DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới giai đoạn 2007-2011 13
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất khoai lang ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011 18
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất, sản lượng khoai lang ở các vùng của Việt Nam năm
2010 18
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất khoai lang tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2007-2011. .25
Bảng 4.1: Một số giai đoạn sinh trưởng của các giống khoai lang thí nghiệm 32
Bảng 4.2: Khả năng sinh trưởng của các giống khoai lang thí nghiệm 34
Bảng 4.3: Động thái tăng trưởng chiều dài thân chính của các giống khoai lang thí
nghiệm 35
Bảng 4.4: Độ che phủ luống của các giống khoai lang thí nghiệm ở giai đoạn 30,60
và 90 ngày sau trồng 36
Bảng 4.5: Đặc điểm hình thái các giống tham gia thí nghiệm 37
Bảng 4.6: Năng suất cá thể của các giống khoai lang tham gia thí nghiệm 38
Bảng 4.7: Tỉ lệ củ thương phẩm và củ nhỏ của các giống thí nghiệm 38
Bảng 4.8: Năng suất củ, năng suất thân lá, năng suất sinh khối của các giống khoai
lang thí nghiệm 39
Bảng 4.9: Mức độ nhiễm sâu hại của giống khoai lang tham gia thí nghiệm 40
DANH MỤC CÁC HÌNH
Biểu đồ 4.1: Năng suất củ, năng suất lý thuyết, năng suất sinh khối của
các giống khoai lang thí nghiệm 39
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
Đ/C: Đối chứng
ĐH: Đại học
NST: Ngày sau trồng
TB: Trung bình
P: Khối lượng
IPGRI: Viện tài nguyên di truyền thực vật Quốc tế
FAO: Tổ chức lương thực và nông nghiệp liên hiệp quốc
NS: Năng suất
NSTL: Năng suất thân lá
NSSK: Năng suất sinh khối
CTTN: Công thức thí nghiệm
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
PHẦN 2 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Phân loại, nguồn gốc và phân bố cây khoai lang 3
2.2. Những đặc tính nông học và yêu cầu ngoại cảnh và đất trồng đối với khoai lang 5
2.2.1. Đặc tính nông học 5
2.2.2. Yêu cầu ngoại cảnh và đất trồng đối với cây khoai lang 6
2.2.2.1. Nhiệt độ và độ ẩm 6
2.2.2.2. Đất 7
2.2.2.3. Nhu cầu dinh dưỡng 7
2.2.2.4. Nước 8
2.3. Giá trị dinh dưỡng và tầm quan trọng của cây khoai lang trong đời sống con người và
chăn nuôi 9
2.3.1. Các thành phần dinh dưỡng 9
2.3.2. Chất khô và tinh bột 9
2.3.3. Xơ tiêu hoá 10
2.3.4. Protein 11
2.3.5. Các Vitamin và khoáng chất 11
2.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang trên thế giới 12
2.4.1. Tình hình sản xuất 12
2.4.2. Tình hình nghiên cứu 13
2.5. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang ở Việt Nam 17
2.5.1. Tình hình sản xuất 17
2.5.2. Tình hình nghiên cứu 20
2.6. Tình hình sản xuất khoai lang tại Thái Nguyên 25
PHẦN 3 27
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 27
3.2. Nội dung nghiên cứu 27
3.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm và kỹ thuật trồng 27
3.4. Các chỉ tiêu theo dõi và xử lý số liệu 29
3.5. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu 31
PHẦN 4 32
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
4.1. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh trưởng của các giống khoai lang thí nghiệm vụ
Đông năm 2013 tại trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên 32
4.2. Đặc điểm hình thái của các giống khoai lang tham gia thí nghiệm 36
4.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống khoai lang thí nghiệm 37
4.4. Khả năng chống chịu của các giống tham gia thí nghiệm 40
PHẦN 5 42
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 42
5.1. Kết luận 42
5.2. Đề nghị 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
I. Tài liệu tiếng Việt 44
II. Tài liệu tiếng Anh 45
III. Tài liệu từ Internet 46
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bộ mặt nước ta đã có nhiều thay đổi. Việt Nam đã thoát khỏi các nước
nghèo trên thế giới, nền kinh tế đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn
cầu, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã thu được những thành
tựu đáng kể, nhiều sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu với khối lượng lớn mang
lại nguồn lợi cho đất nước và cho người sản xuất. Từ một nước thiếu lương
thực giờ đây đã trở thành một trong những nước đứng đầu trên thế giới về
xuất khẩu gạo. Do vậy, chúng ta có điều kiện chú ý hơn vào các cây trồng
khác trong đó cây có củ đang ngày một phát triển, đặc biệt là khoai lang.
Cây khoai lang (Ipomoea batatas. (L) Lam) là cây có củ, chứa nhiều tinh
bột, vị ngọt có thể sử dụng củ để ăn tươi, thái lát phơi khô, chế biến tinh bột
dùng làm lương thực, thức ăn chăn nuôi, thân lá có thể làm rau xanh, trong
công nghệ chế biến (chips, sấy khô, bánh kẹo, tinh bột và rượu ) ngày càng
phát triển. Hiện nay trên thế giới cũng như trong nước xu hướng sử dụng
khoai lang chất lượng cao trong ăn tươi và sau chế biến ngày càng tăng. Theo
tổ chức FAO của Liên Hợp Quốc đã đánh giá khoai lang là thực phẩm bổ
dưỡng tốt nhất của thế kỷ 21. Những năm qua ở Miền nam và Tây nguyên đã
có các mô hình sản xuất khoai lang để xuất khẩu sang thị trường Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan thu 60 - 70 triệu đ/ha/vụ.
Thái Nguyên có điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng rất phù hợp cho cây
khoai lang sinh trưởng và phát triển bởi vậy khoai lang là một cây trồng
truyền thống và có vị trí quan trọng nhất định trong cơ cấu cây trồng của tỉnh.
Do là một cây trồng đa dụng, rất dễ trồng, nhân giống bằng dây, ít bị sâu,
bệnh, chi phí đầu tư trên đơn vị diện tích trồng thấp nhưng cho thu nhập khá
thích hợp với nhiều hộ nông dân nghèo trong việc phát triển kinh tế hộ gia
đình. Tuy nhiên những năm gần đây diện tích trồng khoai lang của tỉnh đang
giảm dần, do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp bởi quá trình đô thị hóa và
1
việc mở rộng diện tích các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế hơn Trong khi
năng suất, phẩm chất khoai lang vẫn còn chưa cao chưa đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng.
Từ thực tế đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu khả năng
sinh trưởng và phát triển của một số giống khoai lang chất lượng cao vụ
Đông năm 2013 tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Nhằm chọn ra một số giống khoai lang có chất lượng tốt năng suất cao
phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất và thị hiếu của người tiêu dùng, góp
phần phát triển sản xuất khoai lang ở Thái Nguyên.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ xung cơ sở lý luận cho
việc phát triển khoai lang vụ Đông ở tỉnh Thái Nguyên cũng như các tỉnh
miền núi phía bắc Việt Nam.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá lựa chọn được giống khoai lang có khả năng sinh trưởng và
phát triển tốt cho năng suất phù hợp với điều kiện sản xuất tại Thái Nguyên.
