Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

phương hướng xây dựng gia đình việt nam hòa thuận – bình đẳng – hạnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.43 KB, 14 trang )

Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam Hòa Thuận – Bình đẳng
– Hạnh phúc
I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lê
Nin về vị trí và chức năng của gia đình
trong xã hội.
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội
đặc biết, được hình thành, duy trì và củng cố
chủ yếu trên cơ sở hôn nhân và huyết thống.
Đúng như CMac đã từng nói: “ … Hàng
ngày tái tạo ra đời sống của bản than mình,
con người bắt đầu tạo ra những người khác,
sinh sôi, nãy nở – đó là quan hệ giữa chồng,
và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”
Cho nên yếu tố huyết thống và tình cảm là
nét bản chất của gia đình. Nhưng xét rộng ra
và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một
đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ
chức kinh tế – tiêu dùng ( sở hữu, sản xuất,
thu nhập và chi tiêu…), một môi trường giáo
dục – văn hóa ( văn hóa gia đình và cộng
đồng), một cơ cấu – thiết chế xã hội ( có cơ
chế và cách thức vận động riêng)…
1. Vị Trí Gia Đình:
- Gia đình là “tế bào xã hội”. Điều này trước
hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối quan
hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển về mọi
mặt của xã hội quyết định đến hình thức,
tính chất, kết cấu và quy mô gia đình. CMac
nhiều lần lưu ý rằng: tôn giáo, gia đình, Nhà
nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ


thuật… chi là những hình thức đặc thù của
sản xuất.
Thực tế lịch sử cho thấy, gia đình lần lượt
biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát
triển xã hội khác nhau. Theo Ăngghen, trong
xã hội công xã nguyên thủy, trình độ lực
lượng sản xuất rất thấp, cá nhân không tách
rời tập thể, cuộc sống cộng đồng về nhiều
mặt… đã tạo nên hình thức gia đình tập thể
– quần hôn. Mỗi bước tiến của xã hội cộng
đồng nguyên thủy và kết quả do đào thải tự
nhiên lại đưa đến những dạng mới, mang sắc
thái tiến bộ hơn cho hình thái gia đình này.
Giai đoạn đầu của xã hội cộng đồng nguyên
thủy có gia đình cùng dòng máu ( huyết
thống ), các tập đoàn hôn nhân đều phân
theo thế hệ. Đến giai đoạn giữa của xã hội
cộng đồng nguyên thuỷ xuất hiện gia đình
punaluna ( bạn thân), trong đó quan hệ tỉnh
giao giữa anh ẹm trai với chị em gái đã bị
hủy bỏ. và giai đoạn cuối cùng của xã hội
này đã hình thành gia đình cặp đôi ( đối
ngẫu), trong đó kết hôn từng cặp đã tồn tại

1
( tuy còn lõng lẻo); trong số vợ rất đông của
mình, người đàn ông có một người vợ chính,
và trong số nhiều người chồng khác, anh ta
lại là người chồng chính của người đàn bà
ấy. Những kiểu trên cúa gia đình tập thể –

quần hôn đều có đặc trưng là: tính giao tập
thể, kinh tế cộng đồng nguyên thủy, chế độ
mẫu hệ, không có áp lực và bất bình đẳng
giữa các thành viên.
Bước sang chế độ nô lệ, trong xã hội nãy
sinh hình thức gia đình cá thể – một vợ một
chồng. Đó là kết quả trực tiếp của việc hình
thành chế độ sở hữu tư nhân và sự phân hóa
giai cấp. Gia đình cá thể là “ hình thức gia
đình đầu tiên không dựa trên những điều
kiện tự nhiên, mà dựa trên những điều kiện
kinh tế – tức là trên thắng lợi của sở hữu tư
nhân đố với sở hữu công cộng nguyên thủy
và tự phát ( tất nhiên, kết quả vẫn do tác
động của quy luật đào thải tự nhiên, ngoài ra
còn có thêm một nguyên nhân nữa là nguyên
nhân tình cảm, thể hiện ở người đàn ông
nhất định).
Như vậy gia đình là sản phẩm của lịch sử.
Nhưng với tư cách là tế bào của xã hội, gia
đình tác động tích cực đến tiến trình phát
triển của xã hội. Ph. Ăngghen nhận định: “
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định
trong lịch sử, quy đến cùng là sản xuất và
tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng
bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một
mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt; thực
phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần
thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác
là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự

