Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số vấn đề về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở huyện văn yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 78 trang )

Lời mở đầu
Đất nước Việt Nam sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện, đặc biệt dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ VI và lần thứ VII đề ra,
nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực đặc biệt
là kinh tế và xã hội, xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, định
hình cơ chế tổ chức quản lý mới phát triển: nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng lần này đã xác định phải thiết lập cơ chế quản lý mới, thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước và nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước là nhiệm vụ cực kỳ trọng đại và cấp bách.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, nhất là nhiệm vụ nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước và quản lý kinh tế - xã hội. Nhà nước phải có đội ngò cán
bộ, công chức giỏi, có năng lực, có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và
đạo đức cách mạng, công chức hành chính nhà nước các cấp, các ngành phải
là những người hiểu biết nguyên tắc và chế độ quản lý hành chính, hiểu biết
pháp luật, có kỹ năng và hiểu biết chuyên môn. Thực chất đội ngò cán bộ của
chúng ta đã có bước phát triển mới, thể hiện được những tố chất của con
người mới, con người XHCN. Đội ngò cán bộ đã có bước trưởng thành góp
phần thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, góp phần
cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân khẳng định rõ vai trò lịch sử của đất
nước tiến lên theo con đường xây dựng XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lùa
chọn.
Bên cạnh những ưu điểm, đội ngò cán bộ của chúng ta hiện nay vẫn còn
bộc lé nhiều khuyết điểm, nhược điểm.
Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng đã đánh giá: "Công tác cán bộ còn
bộc lé nhiều yếu kém những khuyết điểm trong công tác cán bộ là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân yếu kém". Thực tế khi nghiên cứu xem xét về
công tác cán bộ, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương V (Khoá VI) đến nay
chóng ta nhận thấy những quan điểm đổi mới công tác cán bộ của Đảng chậm
được thể chế hoá, thực hiện thiếu nghiêm túc, hiệu quả chưa cao, một số bộ
phận cán bộ còn xa sút về phẩm chất đạo đức, dao động về mục tiêu lý


tưởng
Do còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết nên để chuẩn bị hành trang
cho đội ngò cán bộ, công chức nhà nước bước vào thế kỷ mới, Thế kỷ XXI
với một năng lực và phẩm chất mới, tạo những tiền đề cho sự phát triển ổn
định và bền vững thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực sự là
một vấn đề, một nhiệm vụ mang tính chiến lược và then chốt, một bộ phận
không thể tách rời của công cuộc cải cách hành chính, của sự nghiệp công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đang là vấn
đề bức thiết đối với tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Riêng đối với đội ngò cán bộ, công chức quản lý ở các phòng, ban, tổ chức
thuộc huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái thì hiện nay đang là vấn đề hết sức khó
khăn phức tạp, cần sớm có biện pháp tháo gỡ, giải quyết những tồn tại. Như
trong khi quan tâm đến công tác huấn huyện cán bộ cách mạng nói chung,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc huấn luyện cán bộ chính
quyền cấp xã. Người viết: "Chúng ta rất cần huấn luyện cán bộ, mà huấn
luyện cán bộ xã trước hết". Bởi vì người cho rằng: "Về chính quyền, nền tảng
mọi công việc là cấp xã". Xuất phát từ thực tiễn nói trên em đã chọn đề tài:
"Một số vấn đề về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở huyện
Văn Yên hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn hoàn thành với sự giúp đỡ của: Tiến sĩ Đoàn Thị Thu Hà
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ huyện
Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo và các cán bộ huyện đã hướng dẫn và
giúp em hoàn thành luận văn của mình.
Nội dung và cấu trúc luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3
chương:
Chương I:
Vai trò, vị trí của cán bộ, công chức nhà nước. Chương này xác định
quan niệm, phạm vi công chức, vị trí, vai trò công chức và tầm quan trọng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Chương II
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở huyện Văn
Yên hiện nay.
Nêu lên tình hình chung của huyện và thực trạng đội ngò cán bộ, công
chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ở huyện.
Nói lên mục tiêu, yêu cầu, phương hướng và giải pháp
Chương I
VAI TRÒ, VỊ TRÍ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC
I. QUAN NIỆM CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC:
Công chức là bộ phận quan trọng của nền hành chính, là nhân tố con
người trong bộ máy Nhà nước. Trên thế giới chế độ công chức ra đời hàng
trăm năm nay và đang được tiếp tục bổ xung, đổi mới để hoàn chỉnh theo
hướng xây dựng nền hành chính hiện đại.
1. Quan niệm về công chức trên thế giới:
Theo cách xác định của các quốc gia đã trải qua nhiều năm thực hiện và
có kinh nghiệm về chế độ công chức thì công chức được hiểu là những công
dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một
công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ở
ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước.
Như vậy điều kiện trở thành người công chức như sau:
- Là công dân của nước đó
- Được tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển
- Giữ một công vụ thường xuyên
- Được xếp vào một ngạch, một ngành chuyên môn
- Làm việc trong một công sở
- Lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước.