Mở rộng diện tích khoai lang góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cây khoai lang (Ipomoea batatas. L).
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của
một số giống khoai lang chất lượng cao vụ Đông trong điều kiện sinh thái tại
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Phân loại, nguồn gốc và phân bố cây khoai lang
Khoai lang [Ipomoea batatas (L.) Lam] là cây hai lá mầm thuộc chi
Ipomoea, họ bìm bìm (Convolvuaceae) (Purseglove, 1974 [ ]); dẫn theo
Nguyễn Viết Hưng và cs, 2010 [13]. Trong số 50 chi và hơn 1000 loài thuộc họ
này thì Ipomoea batatas là loài có ý nghĩa kinh tế quan trọng, được sử dụng
làm lương thực và thực phẩm. Số loài trong chi Ipomoea đã được xác định là
hơn 400 loài nhưng loài Ipomoea batatas là loài cây trồng duy nhất có củ ăn
được. Cây khoai lang với thân phát triển lan dài, các lá có nhiều hình dạng khác
nhau từ dạng lá đơn đến chia thùy sâu (Mai Thạch Hoành, 1998) [7].
Khoai lang có nguồn gốc nguyên thủy từ vùng nhiệt đới Châu Mỹ lan
dần đến vùng nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, những nước mà cây khoai
lang đóng vai trò quan trọng nhất lại là những nước mà cây khoai lang mới du
nhập gần đây. Các thương gia và các nhà thống trị Châu Âu đã mang đến
Châu Phi, Châu Á và đông Thái Bình Dương. Cây khoai lang được đưa vào
Trung Quốc năm 1594 và Papua Niu Ghinê (PNG) khoảng 300 đến 400 năm
trước (Yen, 1974) [31].
Hầu hết bằng chứng về khảo cổ học, ngôn ngữ học và sử học đều cho
thấy Châu Mỹ là khởi nguyên của cây khoai lang (Trung hoặc Nam Mỹ).
Bằng chứng lâu đời nhất là những mẫu khoai lang khô thu được tại hang động
Chilca Canyon (Peru) sau khi phân tích phóng xạ cho thấy độ tuổi từ 8000
đến 10000 năm (Engel, 1970) [23]. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học về cây
khoai lang còn được tìm thấy tại thung lũng Casma của Peru có độ tuổi xấp xỉ
2000 năm trước công nguyên (Austin (1977) [21].
Vào năm 1942 trong chuyến vượt biển đầu tiên của Christopher
Columbus đã tìm ra tân thế giới (Châu Mỹ) và phát hiện ra khoai lang được
trồng ở Hispaniola và Cu Ba. Từ đó, khoai lang mới thực sự lan rộng ở Châu
Mỹ và sau đó di thực đi khắp thế giới.
Đầu tiên khoai lang được đưa về Tây Ban Nha, tiếp đó tới một số nước
Châu Âu và được gọi là Batatas (hoặc Padada) sau đó là Spanish Potato (hoặc
sweet potato).
3
Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đã du nhập cây khoai lang vào Châu
Phi (Có thể bắt đầu từ Mô Dăm Bic hoặc Ăngôla) theo hai con đường từ Châu
Âu và trực tiếp từ vùng bờ biển Trung Mỹ, sau lan rộng sang Ấn Độ.
Người Anh đã đưa khoai lang vào Nhật Bản năm 1615 nhưng đã không
phát triển được. Đến năm 1674 cây khoai lang đã được tái nhập vào Nhật Bản
từ Trung Quốc.
Cây khoai lang tuy có nguồn gốc ở Châu Mỹ, nhưng chúng chỉ thực sự
lan rộng ở châu lục này khi người Châu Âu đầu tiên đặt chân tới.
Các thương gia Tây Ban Nha đã du nhập khoai lang vào Philippin
(Yen, 1982) [32] và từ Philippin vào Phúc Kiến (Trung Quốc) năm 1594. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khoai lang vào Trung Quốc có thể sớm hơn từ
Ấn Độ hoặc Myanma.
Do khả năng thích ứng rộng và dễ nhân giống, khoai lang đã được mở
rộng ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ la tinh vào thế kỷ 17 và 18. Hiện nay
khoai lang được phân bố rộng rãi ở các vùng Nhiệt đới, Á nhiệt đới và vùng
ôn đới ẩm thuộc Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Châu Âu từ 40° vĩ Bắc
xuống 32
0
Nam. Ở vùng xích đạo khoai lang còn được trồng ở độ cao 3000 m
so với mặt biển (Woolfe J.A., 1992 [29]). Tuy nhiên cây khoai lang vẫn được
trồng nhiều ở các nước nhiệt đới, á nhiệt đới Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ
La Tinh.
Ở Việt Nam, theo các tài liệu cổ như sách “Thực vật bản thảo”, “Lĩnh
nam tạp kỷ” và “Quảng Đông tân ngữ” của Lê Quý Đôn (Viện Hán Nôm,
1995) [18], (Bùi Huy Đáp 1984 [1], cây khoai lang có nhiều khả năng là cây
trồng nhập nội và có thể được đưa vào nước ta từ nước Lã Tông (đảo Luzon
ngày nay) vào cuối đời Minh cai trị nước ta.
Trong “Thảo mộc trang” có đoạn viết: “Cam thự (khoai lang) là củ
thuộc loài Thử Dự, rễ và lá như rễ khoai, củ to bằng nắm tay, to nữa bằng cái
bình, da tía, thịt trắng, người ta luộc ăn” (Bùi Huy Đáp 1984) [1], (Viện Hán
nôm, 1995) [18].
Sách “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” (Nhà xuất bản khoa học
xã Hội 1987 đã có ghi: “Năm 1559 (năm Mậu ngọ), khoai lang từ Philippin được
đưa vào Việt Nam, trồng đầu tiên ở An Trường - thủ đô tạm thời của đời nhà Lê
4
Trung Hưng (Hậu Lê), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa”.
Như vậy, khoai lang đã có mặt ở Việt Nam cách đây khoảng gần 450
năm. Cây khoai lang được giới thiệu vào Việt Nam có thể từ tỉnh Phúc Kiến -
Trung Quốc hoặc đảo Luzon - Philippin vào cuối thế kỷ 16 (Vũ Đình Hòa,
1996 [4]).
2.2. Những đặc tính nông học và yêu cầu ngoại cảnh và đất trồng đối với
khoai lang
2.2.1. Đặc tính nông học
Theo Bùi Huy Đáp (1984), khi được trồng bằng dây, chu kỳ sinh
trưởng phát triển của cây khoai lang có thể được chia thành 3 thời kỳ nối liền
nhau và đan xen nhau:
Thời kỳ đầu: Là thời kỳ phát triển của thân lá và bộ rễ có chức năng
hút chất dinh dưỡng. Trong thời kỳ này thân dài nhanh, thân chính có thể tăng
độ dài từ 1,5 - 2,0cm/ngày; đồng thời nhánh, bộ lá và hệ rễ phát triển để hút
nước và hấp thu các chất dinh dưỡng. Mỗi ngày cây có thể ra thêm 3 - 4 lá
mới trên thân. Khoai lang trồng vụ Đông xuân ở miền Bắc có thời gian sinh
trưởng khoảng 3 - 4 tháng, thời kỳ đầu dài khoảng 40-50 ngày.