truyền nòi giống.”
Trong hệ thống cơ cấu xã hội có nhiều bộ
phận khác nhau ( dân tộc, giai cấp, giới…);
nhiều thiết chế lớn nhỏ ( Nhà nước, ngành,
đoàn thể…) với tính là tế bào của xã hội, gia
đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế
nhỏ nhất. Cơ cấu thiết chế nhỏ nhất này lại
đa dạng phong phú; trong quá trình vận
động, vừa tuân thủ theo những quy luật của
cơ chế chung vừa theo tính quy định và tổ
chức riêng của mình.
2. Chức năng của gia đình:
Trong thực tế, vị trí vai trò to lớn của gia
đình với tính các là tế bào xã hội được thể
hiện ở các chức năng cơ bản như chức năng
tái sản xuất ra con người, chức năng kinh tế,
chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục và
chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý của
các thành viên trong gia đình.
Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng.
Trên đây là những chức năng cơ bản nhất.
Thông qua việc thực hiện những chức năng
này mà gia đình vẫn tồn tại và phát triển,

2
đồng thời tác động đến tiến bộ chung của xã
hội. Các chức năng được thực hiện trong sự
thúc đẩy, hổ trợ lẫn nhau. Việc phân chia
những nội dung của chúng chỉ là tương đối.
Nhiều khi, các chức năng được thể hiện tổng

hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt
động của gia đình. Ở từng nơi và các giai
đoạn lịch sử khác nhau nội dung và vị trí của
mỗi chức năng có sự biến đổi phù hợp
II. Thực trạng gia đình hiện nay ở Việt
Nam
Hôn nhân là sự kết hợp giữa người đàn ông
và đàn bà nhằm xác lập quan hệ vợ chồng,
xây dựng gia đình, từ khi trong xã hội có
Nhà nước, quan hệ hôn nhân không chỉ phản
ánh ý chí của các cá nhân tham gia vào quan
hệ đó mà còn là ý chí của Nhà nước. Trong
những giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào
cơ sở kinh tế xã hội, Nhà nước đặt ra những
nguyên tắc của Hôn nhân gia đình để định
hướng cho những quan hệ xã hội đó phát
triển theo mục tiêu đã định. Việc xây dựng
gia đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc đã
trở thành một đòi hỏi tất yếu của xã hội
Tuy nhiên trong những năm qua số liệu
thống kê cho thấy gia đình Việt Nam hiện
nay còn tồn tại nhiều những vấn đề xã hội
cần quan tâm hơn nữa.
Dưới đây là các số liệu thống kê mà em đã
tìm hiểu từ rất nhiều các cồng thông tin khác
nhau khi tiếp nhận đề tài này.
Dân số Việt Nam năm 2005 là 83.121.700
người, thấp hơn so với dự báo là ( 83,139
triệu người ).
Tỷ lệ tăng dân số là 1,33% , so với 2004

( 1,40%) giảm 0,07%
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê – TCTK –
25/01/2006, Dân số và phát triển, 01/2006,
tr. 18)
Tổng tỷ xuất sinh: (TER)
Năm 2005 là 2,11 – 2004 là 2,23 – 2003 là
2,12
Tại thành thị TER 2005 là 1, 73 và tại nông
thôn là 2,28.
Tỷ lệ chết trẻ sơ sinh ( IMR) tính theo
phần ngàn như sau:
2002:26 – 2003:21 – 2004 :18 – 2005 :17,8
Số nhân khẩu trong gia đình:
1993: 4,97 – 1998: 4,70 – 2001 -2001: 4,40
– 2002 -2004: 4,36
Bình quân tại nông thôn, số người trong một
gia đình là 4,41 (2004) tại thành thị là 2,36

3
( ít hơn 1,05 người), nhân khẩu trong các gia
đình nghèo nhất là 4,8; giàu nhất là 2,3
( Nguồn TCTK 01/2006)
Thu nhập bình quân
Năm 2004, bình quân cả nước 484,4 nghìn
đồng/người/ tháng. Tăng 36% so với năm
2001 -2002
(Nguồn DS&PT, 02/2006 tr. 11 -19)
Tỷ lệ trẻ em chết trước 5 tuổi tính theo
phần ngàn:
1999:48,6 – 2001: 32,9 – 2002: 26,0 – 2003:

21,0 – 2004: 18,0 – 2005: 17,8
Tỷ lệ trẻ em chết trước 1 tuổi tính theo
phần ngàn:
2000: cả nước : 31,2 – thành thị: 20,1 –
nông thôn: 34,6
2001: cả nước: 31,0 – thành thị 20,4 – nông
thôn 32,5
2002: cả nước: 26,0 – thành thị 17,0 – nông
thôn: 28,8
2003: cả nước: 21,0 – thành thị: 13,0 – nông
thôn: 21,0
( nguồn: www.vpcfc.gov.vn)
Trẻ em lang thang: Năm 1998 là 19,048 –
năm 2000 là 22,423
Trẻ em nghiện ma túy: Năm 1998 là 2, 755
– năm 2000 là 2.008
Bình quân mỗi năm có 11.768 em dưới 16
tuổi vi phạm pháp luật, nếu tính theo tổng số
toàn dân , tỷ lệ đó là 16.000 em trong
100.000 dân.
Bạo lực gia đình:
Nghiên cứu tại Việt Nam 1999 cho thấy từ
1995 đến 2000 có 106 vụ án bạo lực gia
đình dẫn đến chết người, trong đó người phụ
nữ là nạn nhân chiếm đến 80% .
Năm 2001 có 1.100 vụ giết người trên toàn
quốc thì có 16 % số vụ do người thân giết
nhau.
Các vụ ly hôn do Tòa án xét xử có tỷ lệ do
bạo lực gia đình khá cao:

1978 có 17.834 vụ ly hôn, thì có 15.570
(87,5%) vì bạo lực gia đình
1991 có 22.634 vụ ly hôn 70,1% số vụ vì
bạo lực gia đình
1992 có 29.225 vụ ly hôn thì 65,2% số vụ vì
bạo lực gia đình

4
200 có 30.000 vụ ly hôn thì có 70,0% vì bạo
lực gia đình.
(Nguồn: Phòng ngừa tội phạm thanh thiếu
niên, Bộ Công An 10/2004 tr. 232 và 378)
HIV/ AIDS:
Theo ước tính của Bộ Y Tế, mỗi ngày lại có
thêm 100 người bị nhiểm HIV tại Việt Nam,
tình trạng nhiễm HIV đã xảy ra ở tất cả 64
tỉnh thành phố.
Số người sống chung với HIV/AIDS ở Việt
Nam đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn
2000 – 2005.
Thế giới hiện có 40 triệu người bị nhiẻm
HIV và hơn 30 triệu người bị tử vong vì
AIDS
(Nguồn: Thông cáo báo chí của UNDP Hà
Nội ngày 28/11/2005. DS%PT, 12/2005)
Ước tính và dự báo:
2005: HIV: 197.500 – AIDS: 48.864 – tử
vong: 44.102
2006: HIV: 207.375 – AIDS: 59.400 – tử
vong: 54.132

2007: HIV: 256.184 – AIDS: 70.974 – tử
vong: 65.171
2008: HIV: 284.227 – AIDS: 83.516 – tử
vong: 77.228
2009: HIV: 315.568 – AIDS: 97.175 – Tử
vong: 90.436
2010: HIV: 350.970 – AIDS: 112.227 – Tử
vong: 104.703
( nguồn: Dịch tễ học và chiến lược quốc gia
phòng chống HIV/AIDS, BYT – WHO –
LHQ 2001)
Nguyên nhân và tình trạng trên
Theo điều tra quốc gia về vị thành niên từ và
thành niên ở Việt Nam cho kết quả và nhận
định sau:
- Môi trường kinh tế và xã hội ngày càng
chuyển biến đem đến nhiều thử thách khiến
thanh niên phải tìm cách thích ứng.
- Thanh niên được sự hổ trợ lớn lao từ gia
đình mặc dù có một số nhỏ có xung đột với
gia đình. Gia đình nông thôn đông người
nhưng lại ít có quyền lực.
- 1/3 nam thanh niên thành phố sống độc
thân.
Phần đông không chấp nhận quan hệ tình
dục (QHTD) trước hôn nhân, tuy nhiên tỷ lệ

5
nữ đã có gia đình có QHTD trước hôn nhân
cao hơn so với nữ chưa lập gia đình.

- Các phương tiện tránh thai được các cặp
vợ chồng sử dụng nhiều. Những người độc
thân có QHTD thì không sử dụng thường
xuyên.
- 2/3 nữ còn hiểu biết hạn chế về thời điểm
dễ có thai nhất.
- Nam thanh niên có nhiều hành vi gây nguy
cơ ( QHTD ngẫu hứng, đua xe, tụ tập gây
rối, …) hơn nữ.
- Một số thanh niên lo lắng về tương lai: 1/5
đã từng có cảm giác thất vọng, chán trường
về tương lai.
- Nhìn chung nam giới lạc quan hơn nữ giới
về bản thân, gia đình và tương lai.
- Ước vọng hàng đầu của thanh thiếu niên về
tương lai là: thu nhập, việc làm và thành đạt
về kinh tế. Gia đình và hạnh phúc đứng hàng
thứ hai.
(nguồn: Savy – survey assessment off
VietNam Youth 2003. DS&PT 09/2005,
giữa WHO, UNICEF và TCTK trên 7584
thanh niên 14 -25 tuổi ở 42 tỉnh thành ở Việt
Nam)
Nguyên nhân trẻ em phạm pháp:
- Đang độ tuổi sung sức, năng động, phát
triển mạnh về tâm sinh lý trí tuệ nhưng chưa
chín chắn nên dễ vi phạm, những quy tắc
đạo đức, hành chính và hình sự.
- Dễ bị lôi kéo, kích động và lợi dụng.
- Sự phát triển mạnh mẽ những phương diện