Nhưng trên thế giới, ở các nước khác nhau tuỳ theo đặc điểm lịch sử, văn
hoá, hệ thống chính trị, cơ cấu bộ máy nhà nước, cơ chế quản lý kinh tế - xã
hội mà phạm vi công chức ở mỗi nước cũng có sự khác nhau.
* Anh: Công chức được đặt trong hệ thống hành pháp, ngoại trừ các
công chức được bầu theo nhiệm kỳ hay được bổ nhiệm, thực hiện các nhiệm
vụ chính trị. Công chức chỉ bao gồm những người làm việc thường xuyên ở
các công sở (tính ca lái xe, nhân viên phục vụ công sở), ở trung ương mà
không tính những người làm việc ở địa phương.
* Pháp:
Công chức là toàn bộ những người làm việc trong hệ thống hành pháp từ
Trung ương đến địa phương, được tuyển dụng qua thi tuyển và được bổ
nhiệm vào chính ngạch, dùng toàn bộ thời gian chính thức đảm nhiệm một
chức vụ lâu dài nào đó, làm việc trong các cơ sở hành chính nhà nước, cơ
quan lập pháp, tư pháp, xí nghiệp công.
Công sở hành chính và công sở phục vụ công bao gồm: Trường công
học, bệnh viện công, cảnh sát, an ninh do chính phủ Trung ương thống nhất
quản lý.
* Đức:
Công chức bao gồm những người trong bộ máy nhà nước có cả các nhà
hoạt động chính trị, cảnh sát an ninh song không tính bộ phận sự nghiệp.
* Mỹ:
Những nhân viên trong ngành hành chính của chính phủ được gọi chung
là công chức bao gồm những người được bổ nhiệm về chính trị như: Bộ
trưởng, thứ trưởng, trợ lý bộ trưởng, người đứng đầu bộ máy độc lập và
những quan chức khác trong ngành hành chính.
* Canada:
Công chức chỉ bao gồm những người làm việc trong bộ máy hành chính
nhà nước, không tính bộ phận sự nghiệp.
* Nhật Bản:
Công chức chia ra làm hai loại: Công chức Nhà nước và công chức địa

phương. Công chức Nhà nước là những nhân viên nhậm chức trong bộ máy
cán bộ của chính phủ trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, nhà
trường, bệnh viện quốc lập Công chức địa phương bao gồm những nhân
viên công tác và lĩnh lương từ tài chính địa phương.
* Trung Quốc:
Công chức chỉ là những nhân viên công tác trong cac cơ quan hành
chính nhà nước các cấp của Trung ương và địa phương nhưng không tính
nhân viên cần vụ, tạp vụ.
* Inđônêxia:
Công chức bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm làm việc
trong công sở của chính phủ trung ương đến cấp xã, bao gồm cả lực lượng
cảnh sát sĩ quan quân đội, công nhân làm việc trong các tổ chức phục vụ
công, giám đốc doanh nghiệp nhà nước
Qua những quan niệm khác nhau về công chức ở một số nước trên thế
giới, ta thấy phạm vi công chức xác định ở ba mức độ khác nhau:
- Mức hẹp: Gồm những người làm việc trong các cơ quan hành chính ở
Trung ương, điển hình là nước Anh.
- Mức vừa: Gồm những người làm việc trong các cơ quan hành chính ở
Trung ương và địa phương ví dụ: Đức, Canađa, Mỹ, Trung Quốc
- Mức rộng: Gồm những người làm việc trong các cơ quan hành chính ở
Trung ương và địa phương, các cơ quan sự nghiệp và các doanh nghiệp Nhà
nước điển hình là: Pháp, Nhật Bản, Inđônêxia
Để có thể phân chia ngạch công chức được dễ dàng, đào tạo, tuyển dụng,
sử dụng công chức có hiệu quả, bên cạnh xác định ai là công chức thì việc xác
định công chức theo hệ thống nào cũng rất cần thiết. Hiện nay trên thế giới có
ba hệ thống công chức chủ yếu:
- Hệ thống công chức theo chế độ chức nghiệp (carrer System) là hệ
thống đảm bảo cho công chức làm việc chuyên nghiệp suốt đời cho đến lúc về
hưu, dùa trên cơ sở phân chia ngạch bậc riêng. Muốn vào ngạch phải thi
tuyển. Hệ thống này gắn với việc đào tạo công chức theo tiêu chuẩn ngạch và