Thời kỳ giữa: Là thời kỳ trung gian. Thân và lá tiếp tục phát triển mạnh
nhưng nói chung tốc độ có chậm hơn so với thời kỳ trước. Tốc độ ra lá chậm
hơn, và chỉ tiêu rõ rệt nhất là tốc độ tích lũy chất khô của thân, lá chậm lại. Đồng
thời rễ củ đã phân hóa và bắt đầu phát triển dần, tốc độ tích lũy chất khô trong củ
tăng lên và đến một lúc nào đó trong cùng thời kỳ, trọng lượng chất khô trong củ
và trong thân lá tương đương nhau. Thời kỳ này kéo dài khoảng 30 ngày.
Thời kỳ cuối: Là thời kỳ phát triển củ. Thân và lá không phát triển
mạnh nữa. Khối lượng chất khô của thân và lá giảm dần, khối lượng chất khô
tích lũy vào củ tiếp tục tăng lên. Hiệu suất quang hợp và tích lũy chất khô của
cả cây khoai lang cũng đạt cao nhất ở thời kỳ này.
Độ dài của mỗi thời kỳ sinh trưởng dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào giống
khoai lang và mùa vụ trồng, kể cả chịu tác động của biện pháp kỹ thuật canh tác.
Biểu hiện sinh trưởng của thân lá có quan hệ với sự hình thành và phát
triển củ khoai lang. Trong điều kiện thuận lợi và không gặp mưa, nếu quan sát
thấy khi cây khoai lang có các lá gốc chín vàng và một số lá sát gốc đã rụng,
thì khoai lang đã bắt đầu hình thành củ. Củ càng lớn thì các lá ở gốc càng
rụng nhiều.
5
2.2.2. Yêu cầu ngoại cảnh và đất trồng đối với cây khoai lang
2.2.2.1. Nhiệt độ và độ ẩm
Khoai lang là cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở những nơi thời tiết
ẩm khoai lang có thể được trồng quanh năm. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với
khoai lang còn tùy thuộc vào điều kiện, từng thời kỳ sinh trưởng phát triển
khác nhau và có liên quan chặt chẽ đối với thời vụ trồng.
Trong điều kiện thuận lợi, từ 5 - 7 ngày sau khi trồng khoai lang bắt
đầu ra rễ từ các mắt đốt trên thân, nhưng mầm thì sẽ phát triển chậm hơn.
Nhiệt độ không khí càng cao càng có lợi cho thời kỳ sinh trưởng này. Nhiệt
độ thích hợp 20-25
0
C. Thời kỳ này nêu nhiệt độ xuống dưới 15
0
C thì khoai
lang sẽ chậm ra rễ và mọc mầm, nếu nhiệt độ xuống thấp hơn nữa và kéo dài
trong 5 - 7 ngày có thể dẫn đến cây khoai lang bị chết; độ ẩm đất 70 -80% độ
ẩm tối đa đồng ruộng, đất thoáng. Ngoài ra chất lượng dây giống cũng là yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng mọc mầm của khoai lang (dẫn theo
Nguyễn Viết Hưng và cs, 2010 [13]).
Nhiệt độ thích hợp ở thời kỳ phân cành kết củ là 25 - 28
0
C, nhiệt độ
quá cao hay quá thấp đều không có lợi cho quá trình phân hóa hình thành củ,
nhu cầu nước của khoai lang bắt đầu tăng lên nhưng độ ẩm đất cũng chỉ 70
-80% độ ẩm tối đa đồng ruộng, đảm bảo độ thoáng khí trong luống khoai.
Dinh dưỡng cũng là yêu cầu quan trọng trong thời kỳ này.
Đặc điểm của thời kỳ sinh trưởng thân lá là tốc độ phát triển thân lá -
bộ phận trên mặt đất tăng rất nhanh. Nói chung nhiệt độ càng cao, sinh trưởng
thân lá càng mạnh; nhiệt độ thích hợp cho thời kỳ này là 28 - 30
0
C.
Nhiệt độ bình quân thích hợp cho thời kỳ phát triển củ là 22 - 24
0
C.
Tuy nhiên tốc độ lớn của củ khoai lang còn phụ thuộc vào biên độ chênh lệch
nhiệt độ ngày đêm, chênh lệch này càng lớn thì càng có lợi cho sự lớn lên của
củ (Trịnh Xuân Ngọ và Đinh Thế Lộc, 2004) [16].
Trong điều kiện nhiệt độ từ 10
0
C đến 15
0
C hoặc thấp hơn nữa thì khả năng
phân hóa và hình thành củ hầu như không diễn ra (Spence và Humphris, 1972) [28]
Theo Bùi Huy Đáp (1984), trong điều kiện miền Bắc có mùa đông lạnh,
thì những tháng lạnh là không thích hợp cho sự sinh trưởng của khoai lang
không chỉ ở miền núi mà ở cả đồng bằng. Vì vậy, khoai lang vụ Đông muốn
6
có năng suất cao thì nên được trồng sớm trong nửa đầu tháng 9 để cây có thể
bén rễ, phát triển dây và lá trong điều kiện nhiệt độ còn tương đối cao và độ
ẩm tương đối đủ của cuối mùa mưa, và làm củ được trong những tháng còn
nắng hanh của nửa đầu mùa đông.
2.2.2.2. Đất
Khoai lang là cây dễ tính không kén đất tuy nhiên thích hợp nhất cho
cây khoai lang phát triển là đất thịt nhẹ, tơi xốp, lớp đất mặt sâu. Theo Bourke
(1985) [22] ở Papua Niu Ghine, khoai lang trồng trên đất thịt nặng, đất than
bùn cũng như đất cát pha, nền đất bằng phẳng cũng như đất sườn dốc nghiêng
tới 40
0
. Đất có kết cấu chặt và nghèo dinh dưỡng sẽ hạn chế quá trình hình
thành củ khoai lang, dẫn đến năng suất thấp.
Bourke (1985) [22] cho rằng pH tối thích cho khoai lang sinh trưởng phát
triển tốt 5,6 - 6.6. Tuy nhiên cây khoai lang có thể sinh trưởng phát triển tốt ở
loại đất có pH = 4,5 - 7,5 trừ đất sét nặng có hàm lượng nhôm trong đất cao.
Khoai lang được xem là có khả năng chịu được đất nghèo dinh dưỡng.
Trên nền đất được coi là nghèo với một số cây trồng khác thì khoai lang vẫn
cho năng suất. Tuy nhiên năng suất đạt được trên loại đất này chỉ khai thác
được một phần khả năng sản suất của cây. Muốn khoai đạt năng suất cao cần
tăng dinh dưỡng cho cây. Khoai lang là cây trồng cạn, được trồng chủ yếu
trên đất cát ven biển, cát pha, đất thịt nhẹ, đất một lúa một màu và đất hai vụ
lúa một vụ màu. Đối với chân đất hai vụ lúa một vụ màu với điều kiện thành
phần cơ giới tương đối nhẹ, chủ động trong việc tưới tiêu, rất thích hợp đối
với cây khoai lang.