thông tin, trong đó có rất nhiều những thông
tin độc hại. Hơn nữa, bị áp lực bởi sự tò mò
trong khi người lớn lại quá bận rộn, không
có thời gian để gần gủi, hướng dẫn phát hiện
ngăn ngừa.
- Thiếu hiểu biết về pháp luật.
- Chương trình giáo dục pháp luật ở nhà
trường có tính chất sơ lược, học sinh dễ có
quan niệm là môn học phụ nên học cho có,
học đại khái.
(nguồn: Văn phòng tư vấn trẻ em, Ủy ban
dân số, gia đình và trẻ em TP.HCM)
Những sai lầm thường thấy trong các gia
đình:
- Cha mẹ không thông cảm, thường hay
mắng mỏ các em trong độ tuổi vị thành niên.
Phần lớn cho rằng trẻ không vâng lời.
- Cha mẹ quá bận rộn lo kiếm tiền ít có thời
gian chăm sóc tới gia đình, con cái.

6
- Nuôi nấng cực khổ, tốn kém mà dường
như chúng không nghe lời, càng lớn, càng
hư, hay cãi cải lại…
- Những kỳ thi cũng là thời gian áp lực đối
với thanh thiếu niên, nếu không được điểm
cao thì thường được cha mẹ đem ra so sánh
với bạn bè, lo mắng gây nên tâm lý căng
thẳng của thế hệ này
- Do tính chất đặc thù của xã hội hiện đại vợ

chồng thường ít có thời gian gần gủi quan
tâm tới nhau hơn. Tỷ lệ các cuộc ly hôn
không ngừng tăng trong những năm qua
cũng đã ảnh hưởng tới chất lượng gia đình
Việt Nam hiện đại.
- Những mâu thuẫn của vợ chồng đã ảnh
hưởng không tốt tới suy nghĩ và hành động
của con trẻ làm chúng có những khái niệm
sai lệch về gia đình.
- Bạo hành trong gia đình cũng làm cho mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
rạn vỡ nó là nguyên nhân tan vỡ của nhiều
gia đình hiện nay.
(nguồn: Văn phòng tư vấn trẻ em, Ủy ban
dân số, gia đình và trẻ em TP.HCM)
III. Những định hướng để xây dựng gia
đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc.
1. Gia đình mới hiện đại ra đời trên sự kế
thừa những truyền thống và tiếp thu
những tiến bộ của gia đình mới hiện đại
Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu
đời trong lịch sử dân tộc. Bước vào thời kỳ
mới gia đình ấy bộc lộ cả những mặt tích
cực và tiêu cực. do vậy Nhà nước cũng như
các cơ quan văn hóa các ban ngành lên quan
phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích:
đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới
khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Tất
nhiên, kết thừa không phải là “ phục cổ” .
Nhưng những gì tiếp thu của gia đình quá

khứ đều nhằm bổ sung và làm phong phú
thêm gia đình mới hiện nay.
Gia đình còn liên quan và chịu ảnh hưởng
của tình hình quốc tế, nhất là ngày nay, khi
có những phương tiện thông tin hiện đại và
việc mở rộng giao lưu quốc tế. Nhiều hiện
tượng tiêu cực khắp các châu lục đang diễn
ra, những lo lắng cho mọi người và tác hại
đến sự phát triển gia đình lành mạnh của gia
đình ở nhiều quốc gia, như tính thực dụng
trong tình yêu, quan hệ tình dục phóng
đãng… nhưng, xã hội mới cũng mang lại
nhiều nội dung tiến bộ đến cho gia đình như:
dân chủ hóa các quan hệ trong gia đình, sự
tôn trọng nhân cách của các thành viên khác,
hiện đại hóa nhu cầu vật chất và tinh thần
của gia đình, cộng đồng hổ trợ gia đình phát

7
triển, hình thức gia đình hạt nhân tăng lên,
thu hẹp quy mô gia đình …
Để xây dựng gia đình mới phải ngăn chặn
những hiện tượng tiêu cực, mạnh dạn lựa
chọn và xử lý đúng đắn những yếu tố mới
nãy sinh, và quan trọng hơn, là biết tiếp thu
những nội dung tiến bộ của thời đại. Xử lý
và tiếp thu những vấn đề của thời đại không
phải là cách tân đơn giản mà phải phù hợp
với truyền thống của dân tộc, của gia đình
và sự phát triển chung của xã hội.