mỗi ngạch có một dải tiền lương tương ứng. Theo chế độ chức nghiệp điển
hình là các nước châu Âu như: Anh, Pháp
- Hệ thống công chức theo chế độ việc làm (Job System) hay chức vụ:
Đây là hệ thống mà việc tuyển dụng, bổ nhiệm công chức chủ yếu dùa theo
công trạng thực tế. Xếp hạng nhân viên theo một chức vụ cụ thể. Việc thi
tuyển công chức không toàn toàn căn cứ vào bằng cấp. Theo hệ thống này, thì
phải thiết kế hàng nghìn vị trí rất phức tạp. Việc đào tạo không hoàn toàn gắn
với sử dụng. Mỗi vị trí chỉ có một mức lương nhất định nên công chức không
phấn khởi. Trong hệ thống này, các công chức chỉ được tuyển dụng vào một
công việc mà không có con đường chức nghiệp. Hiện nay có Mỹ và Liên Hợp
Quốc sử dụng hệ thống này.
- Chế độ hỗn hợp - Kết hợp chế độ chức vụ và chế độ chức nghiệp. Chế
độ này có ưu điểm là vừa khuyến khích việc tuyển bổ được các nhân tài cho
các chức vụ chỉ huy điều khiển của nền công vụ. Hiện nay trên thế giới không
có một chế độ công vụ nào hoàn toàn theo mét trong hai chế độ trên mà đều
có sự lai tạp, kết hợp mềm dẻo giữa hai chế độ. Công cuộc cải cách nền hành
chính ở Việt Nam đang được tiến hành theo hướng xây dựng nền công vụ lấy
chế độ chức nghiệp làm chính, trong đó có áp dụng những mặt ưu việt của chế
độ việc làm.
Tóm lại:
Quan niệm về công chức mỗi nước mỗi khác song công chức ở mọi quốc
gia đều là những người được bổ nhiệm bởi một cơ quan quyền lực hành chính
vào một công việc thường xuyên, tuân theo một số nguyên tắc nhất định,
được đảm bảo công ăn việc làm và được hưởng lương từ ngân sách.
2. Quan niệm cán bộ, công chức ở Việt Nam
Trước Cách mạng tháng Tám dưới ách thống trị của thực dân phong
kiến. Các công chức người Pháp, người Việt được tuyển dụng theo tiêu chuẩn
của Pháp. Cách mạng tháng Tám thành công đã đánh một mốc son trong lịch
sử dân téc, lịch sử Việt Nam bước sang mét trang mới. Sự ra đời của Nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Mét nước Việt Nam mới cũng là sự