Đối với điều kiện đất đai ở Việt Nam, nhất là khi cây vụ Đông trở
thành vụ sản xuất chính trong sản xuất, tiềm năng đất đai có thể trồng được
khoai lang là rất lớn. Vì vậy việc phát triển sản xuất cây khoai lang vụ Đông
lên chân đất hai vụ lúa đã đem lại những giá trị không nhỏ.
2.2.2.3. Nhu cầu dinh dưỡng
Cùng với đó, một số kết quả nghiên cứu về phân bón cho cây khoai
lang của nhiều tác giả thấy rằng:
Trong ba nguyên tố dinh dưỡng chính (đạm, lân, kali) thì kali là yếu tố
quan trọng nhất đối với khoai lang. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy khoai lang
7
có nhu cầu dinh dưỡng về lân không nhiều và bón nhiều đạm có thể tăng
trưởng lá hạn chế phát triển củ nên năng suất thấp.
Đạm có tác dụng thúc đẩy sinh trưởng, phát triển thân lá, đặc biệt ở
thời kỳ đầu khoai lang cần tương đối nhiều đạm. Đạm tác động đến quá trình
phân hóa và hình thành củ, thiếu đạm khoai lang chậm lớn ít củ năng suất
giảm. Theo Đinh Thế Lộc, 1979 [15] bón thúc đạm sớm (20-45 ngày sau
trồng năng suất củ tăng 10 - 20%, bón thúc đạm muộn (80-90 ngày sau trồng)
làm giảm năng suất 10%. Theo Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Thế Yên và Mai
Thạnh Hoành, 1996;1999 đều cho rằng: Bón từ 60 - 120 kg N/ha năng suất
thân lá tăng từ 50 - 100%, năng suất củ đạt cao nhất khi bón 80kg N/ha.
Lân ảnh hưởng đến khả năng quang hợp và vận chuyển chất dinh
dưỡng. Thiếu lân năng suất củ giảm nhiều. Đủ lân thì hiệu quả của đạm và
kali rõ hơn.
Kali có tác dụng thúc đẩy mạnh quá trình hoạt động của bộ rễ, đẩy
mạnh khả năng quang hợp hình thành và vận chuyển Gluxit về củ, thiếu kali
khoai lang chậm lớn ít củ tỷ lệ tinh bột giảm, tỷ lệ xơ tăng và thời gian bảo
quản không được lâu. Theo Đinh Thế Lộc,1979 [15] cho rằng: Năng suất củ
khoai lang đạt cao nhất khi bón 100 - 120kg K
2
O/ha. Bón thúc kali sớm (45
-60 ngày) sau trồng làm tăng năng suất 18 - 55%, bón thúc quá sớm (20 ngày
sau trồng) hoặc quá muộn (90 ngày sau trồng) tác dụng của kali không rõ.
Phân hữu cơ cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất củ của khoai lang,
theo Phùng Huy, 1980 [3]; nghiên cứu ảnh hưởng bón lót phân chuồng đến
năng suất củ khoai lang (trên nền phân bón: 5N + 45P
2
O
5
+ 60K
2
O) cho thấy:
Khi bón lót phân chuồng (phân hữu cơ) từ 5 tấn/ha đến 20 tấn/ha đã làm tăng
năng suất củ khoai lang từ 151 tạ/ha lên 246,7 ta/ha.
2.2.2.4. Nước
Khoai lang không chịu được hạn ở giai đoạn ngay sau khi trồng. Lượng
nước cần cho mỗi vụ phụ thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng nơi, lượng mưa,
đặc tính giống, điều kiện đất đai và độ dài thời gian sinh trưởng.
Nhìn chung, khi cây được cung cấp đủ nước mưa hay nước tưới, quá
trình sinh trưởng và hình thành củ được thuận lợi, tuy nhiên nếu quá thừa
nước sẽ làm đất bí và yếm khí. Do khi phình to, củ khoai lang sẽ ép đất lại để
8
chiếm khoảng trống, nên sức cản vật lý của đất cũng là một yếu tố cần được
cân nhắc nhằm tạo điều kiện cho củ phát triển bình thường. Nhiều nghiên cứu
cho rằng tưới cho khoai lang sẽ đạt hiệu quả cao nhất khi sức giữ ẩm đồng
ruộng (the total available water) còn khoảng 60%. Sau lần tưới đầu (vào lúc
30 ngày sau trồng NST) khoảng 1 tháng mới nên tưới lần 2, để thúc đẩy việc
vận chuyển sản phẩm quang hợp về củ và thúc đẩy củ phát triển.
2.3. Giá trị dinh dưỡng và tầm quan trọng của cây khoai lang trong đời
sống con người và chăn nuôi
2.3.1. Các thành phần dinh dưỡng
Về thành phần dinh dưỡng có nhiều kết quả phân tích đã công bố và
cùng kết luận là khoai lang chứa nhiều chất dinh dưỡng, dễ tiêu hoá, nhiều
nhiệt lượng. Theo Nguyễn Đạt, Ngô Văn Tân, 1974 cho thấy: Trong củ khoai
lang tươi có 68% nước, 28% gluxit; 0,8% protein; 0,2% lipit; 1,3% xenlulo;
1,2% tro. Trong củ khoai lang khô hàm lượng này thay đổi, nó chứa 11%
nước; có tới 80% gluxit; 2,2% protein; 0,5% lipit; 3,6% xenlulo và 2,7% tro.
Về dinh dưỡng thân lá khoai lang, các tác giả Phùng Huy, 1980 và Bùi
Huy Đáp, 1984 đưa ra kết quả phân tích như sau: Thân lá khoai lang tươi có
chứa 1,21% protein; 3,4% lipit; 16,5% gluxit Trong thân lá khoai lang khô
chứa 10,06% protein; 2,1% lipit; 38,4% gluxit.
Kết quả phân tích thành phần hoá học thức ăn Việt Nam do Viện Dinh
dưỡng - Bộ Y tế - NXB Y học Hà Nội - 2000 cho thấy: Trong củ khoai lang
tươi có có đầy đủ các chất dinh dưỡng protein, glucid, lipit, xơ tiêu hoá các
chất khoáng và các vitamin nhóm B, nhóm C đặc biệt trong củ khoai lang ruột
vàng (khoai lang nghệ) hàm lượng caroten rất cao (1470 mcg/100g tươi) là
nguồn cung cấp vitamin A rất tốt cho con người.
2.3.2. Chất khô và tinh bột
Hàm lượng chất khô ở khoai lang thay đổi tùy theo giống, địa điểm trồng,
khí hậu, thời gian sinh trưởng, loại đất, thời vụ, thời gian sinh trưởng, độ chín
hay thành thục của củ, thời gian bảo quản (Bradburry and Holloway, 1988).
Chất khô của khoai lang chứa 80 - 90% hydrat cacbon và 60 - 70% tinh bột.
Tuy nhiên mỗi vùng sinh thái khác nhau hàm lượng chất khô cũng thay đổi.
Ở Đài Loan hàm lượng chất khô biến động từ 13,6% đến 35,1% (Anon,1981),
9
ở Braxin hàm lượng chất khô biến động trong khoảng 22,9 đến 48,2% và từ
21% đến 39% đối với khoai lang trồng ở Nam Thái Bình Dương (Bradbury và
Hollway, 1988).