2. Thực hiện hôn nhân tiến bộ là một
trong những phương hướng quan trọng
để hình thành gia đình mới hòa thuận –
bình đẳng – hạnh phúc.
Hôn nhân tiến bộ coi tình yêu là cơ sở tinh
thần chủ yếu, là yếu tố quyết định nhất của
hôn nhân. Tình yêu là phạm lớn của vấn đề
hôn nhân và gia đình. Những yếu tố cơ bản
về một tình yêu chân chính đã được Ph.
Ăngghen nêu ra trong tác phẩm “ Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước”. Theo Ăngghen, tình yêu là trạng
thái say mê rất hiện thực nhưng không rơi
vào tầm thường, dung tục. Nó khác hẳn với
tình dục đơn thuần. Tình yêu thực sự phải
phù hợp với đạo đức, có trách nhiệm và
nồng nhiệt với cả hai phía của lứa đôi. Tình
yêu lành mạnh phải tíến tới hôn nhân, với
Ph.Ăngghen cho rằng việc yêu và lấy nhau –
hình thành gia đình là một nghĩa vụ chân
chính. Còn khi nói về bản chất của tình yêu,
Người nhấn mạnh hơn cả đến sự chung
thủy… Bởi vậy, những quy định phong kiến
quá khắt khe, cũng như kiểu tự do tư sản
trong quan hệ nam nữ đã hạn chế và ngăn
cản tình yêu chân chính.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm nguyên tắc tự
nguyện. Hôn nhân tự nguyện đảm bảo tối đa
cho tình yêu tiến tới hôn nhân một cách hiện
thực. Để cho nam nữ tự do tìm hiểu, đến với

nhau có ý nghĩa là họ tự định đoạt lấy tương
lai hạnh phúc Sau khi thành lập gia đình, họ
có trách nhiệm với nhau trong lúc thuận lợi
cũng như khó khăn. Hôn nhân tự nguyện là
điều kiện của hạnh phúc và sự vững bền của
gia đình. Nhân loại ngày càng nhận thức
được về hôn nhân tự nguyện như một nội
dung quan trọng của nhân quyền và tiến bộ
xã hội. Xây dựng gia đình mới cần khắc
phục và loại trừ tệ nạn cưỡng ép và quan
điểm ; “ bố mẹ đặt đâu con ngồi đó” trong
hôn nhân. Tất nhiên, trong xã hội mới, hạnh
phúc lứa đôi rất cần sự hướng dẫn, khuyên
nhủ của người thân, bạn bè họ có thể tìm
hiểu và quyết định vấn đề phù hợp nhất.
Hôn nhân tiến bộ là hình thức gia đình một
vợ một chồng. Bản chất của tình yêu đòi hỏi
hôn nhân tất yếu phải là hôn nhân cá thể.

8
Đây là điều kiện quan trọng để tiếp tục duy
trì tình yêu sau hôn nhân.
Điều 64 HP 1992 có quy định “ gia đình là
tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình, hôn nhân theo nguyên tắc
tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng bình
đẳng” trên cơ sở đó Luật Hôn nhân gia đình
2000 đã khẳng định nguyên tắc cơ bản đầu
tiên của chế độ HNGD là “ hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng bình

đẳng” ( Khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này
được thể hiện cụ thể trong những quy định
về kết hôn, thực hiện quan hệ vợ chồng, ly
hôn nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,
một vợ, một chồng.
Quyền về hôn nhân và gia đình biểu hiện
quyền con người trong một lĩnh vực cụ thể
của đời sống xã hội. Nhà nước thừa nhận và
bảo vệ quyền tự do cá nhân được xác lập
chấm dứt trong quan hệ hôn nhân. Điều 4
khoản 2 Luật Hôn nhân gia đình 2000 quy
định “ cấm tảo hôn, cưởng ép kết hôn, càn
trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ: cấm kết
hôn giả tạo lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm
cưởng ép ly hôn, ly thân giả tạo, cấm yêu
sách trong cưới hỏi”. Việc kết hôn của nam
và nữ do chính họ tự quyết định trên cơ sở
tình yêu chân chính. Khi quyết định đăng ký
kết hôn Luật HNGD quy định “ việc kết hôn
do nam nữ tự nguyện, không bên nào được
ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được
cưởng ép hoặc cản trở” ( Khoản 2 Điều 9).
Được coi là nam nữ tự nguyện trong việc kết
hôn khi sự bày tỏ ý muốn kết hôn hoàn toàn
phù hợp với ý chí của họ, nghĩa là xuất phát
từ nội tâm, từ nguyện vọng muốn trở thành
vợ, thành chồng với người mình yêu.
Sự tự nguyện kết hôn của nam nữ là yếu tố
quan trọng để hoàn thành quan hệ vợ chồng
về mặt pháp lý, là cơ sở để duy trì hạnh