bắt đầu xây dựng nền hành chính nhà nước của chế độ tiến bộ. Ngay từ những
ngày đầu xây dựng chính quyền. Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vị trí,
vai trò to lớn của đội ngò cán bộ và có những quan tâm đến đội ngò này. Thực
hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngày 20-5-1950 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ban hành sắc lệnh 76/SL về "Quy chế công chức" đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc xây dựng đội ngò công chức nước ta trong hoàn cảnh đó.
Theo Sắc lệnh này: "Công chức là công dân Việt Nam được chính quyền nhân
dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở
trong hay ở ngoài nước Ngoài ra, còn có những trường hợp riêng biệt do
chính phủ quy định".
Ý tưởng xây dựng nền hành chính hiện đại, dân chủ, quản lý có hiệu quả,
hiệu lực, xây dựng đội ngò cán bộ, công chức nhà nước có năng lực, trong
sạch thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, phục vụ nhân dân hết lòng đã bị gián
đoạn do hoàn cảnh kháng chiến nên sau đó, quy chế công chức Việt Nam
không được triển khai đầy đủ. Vì vậy trong thời gian nước ta đã thực hiện
chính sách cán bộ, trong đó khái niệm công chức không được xác định rõ, nó
được đặt trong phạm vi cán bộ nói chung. Tuy không có văn bản nào bãi bỏ
Sắc lệnh 76/SL nhưng trên thực tế các nội dung của quy chế đó không được
áp dụng. Sau ngày tổ quốc thống nhất, chế độ cán bộ được thực hiện trên
phạm vi cả nước.
Trong nhận thức của xã hội thì khái niệm về công chức không rõ ràgn:
"Công chức là người làm việc trong các cơ quan nhà nước". Tất cả những
người được tuyển dụng biên chế làm việc trong các cơ quan, nhà máy, công
trường, xí nghiệp, đều được gọi chung là cán bộ, công nhân viên Nhà nước.
Phạm vi làm việc của cán bộ rất rộng: Từ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể, chính trị, xã hội, trong các doanh nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ
trang, công an nhân dân từ trung ương đến địa phương. Sự hình thành đội ngò
cán bộ nói trên từ nhiều nguồn bằng nhiều con đường như: Bầu cử, phân công
sau khi tốt nghiệp các chương trình đào tạo, tuyển dụng, đề bạt cho nên phạm
vi cán bộ rất rộng vì vậy không Ýt trường hợp tuyển dụng, sắp xếp hoặc đề

bạt cán bộ không đúng chuyên môn ngành nghề.
Những căn nguyên trên dẫn tới tình hình khó khăn cho công tác cán bộ.
Vì vậy với mục đích tạo cơ sở để chọn đúng, sử dụng có hiệu quả đội ngò
công chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của
nhà nước và từng bước xây dựng đội ngò công chức nhà nước có nghiệp vụ
thành thạo ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu xây dựng bộ máy quản lý nhà
nước vững mạnh, ngày 25/05/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị
định Số 169/HĐBT về công chức Nhà nước. Điều đầu tiên của nghị định là
xác định: "Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở trung ương hay địa phương
ở trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch được hưởng lương
do ngân sách Nhà nước cấp gọi đó là công chức nhà nước".
Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải có văn bản
pháp luật quy định hoạt động của đội ngò công chức, trong đó có sự phân loại
đội ngò công chức trong lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động sự nghiệp
nhằm hình thành đội ngò công chức có chuyên môn, có phẩm chất. Hiện tại
đối tượng và phạm vi của công chức ở nước ta vẫn theo quy định tại Khoản 1,
Điều 2 Nghị định Số 169/HĐBT:
a. Những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
Trung ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương.
b. Những người làm việc trong các Đại sứ quán, Lãnh sự quán của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
c. Những người làm việc trong các trường học, bệnh viện, cơ quan
nghiên cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của nhà nước
và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
d. Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan bộ quốc phòng.
e. Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan bộ quốc phòng. .
Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong bộ máy của văn phòng quốc hội, Hội đồng Nhà nước (nay là Văn phòng
Chủ tịch nước). Hội đồng nhân dân các cấp.

Những trường hợp riêng biệt khác do Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng quy
định
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khoá VII, từ giữa năm 1993 công việc xây dựng dự
án pháp lệnh về chế độ công chức được tiến hành khẩn trương. Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã chỉ rõ: Ở nước ta, sự hình thành đội ngò cán bộ viên
chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc ở các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh
đạo. Bởi vậy cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán
bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm: Các công chức Nhà nước (trong
đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh. ) cán bộ làm
việc chuyên trách trong các cơ quan Đảng, đoàn thể".
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo trên và để xây dựng đội ngò cán bộ, công chức
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ , có năng lực và tận tuỵ phục vụ nhân
dân, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh cán bộ
công chức được thông qua ngày 26 tháng 2 năm 1998 quy định: "Cán bộ,
công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước".
Điều 1, Pháp lệnh quy định cán bộ, công chức bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội 3.
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên, được phân loại theo trình độ, đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp
vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch
thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn
riêng:
4. Thẩm phán toà án nhân dân, kiểm soát viên Viện Kiểm sát nhân dân.
5. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ

thường xuyên làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm
việc trong các cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Như vậy: Ở nước ta, công chức là một bộ phận trong bộ máy hệ thống
chính trị, cùng với cán bộ hợp thành đội ngò cán bộ, công chức Nhà nước.
3. Phân loại công chức:
Lịch sử khoa học hành chính đã xác nhận tầm quan trọng và tính ưu việt
của việc phân loại công chức, vấn đề phân loại công chức trở thành nội dung
thiết yếu vì:
Phân loại công chức đề ra những tiêu chuẩn khách quan trong việc thi
tuyển người vào làm việc, giúp cho việc xác định tiền lương một cách hợp lý
và giúp cho việc tiêu chuẩn hoá, cụ thể hoá việc sát hạch, đánh giá công chức,
việc xây dựng quy hoạch đào tạo công chức đúng đối tượng yêu cầu. Đưa ra
những căn cứ cho việc xác định biên chế các công chức một cách hợp lý.
Thông thường việc phân loại công chức được thực hiện theo nhiều tiêu
thức:
3.1. Loại công chức:
Mục đích của việc phân loại là nhằm phục vụ cho quy hoạch công chức,
đáp ứng yêu cầu của các loại công việc, tạo ra sự cân đối trong việc sắp xếp
và quản lý công chức. Xuất phát từ mục đích trên, phân chia công chức thành
4 loại:
- Công chức lãnh đạo: là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong
điều hành công việc của các cơ quan quản lý thuộc bộ máy Nhà nước.
Công chức lãnh đạo là những người được quyền ra quyết định quản lý,
chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của đơn vị mình phụ trách, tổ chức và
điều hành công chức lãnh đạo được giao những thẩm quyền nhất định, thẩm
quyền đó gắn với chức vụ mà họ đảm nhận.
- Công chức chuyên gia: là những người có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, có khả năng nghiên cứu đề xuất những phương hướng, quan điểm và

thực thi công việc chuyên môn phức tạp. Họ là những người tư vấn cho lãnh
đạo, đồng thời cũng là những nhà chuyên môn.
- Công chức thi hành công vụ nhân danh quyền lực Nhà nước: Là những
người là bản thân họ không có thẩm quyền ra quyết định như các công chức
lãnh đạo. Họ là những người thừa hành công việc, thực thi công vụ. Họ được
trao những thẩm quyền nhất định trong phạm vi công tác của mình khi làm
nhiệm vụ.
- Các nhân viên hành chính: là những người thực hành nhiệm vụ do các
công chức lãnh đạo giao phó. Họ là những người làm công tác phục vụ trong
bộ máy Nhà nước.
3.2. Hạng công chức:
Hạng công chức là một tiêu thức chỉ trình độ tổng quát của công chức.
Nó chỉ rõ công chức có khả năng đảm đương những nhiệm vụ, công tác gì
trong bộ máy cơ sở để phân hạng công chức là trình độ, năng lực chuyên môn
thể hiện qua các văn bằng, chứng chỉ người công chức được cấp sau một quá
trình đào tạo.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, người ta chia công chức ra thành 4
hạng:
- Công chức hạng A: là những công chức có trình độ chuyên môn cao,
giữ các cương vị lãnh đạo, chỉ huy hoặc các chuyên gia có khả năng nghiên
cứu, phân tích và đưa ra các quan điểm, chiến lược, kế hoạch quan trọng. -
Công chức hạng B: là công chức có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn
hạng A, có khả năng giữ các cương vị lãnh đạo và những chuyên viên chính
có khả năng nghiên cứu, tham mưu và thực thi những vấn đề, mà độ phức tạp
Ýt hơn loại trên.
- Công chức hạng C: Là loại công chức thừa hành công việc dưới sự chỉ
huy của các công chức lãnh đạo.
- Công chức hạng D: là các nhân viên phục vụ trong bộ máy như tạp vụ,
lao động, hoặc những người làm công việc không đòi hỏi trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao.