Khi nghiên cứu các dòng, giống triển vọng tại Việt Nam, các tác giả Lê
Đức Diên và Nguyễn Đình Huyên,1966 cho thấy hàm lượng chất khô của 25
giống khoai lang biến động từ 18,4% đến 41,5%.
Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự, 1990 khi nghiên cứu các giống trồng
trong vụ Đông và vụ Hè cho thấy hàm lượng chất khô biến động từ 23,4%
đến 33,8 (vụ Đông) và 23,0% đến 33,0% (vụ Hè).
Hoàng Kim và cộng sự, 1990 khi khảo sát 16 giống khoai lang trồng ở
miền Nam cho thấy hàm lượng chất khô biến động từ 27,5% đến 34,4%.
Ngô Xuân Mạnh, 1996 khi nghiên cứu 28 dòng, giống khoai lang đã
cho thấy các giống khoai lang trồng vụ đông ở miền Bắc Việt Nam nói chung
có hàm lượng chất khô không cao biến động từ 19,2% đến 33,6% và cũng các
dòng, giống khoai lang đó trồng trong vụ Xuân hè có hàm lượng chất khô cao
hơn vụ Đông từ 1,1 đến 1,3 lần.
Tinh bột là thành phần quan trọng của gluxit. Trung bình tinh bột
chiếm 60 - 70% chất khô (Woolfe, 1992; Palmer J. K., 1982). Hàm lượng
tinh bột biến động mạnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố giống là
quan trọng nhất. Ở 5 giống trồng vụ Đông hàm lượng tinh bột biến động từ
16,8% đến 25,4% chất tươi (Vũ Tuyên Hoàng và CS, 1994). Theo kết quả
nghiên cứu của các tác giả Australia (Bradbury J. H. và Hollway M.D., 1988)
hàm lượng trung bình của 8 giống biến động từ 13,1% đến 15,9% khi trồng ở
4 địa điểm khác nhau và của 15 giống từ 17,1% đến 18,5% giữa 2 năm trồng
khác nhau. Vì vậy, việc phải trồng thử nghiệm các giống ở các địa điểm khác
nhau và qua các năm là quan trọng, để xác định giống thích hợp cho từng
vùng, từng vụ cụ thể.
2.3.3. Xơ tiêu hoá
Xơ bao gồm các hợp chất pectin (propectin, các axit pectic, axit
pectinic và pectin hoà tan), hemixenluloza và xenluloza (Woolfe J. A., 1992).
Các hợp chất pectin có vai trò lớn trong việc tạo các tính chất lưu hoá
10
(herological) ở khoai lang nấu. Hàm lượng pectin tổng số chiếm 5,1% chất
tươi, bằng 20% chất khô.
2.3.4. Protein
Nói chung củ khoai lang có hàm lượng protein thấp, nhưng do năng
suất thu hoạch cao nên sản lượng protein trên đơn vị diện tích không thua
kém các loại hạt ngũ cốc khác (Woolfe J. A., 1992). Theo tính toán khoai
lang cho năng suất protein trung bình 184 kg/ha so với lúa mỳ (200kg/ha) và
lúa nước (168 kg/ha) (Walter W. M. et al., 1984). Do vậy, khoai lang là một
trong những cây trồng chính của Thế giới có khả năng cho 2 triệu tấn protein
hàng năm. Trung bình protein thô là 5% chất khô hay 1,5% chất tươi
(Woolfe J.A., 1992). Hàm lượng protein thô của khoai lang biến động phụ
thuộc vào điều kiện canh tác, điều kiện môi trường và các yếu tố di truyền.
Yếu tố di truyền là yếu tố chủ yếu quyết định sự biến động hàm lượng
protein. Hàm lượng protein thô của khoai lang biến động từ 1,3% đến hơn
10% chất khô (Purcell, 1972).
Tại Việt Nam hàm lượng protein thô của 50 mẫu khoai lang biến động
từ 2,81% đến 6,22% chất khô hay từ 0,78% đến 1,98% chất tươi (trung bình
1,8%) (Lê Đức Diên, Nguyễn Đình Huyên, 1967); từ 2,73% đến 5,42% chất
khô (Hoàng Kim và CS, 1990).
Ngô Xuân Mạnh, 1996 khi nghiên cứu 28 dòng, giống khoai lang đã
cho thấy các giống khoai lang trồng vụ Đông ở miền Bắc Việt Nam, nói
chung có hàm lượng protein thô thấp biến động từ 0,47% đến 1,19% chất
tươi và trong vụ Xuân Hè từ 0,57% đến 1,49% chất tươi. Protein trong củ
khoai lang từ 2,81 - 6,22% chất khô, thuộc loại có giá trị dinh dưỡng cao,
chứa đủ 8 axit amin không thay thế cần thiết cho con người.
2.3.5. Các Vitamin và khoáng chất
Khoai lang là nguồn đáng kể cung cấp vitamin C (axit ascorbic) và
chứa một lượng vừa phải thiamin (vitamin B
1
), riboflavin (B
2
), niaxin cũng
như vitamin B
6
, axit pantothenic (B
5
) và axit folic. Ngoài ra khoai lang còn
chứa nguồn Caroten - tiền vitamin A rất quan trọng đối với dinh dưỡng của
người và gia súc. Khoai lang có hàm lượng vitaminC biến động từ 20 -
50mg/100g chất tươi (Ezell & Wilcox,1952)
11
Củ khoai lang có hàm lượng tro trung bình 1% chất tươi (khoảng 3 -
4% chất khô) (Woolfe J. A., 1992). Các nguyên tố vi lượng như Fe, Cu, Mn,
Zn, S và Cl đều có mặt thậm chí các nguyên tố như Cd, Ni, Pb, Hg, Se và Si
cũng có thể có. Trong củ khoai lang hàm lượng một số nguyên tố như Ca, Fe,
Mg, Zn và Mn ở vỏ củ cao hơn ở thịt củ. Hàm lượng chất khoáng còn phụ
thuộc vào giống, nơi trồng, phân bón và cách sử dụng, chế biến
β
Caroten (carôtenôít)
Sắc tố caroten quyết định màu sắc thịt củ khoai lang: Màu kem, màu
vàng, da cam hay da cam đậm tuỳ theo hàm lượng β caroten. Tỷ lệ này cao
trong các giống ruột củ vàng đến vàng cam đậm. Các giống ruột củ trắng
thường không có caroten. Ý nghĩa quan trọng của β caroten trong khẩu phần
ăn là hoạt tính tiền vitamin A. Theo nhiều nghiên cứu cho rằng các giống có
ruột màu vàng da cam đậm là nguồn rất giàu β- Caroten, biến động từ 3,36
mg đến 19,60 mg/100g chất tươi (Woolfe J. A., 1992). Ở Việt Nam theo kết
quả của phân tích của Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế - NXB Y học Hà Nội năm
2000 cho thấy hàm lượng caroten trong củ khoai lang ruột vàng rất cao đạt
1470 mcg/100g tươi.