phúc. Đồng thời tự nguyện kết hôn một chế
độ hôn nhân và gia đình dân chủ.
Quyền tự do trong hôn nhân còn được thể
hiện ở quyền tự do ly hôn. Nếu như không
thể ép buộc họ tiếp trục duy trì cuộc sống vợ
chồng, khi cuộc sống đã hoàn toàn là dối trá,
hôn nhân của họ đã đổ vỡ gây cho họ những
mất mát và đau khổ của vợ và chồng trong
mọi trường hợp. Luật chỉ quy định hạn chế
quyền yêu cầu ly hôn hôn của người chồng
vì bảo vệ chính đáng quyền lợi của phụ nữ
và con nhỏ: “ trong trường hợp vợ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn ( Điều
85). Trong trường hợp hạn chế này không áp
dụng đối với người vợ, nghĩa là dù trong
tình trạng mang thai hay nuôi con dưới 12
tháng tuổi người vợ vẫn có quyền yêu cầu ly
hôn nếu có lý do chính đáng.

9
Hôn nhân một vợ một chồng là phù hợp với
sự phát triển kinh tế – xã hội chủ nghĩa và là
một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo
sự bền vững của hôn nhân. Chính vì vậy,
hôn nhân một vợ một chồng được Luật Hôn
nhân gia đình khẳng định là nguyên tắc cơ
bản của chế độ Hôn nhân và gia đình ( Điều
2). Bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình một vợ
một chồng Luật Hôn nhân gia đình 2000 quy

định “ cấm người đang có vợ, chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ”
( Điều 4 – Luật Hôn nhân gia đình 2000)
Quan hệ vợ chồng bình đẳng: Vợ và chồng
là các bên chủ thể trong một quan hệ pháp
luật được Nhà nước bảo hộ, có các nghĩa vụ
và quyền về nhân thân, tài sản ngang nhau
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong
chế độ xã hội chủ nghĩa nam và nữ kết hôn
với nhau trên cơ sử tình yêu nhằm chung
sống suốt đời, cùng xây dựng gia đình ấm
no, hạnh phúc, bền vững (Nam, nữ chính
thức trở thành vợ chồng kể từ khi việc kết
hôn của họ được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền công nhận bằng thủ tục đăng kí kết
hôn theo quy định của pháp luật ). Điều mà
vợ chồng quan tâm nhất là lợi ích chung của
gia đình, cho nên vợ chồng cùng “chung
sức chung lòng” vun đắp cho hạnh phúc gia
đình. Vì thế vợ chồng đều có trách nhiệm
như nhau trong việc xây dựng gia đình. Pháp
luật không căn cứ vào giới tính để quy định
nghĩa vụ và quyền riêng cho mỗi bên vợ,
chồng mà chỉ quy định nghĩa vụ và quyền
chung của họ. Những quy định về nghĩa vụ
và quyền chung của vợ chồng là khung pháp
lý cho những xử sự của vợ, chồng trong tất

cả các trường hợp thực hiện quan hệ gia
đình và chính là sự thể hiện sự bình đẳng có
bảo đảm giữa vợ và chồng về nghĩa vụ và
quyền.
Sự bình đẳng giữa vợ và chồng về phải được
thể hiện đầy đủ trên các mặt của đời sống
gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong nhiều
chế định, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 đã quy định, vợ chồng bình đẳng với
những nghĩa vụ về quyền nhân thân và về tài
sản. Điều 19 quy định “ vợ chồng bình đẳng
với nhau, có nhiệm vụ và quyền ngang nhau
về mọi mặt trong gia đình”
Về nhân thân, Luật quy định vợ, chồng có
nhiệm vụ và quyền đối với nhau khi thực
hiện các hành vi trong gia đình cũng như
ngoài xã hội. Vợ chồng chung thủy, thương
yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau
( Điều 18), vợ chồng tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhau ( Điều 22), vợ
chồng tôn trọng và giữ gì danh dự, nhân

10
phẩm uy tín của nhau ( Điều 21), vợ chồng
cùng bàn bạc giúp đỡ, tạo điều kiện cho
nhau chọn nghề nghiệp, học tập, nâng cao
trình độ văn hóa chuyên môn, nghiệp vụ,
tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội theo nguyện vọng, khả năng của
mỗi người ( Điều 23 ).

