luận xôn xao và báo
chí tốn không ít giấy mực. Theo đó, cả 2 hãng rượu đều “say”, tố ra giữa “thanh
thiên bạch nhật” những dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh. Vodka Men –
nhãn rượu quen thuộc trên thị trường gần chục năm nay - bị tố là dùng thủ đoạn
đổ nước gạo vào rượu của đối thủ, thậm chí dùng cả đầu gấu để ngăn cản sự
chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh chóng của Vodka AvinaA – nhãn rượu
mới xuất hiện gần 3 năm nay.
Vodka AvinaA, với ông Tổng Giám đốc có bằng tiến sỹ tu nghiệp tại Anh,
bị tố là dùng ‘thủ đoạn’ điện phân khiến bao thực khách phải sửng sốt khi chứng
kiến cốc rượu Vodka Men, chỉ sau 5 phút đã ngả màu như nước cống, trong đó
lăn tăn cả vốc vảy, cùng màu đen như bã chè. Thấy hành động của đối thủ quá
lợi hại, Vodka Men đã chỉ đạo bằng thư điện tử cho các nhân viên của mình bỏ
thêm muối vào Vodka AvinaA rồi tiến hành điện phân để AvinaA cũng có hiện
tượng… kết tủa. Ai cũng hiểu, dù có làm thế thì Vodka Men vẫn bị mất uy tín.
Bởi vậy, Vodka Men đã làm đơn gửi cơ quan chức năng tố chuyện cạnh tranh
không lành mạnh của AvinaA. Đáp lại, AvinaA cũng làm đơn tố Vodka Men đã
lợi dụng sự lỏng lẻo về quy định trong tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về rượu để
sản xuất rượu có quá nhiều tạp chất, gây nguy hại cho người tiêu dùng.
Mặc dù hiện nay ở Việt Nam đã có Luật Cạnh tranh (Điều 1 chương 1
Luật Cạnh tranh 2005 đã được sửa đổi bổ sung), trong đó đưa ra nhiều hành vi
bị cấm như: mua chuộc, dụ dỗ, ép buộc trong kinh doanh, dèm pha doanh nghiệp
khác, quảng cáo sai với thực chất, phân biệt đối xử trong hiệp hội, bán hàng đa
cấp bất chính. Như vậy, thủ đoạn tung tin thất thiệt để cạnh tranh được xếp vào

điều cấm: gièm pha doanh nghiệp. Đây là hành lang pháp lý để các doanh nghiệp
cạnh tranh lành mạnh hơn, các cơ quan chức năng có cơ sở pháp lý để xử lý




18

những thủ đoạn cạnh tranh bằng tin đồn (đen).
Tuy nhiên, việc phát hiện nguồn gốc phát xuất của tin đồn không phải là
việc đơn giản, đòi hỏi rất nhiều thời gian công sức, tiền bạc mới điều tra được.
Mà nếu có điều tra ra được thì chế tài xử lý cũng còn nhiều bất cập, thậm chí còn
rất nhẹ so với những thiệt hại vô hình cũng như hữu hình mà thương hiệu của
doanh nghiệp đó gánh chịu.
Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền, hiệp hội
ngành nghề trong việc phòng chống tin đồn thất thiệt, giải pháp tốt nhất là các
nhà sản xuất, kinh doanh phải tự bảo vệ mình, bằng nghiệp vụ quản trị thông tin,
bằng chất lượng sản phẩm và chữ tín của doanh nghiệp.
Trong cạnh tranh cần tỏ ra khôn ngoan hơn đối thủ để loại trừ đối thủ cạnh
tranh, giành giật quyết liệt thị phần, khuyếch trương thương hiệu sản phẩm,
khống chế nhà cung cấp và khóa chặt khách hàng. Theo quan điểm đó, sẽ luôn
có người thắng và kẻ thua trong kinh doanh. Cách nhìn về một kết cục thắng –
thua được Gore Vidal viết như sau: “Chỉ thành công thôi chưa đủ. Phải làm cho
kẻ khác thất bại nữa”.
Sự khác biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh lành mạnh
trong kinh doanh là một bên có mục đích bằng mọi cách tiêu diệt đối thủ để tạo
vị thế độc quyền cho mình, một bên là dùng cách phục vụ khách hàng tốt nhất để
khách hàng lựa chọ mình chứ không lựa chọn đối thủ của mình.
1.1.3.4. Quy định của pháp luật ở Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về vấn đề cạnh tranh.

Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua và ban hành Luật cạnh tranh và luật này có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 07 năm 2005.



19

Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý
vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Theo đó, có hai hành vi cạnh tranh là vi phạm
pháp luật là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
+ Hành vi hạn chế cạnh tranh.
Hộp 1.3: Hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
Là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
Cần lưu ý rằng pháp luật ở Việt Nam không quy định về việc chống độc
quyền hay xu hướng thống lĩnh thị trường của một hoặc một nhóm doanh nghiệp
vì việc độc quyền được coi là một hệ quả tất yếu của sự cạnh tranh bình đẳng
trong một nền kinh tế thị trường. Tuy vậy pháp luật ở Việt Nam lại nghiêm cấm
việc lạm vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường để thực hiện hành vi hạn chế
cạnh tranh.
Theo đó, Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có
doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh
doanh trên thị trường liên quan.
Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có thị phần từ
30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường
nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh. Bản thân các doanh nghiệp

đó phải có thị phần đáng kể để có thể liên kết hạn chế cạnh tranh.
Nếu hai doanh nghiệp thì phải có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị
trường liên quan. Ba doanh nghiệp thì phải chiếm từ 65% trở lên. Bốn doanh
nghiệp thì phải có 75% thị phần trở lên.