Song song với việc đánh giá đặc tính sinh học của cây khoai lang, việc
đánh giá phẩm chất các phần được sử dụng làm thức ăn cho người và thức ăn
cho gia súc đã được nhiều nước chú ý. Trong 2 bộ phận của khoai lang được
sử dụng là thân lá và củ thì củ có vai trò quan trọng hơn cả. Bởi vì trong thành
phần của củ khoai lang tươi chứa 71,1% nước; 20,1% tinh bột; 2,38% đường;
1,43% protein; 1,16% xơ khẩu phần, các chất khoáng và một số vitamin quan
trọng đối với con người (Woolfe, 1992).
2.4. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang trên thế giới
2.4.1. Tình hình sản xuất
Khoai lang là một trong 5 cây lấy củ chính (bao gồm: Sắn, khoai tây,
khoai lang, khoai mỡ, khoai sọ), nếu không tính đến cây khoai tây (cây có củ
vùng ôn đới) thì khoai lang là cây có củ đứng sau sắn ở các vùng nhiệt đới và
á nhiệt đới. Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới trong những năm gần
đây được thể hiện ở bảng 2.1.
12
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới giai đoạn 2007-2011
Năm
Diện
t
íc
h
(ha)
Năng
s
u
ất
(
t
ấ
n
/
h
a
)
Sản lượng
(triệu
t
ấ
n
)
2007 8.153.509 12,41 101,162
2008 7.952.549 13,10 104,149
2009 8.189.169 12,62 103,348
2010 8.173.292 12,54 102,506
2011 7.953.196 13,11 104,260
Nguồn: Faostat 1/2013 [34]
Nhìn chung, trong những năm gần đây diện tích trồng khoai lang trên
thế giới có xu hướng giảm nhẹ từ 8.153.509 ha (năm 2007) xuống chỉ còn
7.953.196 ha (năm 2011) giảm 200.313 ha. Năng suất có sự tăng trưởng nhẹ
do vậy sản lượng khoai lang trên thế giới trong 5 năm 2007 - 2011 khá ổn
định. Nguyên nhân khiến cho tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới
không có sự tăng trưởng mạnh là do năng suất chất lượng khoai lang chưa
được cải thiện nhiều, bên cạnh đó với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, người
nông dân đã lựa chọn những cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để đầu tư thâm
canh.nên việc phát triển mở rộng diện tích trồng khoai lang chưa được quan
tâm đầu tư nhiều.
Hiện nay Trung Quốc là nước sản xuất nhiều khoai lang nhất trên thế
giới, năm 2012 đạt 3.490.425 ha, với năng suất là 21,6 tấn/ha và sản lượng đạt
cao nhất thế giới (58.754.533 tấn)
Một số tài liệu nước ngoài đề cập tới vai trò của cây có củ như một
trong những chỗ dựa quan trọng của nhân loại trong thế kỷ 21. Bởi hiện tại
tiềm năng cải tiến năng suất của cây có củ là rất lớn, trong khi đó mặc dù năng
suất của các cây ngũ cốc đã khá cao nhưng trong một phạm vi nào đó đã đạt đến
mức giới hạn của năng suất trần. Ngoài ra cây có củ có thể trồng được ở những
vùng đất xấu, khô hạn,…
2.4.2. Tình hình nghiên cứu
Trong công tác lai tạo giống việc duy trì và bảo quản tập đoàn giống tại
địa phương phải luôn được tiến hành thường xuyên. Theo số liệu thống kê
13
trong bản danh mục về tập đoàn khoai lang năm 1980, do viện tài nguyên di
truyền thực vật quốc tế (IPGRI) tập đoàn này bao gồm 6.900 mẫu. Mỗi một
nước trên thế giới đều duy trì tập đoàn khoai lang nhất định.
Tại viện nghiên cứu Trung Quốc, số lượng giống trong tập đoàn lưu giữ
lên tới 3000 mẫu và luôn được duy trì trên đồng ruộng; duy trì bằng in vitro và
bảo quản bằng in vitro (Xiao-Ding, Wang, Wu, Sheng, 1994) [30].
Việc khảo sát quỹ gen khoai lang (vật liệu khởi đầu) không những mô tả
về đặc trưng hình thái của các mẫu giống, tất cả các mẫu giống đều được khảo
sát về khả năng sản xuất, các yếu tố cấu thành năng suất, hàm lượng chất khô
khả năng chống chịu bọ hà và một số đặc tính khác. Qua khảo sát vật liệu khởi
đầu của Trung tâm khoai tây Quốc tế và Trung tâm khoai tây Quốc tế vùng 7
cho thấy ở khoai lang có sự phong phú đa dạng về tính trạng số lượng: năng suất
củ, hàm lượng chất khô, khả năng chịu bọ hà Đây chính là những tính trang
quan trọng được các nhà nghiên cứu sử dụng trong công tác lai tạo gióng khoai
lang, nhằm tạo ra nhiều giống khoai lang năng suất cao, phẩm chất tốt khả năng
chống chịu sâu bệnh tốt góp phần tạo nhiều giống làm lương thực và chế biến
Những năm gần đây, công tác chọn tạo giống khoai lang của thế giới đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Hầu hết những nước trồng nhiều khoai lang
đều có bộ sưu tập nguồn gen giống khoai lang. Nơi lưu giữ nguồn gen khoai
lang lớn nhất toàn cầu là Trung tâm Khoai tây Quốc tế (Centro Internacional
de la Papa - CIP) với tổng số 7007 mẫu giống khoai lang được duy trì năm
2005. Trong số này có 5.920 mẫu giống khoai lang trồng (Ipomoea batatas)
và 1087 mẫu giống khoai lang loài hoang dại (loài Ipomoea trifida và các loài
Ipomoea khác). Việc duy trì nguồn gen ở CIP được thực hiện trong ống
nghiệm, trên đồng ruộng, bảo quản bằng hạt và được đánh giá theo tiêu chuẩn
quốc tế (foodcrops.blogspot. Com/2010/01 [33]).
Với nguồn vật liệu phong phú và đa dạng, chương trình chọn tạo giống
khoai lang của CIP đã tạo ra được hàng loạt vật liệu chọn tạo giống cho củ có
hàm lượng chất khô cao. CIP đã và đang giúp một số nước đang phát triển
chọn tạo giống khoai lang theo phương pháp này. Từ các vật liệu của CIP, kết
hợp với việc sử dụng các vật liệu chọn tạo giống trong nước, các nước đang
phát triển có thể đẩy mạnh công tác chọn tạo giống ở nước mình để có thể
14
chọn tạo được những giống khoai lang có tiềm năng năng suất cao, phẩm chất
tốt, hàm lượng chất khô cao, chống chịu sâu bệnh tốt.
Các kiểu gen ưu tú thường có tiềm năng quang hợp cao và tiềm năng
cho năng suất củ cao với chất lượng tốt trong khoảng thời gian sinh trưởng
tương đối ngắn. Các nhân tố xác định khả năng quang hợp là độ dài của dây
khoai lang và số lá trên một đơn vị độ dài thân. Tuy vậy, một số giống khoai
lang thân bụi mặc dù có thân dây rất ngắn nhưng vẫn có tiềm năng quang hợp
cao. Các nghiên cứu về chọn tạo giống cũng đã cải tiến khả năng bảo quản củ
khoai lang tươi, và một kỹ thuật đơn giản để xác định tỷ lệ củ hư hại sau bảo
quản là việc cân đo mức hao hụt trọng lượng củ ngay sau tuần đầu đưa vào
bảo quản. Số liệu này sẽ là một chỉ dẫn tốt về khả năng bảo quản ở các giai
đoạn bảo quản sau đó (Rees và cs, 1998 [27]).