Sự bình đẳng giữa vợ và chồng về nhân thân
quyết định sự bình đẳng giữa vợ và chồng
về tài sản. duy trì đời sống và sự phát triển
kinh tế và gia đình là nhiệm vụ chung của
vợ, chồng vợ và chồng bình đẳng với nhau
trong việc thực hiện những hành vi đó cũng
như được hưởng các quyền về tài sản thể
hiện:
Vợ chồng có nghĩa vụ như nhau trong việc
tạo lập bảo vệ khối tài sản chung. Tất cả
những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra
những thu nhập hợp pháp mà mỗi bên có
được trong thời kỳ hôn nhân đèu là tài sản
chung của vợ chồng ( trừ những trường hợp
mà pháp luật quy định là tài sản riêng của vợ
chồng – Điều 27 )
Vợ và chồng có nhiệm vụ và quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản mà không căn cứ vào công sức
đóng góp của mỗi bên, vợ chồng cùng bàn
bạc, thỏa thuận hình thức chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung vì nhu cầu
chung đối với gia đình ( Điều 28)
Vợ chồng bình đẳng với nhau trong phân
chia tài sản chung, Luật Hôn nhân gia đình
phân 3 trường hợp có thể xảy ra việc phân
chia tài sản chung của vợ, chồng: chia tài
sản trong khi hôn nhân đang tồn tại, chia tài
sản chung khi một bên vợ hoặc chồng chết
( hoặc bị Tòa án tuyên bố đã chết ) và chia

tài sản chung khi vợ chồng ly hôn. Vợ và
chồng đều có quyền ngang nhau trong việc
yêu cầu chia tài sản chung và đều được xem
xét giải quyết.
Vợ chồng có quyền có tài sản riêng và có
nhiệm vụ như nhau đối với những nhu cầu
thiết yếu của gia đình ( Điều 32, Điều 33 )
Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau,
có quyền được thừa kế tài sản của nhau khi
môth bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố đã
chết. Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ
hoặc chồng sau khi đã ly hôn có điều kiện
cấp dưỡng phải cấp dưỡng cho người kia
đang trong tình trạng cần cấp dưỡng. Nhiệm
vụ cấp dưỡng và quyền được cấp dưỡng đặt
ra bình đẳng giữa hai người đã từng là vợ
chồng.
Như vậy vợ và chồng bình đẳng với nhau về
mọi mặt trong gia đình cũng như ngoài xã

11
hội là một nguyên tắc nhất quán trong quan
hệ Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật
Hôn nhân và gia đình đã tạo ra cơ sở pháp lý
cho quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong
mọi lĩnh vực của đời sống gia đình và xã
hội, giải phóng người phụ nữ ra khỏi những
tàn dư của sự kìm hảm của tư tưởng gia đình
phong kiến, đồng thời bảo vệ quyền lợi của
vợ, chồng ( đặc biệt là vợ ) được sống và

phát triển trong một gia đình dân chủ, hạnh
phúc tham gia công tác chính trị, xã hội.
Luật hôn nhân gia đình 2000 cũng quy định
về hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc
các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn
giáo và người không theo tôn giáo, giữa
công dân Việt Nam và công dân nước ngoài
đã thể chế hóa các nguyên tắc đã được
khẳng định trong Điều 70 Hiến Pháp và
Điều 43 Bộ Luật Dân sự về tôn trọng và bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng của công dân,
quy định này cũng nhằm đảm bảo quyền tự
do kết hôn của nam, nữ. Thể hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong
quan hệ hôn nhân, chính sách tôn giáo, đồng
thời phù hợp với chủ trương “ chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng
quan hệ sản xuất nhiều mặt song phương và
đa phương của Nhà nước trong thời kỳ
mới”
Để duy trì cuộc sống vợ chồng gia đình hạnh
phúc thì việc chính sách dân số kế hoạch
hóa gia đình sẽ góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống, là cơ sở cơ bản cho Nhà
nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. Kế
hoạch hóa gia đình một trong những vấn đề
cấp bách nằm trong chính sách lớn của Nhà
nước nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng cao
chất lượng cuộc sống, bảo đảm trẻ em sinh
ra được nuôi dạy tốt góp phần thực hiện mục

tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Luật hôn nhân gia đình cũng xác định
nguyên tắc để bảo đảm cho gia đình hiện đại
tiến bộ hạnh phúc là việc bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ và trẻ em là vấn đề không
chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đạo lý, là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc mà là vấn đề có
tính nguyên tắc toàn cầu. Nguyên tắc này
được thế giới công nhận vào bảo vệ, thể hiện
trong công ước quốc tế về quyền trẻ em,
công ước Cedaw về xóa bỏ tất cả các hình
thức phân biệt đối xử với người phụ nữ và
được nội luật hóa trong nhều đạo luật quan
trọng của Việt Nam.
Nhà nước không thừa nhận sự phân biệt đối
xử giữa các con, con trai và con gái, con đẻ
và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài
giá thú nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa

12
các con không phân biệt đối xử giữa các con
trong gia đình.
Nguyên tắc đã được cụ thể hóa trong một số
quyết đinh. Nguyên tắc này đã được cụ thể
hóa trong một số quyết định của Luật như
quyết định về sự bình đẳng giữa các quyền
và nghĩa vụ trong gia đình, quy định về nhân
thân cha, mẹ hoặc được Tòa án cho nhận,
mẹ của con ngoài giá thú, sự bình đẳng về

quyền và nghĩa vụ con tron giá thú và con
ngoài giá thú, giữa con đẻ và con nuôi …
quyền của các con khi bố mẹ ly hôn, quyền
bình đẳng trong quan hệ thừa kế…
3. Một số quan điểm quán triệt của Đảng
và Nhà nước trong việc gia đình xây dựng
gia đình hòa thuận, bình đẳng hạnh phúc.
Thứ nhất: Tiếp tục vận dụng sáng tạo
những định hướng chủ yếu xây dựng gia
đình mới trong chủ nghĩa xã hội và thực
hiện xây dựng gia đình mới ở nước ta.
Những quy định ấy phải xuất phát từ hoàn
cảnh lịch sử Việt Nam đang đà đổi mới toàn
diện và từ từng dạng hình gia đình cụ thể
khác nhau.
Thực chất xây dựng gia đình mới nhằm góp
phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng tới hình
thành con người mới Việt Nam với những
đặc tính như Nghị quyêts Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
đã nêu. Bởi thế, gia đình mới ở Việt Nam
chính là gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa
Việt Nam trên cơ sở giữ gìn và phát huy
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, xóa
bỏ những cái lạc hậu, những tàn tích của chế
độ hôn nhân gia đình phong kiến, chống lại
những ảnh hưởng xấu của chế độ hôn nhân
và gia đình tư sản, đồng thời biết tiếp thu
những tiến bộ của văn hóa nhân loại Đại hội

đại biểu Quốc hội lần X của đảng đã nêu rõ
” Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thật sự là
tế bào của xã hội, là tổ ấm của mọi người.
phát huy trách nhiệm của gia đình trong
việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân
tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực
hiện tốt Luật Hôn nhân gia đình”
Trước mắt, ” no ấm, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc” chính là chuẩn mực cần vươn
tới của gia đình mới ở nước ta. Sự no ấm
phải là kết quả của lao động cần cù, sáng
tạo và chính đáng của gia đình. Sự bình
đẳng vừa thể hiện dân chủ vừa thể hiện tính
nề nếp và hòa thuận giữa các thành viên
trong gia đình. Gia đình tiến bộ trên cơ sở
tiến bộ của mọi thành viên và không thể tách
rời sự tiến bộ chung của xã hội. No ấm, bình
đẳng, tiến bộ tạo nên hạnh phúc cho gia

13
đình. Gia đình là hạnh phúc không phải là
cái trìu tượng mà là tổng hòa những nét đẹp
thường ngày của cuộc sống gia đình.
Thứ hai: Xây dựng gia đình văn hóa đem
lại lợi ích của cá nhân và xã hội. Con người
mới của xã hội phải có ý chí vun đắp cho
hạnh phúc gia đình. Từ chuẩn mực trên của
gia đình, ta nhận thấy, sự nghiệp xây dựng
gia đình hòa thuận – bình đẳng – hạnh phúc

là sự cố gắng chung của mỗi người. Mỗi gia
đình, của mọi lực lượng và tổ chức xã hội
trong nước, và còn có sự giúp đỡ của quốc
tế.
Kế hoạch xây dựng và cũng cố gia đình phải
gắn với kế hoạch xây dựng và phát triển xã
hội ở từng địa phương cũng như trên phạm
vi quốc gia. Nhiều loại chính sách xã hội tác
động thì gia đình mới có thể hình thành.
Chính ở đây đã nói lên trọng trách của Nhà
nước trong việc xây dựng gia đình. Từ thực
tiễn của vấn đề gia đình Việt Nam, một mặt
tiếp tục tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện tốt
các chính sách của nnn, mặt khác cần rà soát
lại để đề nghị bổ sung, sửa đổi một số chính
sách có liên quan đến gia đình, góp phần
củng cố và phát triển gia đình hiện nay ở
nước ta.
Thứ ba: Quan tâm một cách thiết thực và
toàn diện hơn nữa đến phụ nữ vừa là mục
tiêu vừa là điều kiện quan trọng để xây dựng
và củng cố gia đình hòa thuận – bình đẳng –
hạnh phúc ở nước ta. Những quan điểm lớn
về giải phóng phụ nữ đã được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp luật. Cần tích cực
hơn nữa để đạt được trong tực tế là những
mục tiêu mà kế hoạch này đưa ra. Qua đó
phụ nữ Việt Nam có điều kiện làm tốt công
việc gia đình và làm tròn nhiệm vụ xã hội.
_________________


14

×