Đòi hòi các hạng công chức có quá trình đào tạo hoặc trình độ văn hoá
tương đương như sau:
+ Hạng A: có trình độ trên đại học, có kinh nghiệm công tác lâu năm làm
việc có hiệu quả cao.
+ Hạng B: có trình độ đại học
+ Hạng C: có trình độ trung học
+ Hạng D: có trình độ tiểu học
Việc phân hạng công chức chỉ mang ý nghĩa định tính mà chưa xác định
rõ thứ bậc của người công chức.
3.3. Ngạch công chức:
Ngạch công chức là khái niệm chỉ trình độ, năng lực khả năng chuyên
môn và ngành nghề của công chức. Theo quyết định Số 414/TCCP - VC ngày
29/5/1993 công chức trong bộ máy Nhà nước ta được xếp theo các ngạch:
Nhân viên, cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và
cố vấn.
Mỗi ngạch công chức chia thành nhiều bậc. Bậc là các thứ hạng trong
một ngạch. Nếu chuyển ngạch phải được đào tạo, phải qua thi tuyển, thì việc
nâng bậc trong phạm vi ngạch chỉ phụ thuộc vào nhân viên công tác, chất
lượng công tác và kỷ luật của công chức.
II. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC:
1. Vai trò của cán bộ, công chức:
Nền hành chính nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận:
+ Cơ cấu vận hành nền hành chính (Thể chế)
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy với các cơ quan hành chính (Thiết chế)
+ Cơ cấu bộ máy nhân sự với đội ngò cán bộ, công chức.
Ba bộ phận này có liên hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau. Nghị
quyết hội nghị trung ương 8 khoá VII đã nhấn mạnh: Vấn đề cán bộ, công
chức là một trong 3 nội dung của trình độ cải cách hành chính ở Việt Nam.
Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII cũng tập trung chủ yếu vào vấn đề cán
bộ, trong đó có đội ngò cán bộ, công chức cua chính quyền cơ sở đặc biệt là

đội ngò cán bộ chủ chốt của chính quyền cơ sở. Đội ngò cán bộ chủ chốt làm
việc tại chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là những người trực tiếp với
dân, với các diễn biến hàng ngày của cộng đồng dân cư, đưa ra các quyết định
quản lý trực tiếp tác động đến cộng đồng và từng cá nhân trên địa bàn. Họ
cũng chính là những người chuyển các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước cũng như các chính sách cụ thể của chính phủ, cơ quan quản
lý nhà nước cấp trên thành sản phẩm cụ thể của hoạt động quản lý, như vậy
cán bộ, công chức ở chính quyền có vai trò quan trọng.
Lóc sinh thời Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vai trò quan trọng của
đội ngò cán bộ đối với sự thành bại của cách mạng. Trong cuốn sách "Sửa đổi
lối làm việc" xuất bản lần đầut iên năm 1948. Người đã viết: "Muôn việc
thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Trước đó, Người đã
từng cụ thể hoá mối quan hệ giữa chất lượng đội ngò cán bộ với hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị bằng hình ảnh: "Cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy, toàn bộ bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của
chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách
hay cũng không thể thực hiện được".
Cán bộ, công chức là trung tâm của bộ máy nhà nước nói chung, của nền
hành chính nói riêng. Họ không những là người xây dựng bộ máy hành pháp,
lập quy và các quy định cho tổ chức nhân sự mà còn là người thực thi pháp
luật, chịu sự quy định của bộ máy hành chính. Như vậy, có thể thấy cán bộ,
công chức vừa là chủ thể vừa là đối tượng quản lý hành chính.
Nhân tè con người bao giê cũng là nhân tố động nhất trong mọi hệ thống
và cán bộ, công chức là nhân tố động nhất của tổ chức bộ máy nhà nước. Đây
là yếu tố quyết định chất lượng của nền hành chính nhà nước, là lực lượng
hàng đầu thực hiện công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước mà chính họ
sẽ là lực lượng quyết định tiến trình và kết quả cuối cùng của sự nghiệp cải
cách đó.
Đội ngò cán bộ, công chức nước ta hiện nay là con đẻ của một xã hội