Khoai lang được coi là cây trồng thân thiện với môi trường, ít sâu bệnh,
đầu tư thấp, có khả năng sinh trưởng phát triển nhanh, che phủ đất chống xói
mòn Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã tìm ra khả năng chống bệnh đường
ruột (do vi khuẩn Escherichia coli, Staphylococcus và Bacillus cereus gây ra) của
khoai lang. Các giống khoai lang có hàm lượng flavonoid cao, nhất là các
giống khoai lang ruột tím có đặc điểm chống oxy hoá tốt, có hàm lượng
phenol cao gấp 3 lần các loại quả mọng nước, các thành phần khác như các
sắc tố anthocyanins, canxi Có tác dụng làm giảm chứng bệnh tim mạch ở
người (Helder da Costa và cs., 2003 [26]).
Mùi vị củ khoai lang là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với người tiêu dùng,
tuy vậy tính trạng này khó có thể đo đếm được một cách chính xác, đây là một
trở ngại lớn để tăng hiệu quả chọn lọc. Nếu mùi vị có thể phân tích được, thì số
lượng kiểu gen mong muốn được chọn lọc chính xác có thể sẽ tăng lên. Một
nghiên cứu gần đây ở Georgia, Mỹ chỉ rõ rằng có thể phát hiện sự khác biệt về
mùi thơm giữa các giống khoai lang nhờ phương pháp sắc ký khí. Cũng có thể
phân tích được tỷ lệ đường và các axit hữu cơ trong củ khoai lang.
Nước Mỹ đã chọn tạo ra nhiều giống khoai lang chất lượng cao, phổ
biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẻo và có hương vị thơm
để tiêu thụ tươi như một loại rau xanh cao cấp và dùng trong công nghiệp
thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn giống khoai
15
lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị thơm; ứng dụng
công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống.
Ở các nước Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc đã chọn tạo và đang
trồng phổ biến nhiều giống khoai lang năng suất cao, chất lượng tốt mã củ
thuôn đẹp, có hàm lượng chất khô cao (30%). Trung tâm nghiên cứu khoai
tây Quốc tế (CIP) đã và đang giúp các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam chọn tạo giống theo hướng này.
Nhật Bản đã chọn tạo được và đang trồng phổ biến những giống khoai
lang năng suất cao, chất lượng tốt như mã củ đẹp, vỏ nhẵn, hàm lượng chất khô
cao (phần lớn trên 30% khối lượng tươi) như giống khoai Kokey 14. Hiện nay
Nhật bản đang chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá làm rau xanh, làm nước
sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam đậm tự nhiên.
Trung Quốc đã chọn tạo và trồng phổ biến một số giống khoai lang mới
có khả năng năng suất cao đạt từ 45-60 tấn củ tươi/ha. Hiện nay Trung Quốc
có trên 100 giống khoai lang, một số giống đã nhập vào Việt Nam như Hoa
Bắc 48; Cao Nông 58-14 (năng suất cao, chất lượng tốt), Bất Luận Xuân
(năng suất cao) v.v… Nhìn chung, khoai lang Trung Quốc cho năng suất cao,
chịu lạnh nhưng chất lượng không ngon so với khoai lang của Nhật, Mỹ khi
trồng ở Việt Nam (dẫn theo Nguyễn Viết Hưng và cs., 2010 [13]).
Sản xuất khoai lang ở vùng Đông Nam Á hiện đang sụt giảm. Nếu khâu
chế biến được cải tiến, sản xuất khoai lang sẽ tiếp tục được cải thiện và nâng cao,
nhờ giá trị gia tăng do công nghệ chế biến mang lại. Tuy nhiên, hầu hết các
giống khoai lang hiện nay có tỷ lệ chất khô đạt khoảng 25 - 30%, thấp hơn nhiều
so với mức trên 35% mà các nhà chế biến công nghiệp đòi hỏi. Các giống khoai
lang mới cũng cần có tính thích ứng rộng, để có thể cho năng suất và hiệu quả
kinh tế cao khi được trồng trong nhiều điều kiện khác nhau, đặc biệt trong điều
kiện biến đổi khí hậu. Vì vậy, chiến lược của các nước Đông Nam Á là chọn tạo
các giống khoai lang có năng suất cao, tính thích ứng rộng, chống chịu sâu bệnh,
chịu hạn; sản phẩm thu hoạch có tỷ lệ chất khô cao 28 - 32%, đáp ứng các yêu
cầu tiêu chuẩn cho chế biến công nghiệp (Gin Mok và cs., 1996 [25]).
16
2.5. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang ở Việt Nam
2.5.1. Tình hình sản xuất
Sản xuất khoai lang ở Việt Nam chủ yếu được tiến hành ở hộ nông dân,
nói chung tự sản xuất tự tiêu là chính, ít có tính chất hàng hóa. Hàng chục
năm trước đây, các nhà chọn giống và các nhà nông học đã giới thiệu và phát
triển các giống mới và các biện pháp kỹ thuật, nhưng năng suất không tăng
như mong muốn. Cây khoai lang đang có một triển vọng lớn về nguồn lực
lương thực bổ sung, về chế biến công nghiệp và cả tiềm năng lớn về thức ăn
cho gia súc nên nó đòi hỏi đầu tư nghiên cứu hơn nữa nhằm tìm ra giải pháp
cho các vẫn đề chọn giống, sản xuất và nâng cao giá trị sử dụng.
Ở Việt Nam hiện nay khoai lang làm lương thực cho người giảm dần,
chủ yếu làm thức ăn cho chăn nuôi và nguyên liệu chế biến.
Tuy nhiên có đến 90% sản phẩm khoai lang được sử dụng chủ yếu ở
vùng nông thôn; ở các thành phố được sử dụng với một lượng rất ít. Ở Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh xấp xỉ 1%, củ Khoai lang thu hoạch được sử dụng
dưới dạng quà sáng và làm bánh.
Ở vùng nông thôn có tới 60% sản lượng Khoai lang được dùng làm
thức ăn gia súc dưới dạng củ tươi. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung
bộ, Duyên hải miền Trung, một lượng lớn Khoai lang được phơi khô (củ thái
lát, thân lá phơi khô dã thành bột). Tình hình sản xuất khoai lang trong những
năm gần đây được trình bày ở bảng 2.2.
Năng suất bình quân của các nước trên thế giới đạt 12 - 13 tấn/ha trong
đó Việt Nam mới chỉ đạt 8 - 9 tấn/ha.Số liệu bảng 2.2 cho thấy diện tích trồng
khoai lang ở Việt Nam giảm dần trong những năm gần đây, từ 175.500 ha
(năm 2007) xuống còn 148.500 ha (năm 2011), tuy năng suất tương đối ổn
định và tăng dần trong 2 năm 2010 và 2011, nhưng sản lượng năm 2011 vẫn
đạt 1.390.000 tấn chỉ kém năm 2007 có 47.000 tấn.