20

Đối với doanh nghiệp thuộc diện này thì pháp luật nghiêm cấm thực hiện
những hành vi kinh doanh như sau:
.Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối
thủ cạnh tranh.
.Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán
lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
.Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
.Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm
tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
.Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
.Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
+ Hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có
thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh này được thể hiện qua các hoạt động

sau:
.Chỉ dẫn gây nhầm lẫn: Là việc các doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa
đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương hiệu, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố mạnh mẽ để làm sai lệch
nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.



21

.Xâm phạm bi mật kinh doanh.
.Ép buộc trong kinh doanh: Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao
dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
.Gièm pha doanh nghiệp khác: Bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra
thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
.Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác: Là hình thức gây
rối bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đó.
.Nguồn: doanh)#cite-note-0
Ngoài ra còn các hành vi khác như:
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
- Phân biệt đối xử của hiệp hội.
- Bán hàng đa cấp bất chính.
Bên cạnh đó quyền cạnh tranh trong kinh doanh luôn được pháp luật Việt
Nam bảo hộ. Điều 4 Luật cạnh tranh quy định về quyền cạnh tranh trong kinh
doanh. Theo đó, doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh. Và việc cạnh

tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật cạnh tranh.
1.2. Năng lực cạnh tranh.
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh.




22

Kinh doanh trong môi trường toàn cầu hoá với các nhân tố chính như tự
do hoá di chuyển hàng hoá, vốn, nhân lực và hội nhập thể chế kinh tế… đòi hỏi
các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh và nguồn
nhân lực của mình. Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra khái niệm năng
lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp là “khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác
định đúng giá cả và vào đúng thời điểm, đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu
suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”. Một số tác giả (Porter, M.E.,
Bekley…) xác định “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với các yếu tố
như tài sản cạnh tranh (chi phí yếu tố, nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật, công
nghệ, thể chế, văn hoá doanh nghiệp ), quá trình cạnh tranh (quản lý chiến lược,
kế hoạch, marketing, tác nghiệp, khả năng linh hoạt và thích ứng ), thực hiện
cạnh tranh (năng suất, chất lượng, hiệu quả, chi phí, chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu
quốc tế ).
Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước đặc
biệt quan tâm hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và nguồn nhân lực của các doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh là “khả năng dành được thị phần lớn trước các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp”

1
. “khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của
những hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường tiêu thụ”
2
.
Mọi tư duy nhằm phát triển một chiến lược cạnh tranh hiệu quả đều hướng
đến tiêu điểm nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp qua năm tháng. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể
hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc

1
Từ điển thuật ngữ kinh tế học, NXB. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2001, tr. 349.
2
Sách đã dẫn, tr. 1172.



23

thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao,
bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra
những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu
được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên
thị trường.
Năng lực cạnh tranh còn có thể được hiểu là khả năng tồn tại trong kinh
doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi
tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ
hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:
- Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia.

- Năng lực cạnh tranh cấp ngành.
- Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia.
Trong báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế Thế giới
(WEF) năm 1997 đã nêu ra: “ Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng
cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh
tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các
nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Ở Việt Nam năng
lực cạnh tranh cấp quốc gia đứng thứ 65 trên 80 nước (năm 2002), tăng 5 bậc so
với năm 2001 (là 60/75 nước).
1.2.3. Năng lực cạnh tranh cấp ngành.




24

Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác
nhau bằng cách tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tự phát
phân phối tư bản vào các ngành sản xuất khác nhau. Nhằm mục đích tìm nơi đầu
tư có lợi cao hơn, kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân và giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất.
1.2.4. Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp là sức mạnh của doanh nghiệp
được thể hiện trên thương trường. Sự tồn tại và sức sống của một doanh nghiệp
thể hiện trước hết ở năng lực cạnh tranh. Để từng bước vươn lên giành thế chủ

động trong quá trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh chính là tiêu chí
phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam.
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra từ thực lực của doanh
nghiệp, phản ánh kết quả kinh doanh tổng hợp với những chỉ số cơ bản dưới
dạng chỉ tiêu định tính và định lượng thể hiện thông qua doanh thu, lợi nhuận,
thị phần, uy tín thương hiệu, khả năng quản lý giá (mức độ hạ giá, khả năng điều
chỉnh giá, mức chiết khấu và tính phân tán trong chính sách phân hóa giá ), mức
độ ràng buộc và liên kết trong hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả
của hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại, trình độ công nghệ, độ rộng
của các loại chất lượng sản phẩm tương thích với các mức giá cả, tính phong phú
của sản phẩm, chất lượng các loại dịch vụ trước và sau khi bán sản phẩm, độ
nhạy cảm với thị trường của đội ngũ lãnh đạo Năng lực canh tranh của doanh
nghiệp được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp và là các yếu tố nội hàm của



25

mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… mà năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp
đưa ra thị trường. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với với thị phần mà
nó nắm giữ, cũng có quan điểm đồng nhất của doanh nghiệp với hiệu quả sản
xuất kinh doanh…
1.2.5. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa.
Một sản phẩm hàng hóa được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính

độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì của sản phẩm hơn hẳn so với
những sản phẩm hàng hóa khác cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hóa lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ
không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa cao khi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là hai phạm trù khác nhau, nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau, năng lực cạnh tranh của hàng hóa có được là do năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra. Nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hóa quyết định mà còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh của hàng hóa có
ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy
đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về
mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận
biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có

×