Đây là vấn đề mà các nhà hoạch định quản lý và khoa học phải xác
định rõ nguyên nhân làm giảm diện tích và biện pháp thúc đẩy và năng cao
năng suất, đặc biệt là các giống khoai lang chất lượng cao.
17
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất khoai lang ở Việt Nam giai đoạn 2007 -
2011
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(
t
ấ
n
/
h
a
)
Sản lượng
(tấn)
2007 175.500 8,19 1.437.600
2008 162.600 8,16 1.325.600
2009 146.600 8,26 1.211.300
2010 150.800 8,74 1.138.500
2011 148.500 9,36 1.390.600
Nguồn: Faostat 1/2013 [24]
Ở Việt Nam khoai lang là cây lương thực truyền thống, được trồng ở
khắp mọi nơi trên cả nước từ Đồng bằng đến Miền núi và Duyên hải Miền
Trung. Vì khoai lang là cây lương thực dễ trồng, đầu tư thấp nhưng lại cho
năng suất cao. Nếu xét về diện tích và sản lượng khoai lang thậm chí nó xếp
thứ 2 trong số những cây lương thực ở các vùng hay sảy ra bão lớn của một số
tỉnh ven biển Miền Trung nước ta (Anon, 1998)
Theo số liệu thống kê về diện tích sản lượng cụ thể tại các vùng miền
trên cả nước trong năm 2010 được thể hiện trong bảng 2.3.
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất, sản lượng khoai lang ở các vùng của
Việt Nam năm 2010
Vùng sản
xu
ất
Năm 2
010
Diện tích
(ha)
Năng suất
(
t
ấ
n
/
h
a
)
Sản lượng
(1.000 tấn
)
Đồng bằng sông Hồng 27,0 9,14 247,0
Trung du và miền núi phía Bắc 39,9 6,42 256,3
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 53,9 6,31 340,6
Tây Nguyên 14,1 10,74 151,5
Đông Nam Bộ 2,00 8,0 16,0
Đồng bằng sông Cửu Long 14,9 20,61 307,1
Cả nước 150,8 8,74 1318,5
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2013[34]
18
Kết quả bảng 2.3 trên cho ta thấy thấy việc sản xuất khoai lang ở các
vùng trong cả nước không đồng đều cả về diện tích, năng suất và sản lượng.
Năng suất thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng sản xuất. Năng suất
khoai lang thấp nhất 6,31 tấn/ha ở Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
tiếp đến là Trung du miền núi phía Bắc 6,42 tấn/ha Đồng bằng sông Cửu
Long có năng suất cao nhất đạt 20,61 tấn/ha. Diện tích đạt cao nhất khoảng 50
nghìn ha là Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung, sau đó là Trung du và
miền núi phía Bắc. Các nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch trên đó là:
- Sản xuất khoai lang chưa thành sản xuất hàng hoá, chưa gắn sản xuất
với chế biến.
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu và thâm canh
chưa được coi trọng.
- Giống khoai lang địa phương đã thoái hóa và tạp lẫn.
- Tổn thất do sâu, bệnh hại gây hại.
- Khoai lang vụ Đông bị rét đậm đầu vụ và phải thu hoạch sớm.
- Khoai lang vụ Hè thu thường bị hạn đầu vụ, mưa nhiều lúc thu hoạch.
- Khoai vụ Thu đông và Đông xuân thường bị thiếu nước cuối vụ.
- Thu hoạch sớm, tỉa cắt dây để chăn nuôi làm giảm năng suất.
- Đặc biệt là sản xuất cá thể mang tính chất tự phát - tự tiêu. Nên còn có
ít sự quan tâm và tổ chức sản xuất cũng như quản lý một cách thoả đáng đối
với vùng sản xuất khoai lang.
Mặc dù diện tích cây khoai lang có chiều hướng giảm xuống và năng
suất tăng lên một cách chậm chạp nhưng cây khoai lang cũng còn giữ một vị
trí và vai trò nhất định trong sản xuất lương thực, bởi khoai lang có tính thích
ứng rộng, thời gian sinh trưởng ngắn, đòi hỏi mức đầu tư không thật cao cũng
đã đạt được năng suất khá cao. Hạn chế của khoai lang là việc bảo quản khoai
lang củ tươi gặp nhiều khó khăn trong điều kiện nóng ẩm ở nước ta, trong lúc
đó công nghệ sau thu hoạch đối với khoai lang phát triển còn rất chậm, chưa
đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, sản phẩm khoai lang chưa trở thành sản
19
phẩm hàng hoá.
2.5.2. Tình hình nghiên cứu
Cây khoai lang được đưa vào trồng ở Việt Nam cách đây khoảng hơn
400 năm, là cây trồng có nhiều điểm ưu việt so với các cây trồng khác như:
thời gian sinh trưởng ngắn trồng được nhiều vụ trong năm, có tiềm năng năng
suất rất cao, có thể lên đến 50- 60 tấn/ha. Một số nước có năng suất cao như
Sê-nê-gan đạt 33,3 tấn/ha; Ai Cập đạt 30,6 tấn/ha, Trung Quốc đạt 22,3
tấn/ha, Nhật Bản đạt 21,7 tấn/ha, trong khi năng suất khoai lang của Việt Nam
chỉ đạt 9,29 tấn/ha (FAO, 2011 [ 24]).
Khoai lang chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
đứng thứ 3 sau lúa và ngô. Khoai lang là cây lương thực dễ trồng, đầu tư thấp
nhưng có tiềm năng năng suất cao. Từ xưa nông dân ta đã có truyền thống sử
dụng củ khoai lang làm lương thực thực phẩm và thức ăn gia súc. Hiện nay
lượng khoai lang vẫn được dùng làm lương thực cho con người giảm dần, chủ
yếu dùng làm thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu cho chế biến vì vậy ngoài
những giống khoai lang có năng suất củ cao, các giống thuộc nhóm có năng
suất thân lá cao, giống có hàm lượng đường, hàm lượng protein cao làm
nguyên liệu cho chế biến (bánh kẹo, chips khoai lang, ) cũng đang người sản
xuất quan tâm. Những năm gần đây do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nên
diện tích khoai lang ở nhiều vùng bị thu hẹp lại. Tuy nhiên ở những vùng đất
nghèo dinh dưỡng, không chủ động tưới, cây khoai lang vẫn chiếm một diện
tích khá lớn (Mai Thạch Hoành, 2005 [9]).
Sản xuất khoai lang nước ta không đồng đều cả về diện tích và trình độ
thâm canh, năng suất thấp và có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng sản xuất.
* Nghiên cứu về giống khoai lang
Công tác chọn giống khoai lang ở Việt Nam trước năm 1978 dựa chủ
yếu vào nguồn giống nhập nội (chủ yếu từ Trung Quốc) để bình tuyển và giới
thiệu cho sản xuất. Giống Hoàng Long được nông dân áp dụng rộng rãi ở thời
gian này do có nhiều đặc tính quý như thời gian sinh trưởng ngắn, phù hợp
trồng vụ đông ở các tỉnh phía Bắc (100 ngày), vỏ củ vàng nhạt, ruột vàng
đậm. Tuy nhiên giống này chỉ cho năng suất 8 - 10 tấn/ha, chịu hạn rất kém
20