tiến bộ, của chế độ mới và là sản phẩm của quá trình lịch sử hơn 50 năm xây
dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đội ngò cán bộ, công chức đóng
góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân téc, thống nhất đất nước và xây dựng
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN làm thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước và thị
trường dẫn đến vai trò nhà nước trong cơ chế mới khác hẳn so với trước.
Công cuộc đổi mới kinh tế cho thấy những bước tiến đáng mừng, nó đã đi
trước một bước và đặt ra yêu cầu cải cách hành chính. Trong hoàn cảnh mới
đầy khó khăn. Cán bộ, công chức phải gánh gách những nhiệm vụ mới nặng
nề hơn. Chính họ sẽ đóng vai trò quyết định tính hiệu lực, hiệu quả của nền
hành chính nhà nước phát huy được những yếu tố tích cực, ngăn ngõa những
yếu tố tiêu cực làm cho quá trình này kìm hãm sự phát triển xã hội.
Tóm lại cán bộ, công chức có vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy
và nền hành chính nhà nước, vừa là người tổ chức lên bộ máy hành chính vừa
là người vận hành nó. Cán bộ, công chức hành chính là người duy trì hoạt
động của bộ máy hành chính, là tấm gương phản ánh nền hành chính nhà
nước.
2. Vị trí của cán bộ, công chức:
Vị trí của cán bộ, công chức khác nhau được pháp luật quy định khác
nhau. Trong thực tế, pháp luật đã xác định được các yếu tố về vị trí pháp lý
của các loại cán bộ. Vị trí pháp lý chung bao gồm các yếu tố:
- Mối liên hệ với nhân dân. Mỗi cán bộ xuất phát từ nhân dân lao động,
cho nên trong quan hệ xã hội họ thường xuyên liên hệ với nhân dân. Nói cách
khác cơ quan nhà nước không tách biệt, mà là một bộ phận của nhân dân. -
Hoàn thành đầy đủ công việc thực hiện thẩm quyền chức trách và nhiệm vụ.
Khi phân công công tác cho mỗi cán bộ nhân viên, phải xác định rõ khối
lượng công việc mà các cán bộ nhân viên phải hoàn thành đầy đủ, chứ không
phải để ai muốn làm được bao nhiêu tuỳ ý.
- Tôn trọng pháp luật

- Tôn trọng kỷ luật lao động, tức là thực hiện nghĩa vụ lao động và chức
trách của mình ở mức độ cao.
- Hoàn thiện trình độ văn minh trong quản lý. - Bảo vệ bí mật công tác
và bí mật nhà nước.
Đối với cán bộ, công chức lãnh đạo có vị trí là khâu trung tâm liên kết
các yếu tố, các cá nhân, các bộ phận thành một khối, thành một chỉnh thể để
thực hiện tốt muc tiêu cơ quan.
Cán bộ, công chức một mặt phải đại diện cho lợi Ých của Nhà nước, mặt
khác phải bảo vệ, phải đại diện cho lợi Ých của tập thể mà mình chịu trách
nhiệm phụ trách.
Cán bộ lãnh đạo là người trực tiếp đứng mòi chịu sào. Trực tiếp vận
dụng các quy luật khách quan để đề ra các quyết định quản lý, tạo ra các
thắng lợi liên tục cho hệ thống.
Như vậy cán bộ, công chức có vị trí rất là quan trọng trong mọi hệ thống
tổ chức.
III. QUAN NIỆM VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC.
1. Mối quan hệ giữa đào tạo và bồi dưỡng:
Trong hoạt động quản lý nhà nước, có một mảng hoạt động xét về hình
thức không gắn với hoạt động quản lý, điều hành nhưng nó giữ vai trò bổ trợ,
trang bị kiến thức để người cán bộ, công chức có đủ năng lực đáp ứng được
hoạt động điều hành, đó là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Đào tạo, bồi dưỡng là hai khái niệm phản ánh cùng một mục đích, trang
bị kiến thức và kỹ năng cho người công chức. Nhưng thực ra hai khái niệm có
những thuộc tính, nội dung, quy trình khác nhau:
Đào tạo được hiểu là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người
công chức thông qua quá trình đó trở thành công chức có văn bằng mới hoặc
cao hơn trình độ trước đó. Như đào tạo cán sự, các cử nhân, các chuyên viên
hoặc chuyên viên chính (trong hệ thống ngạch bậc hiện nay) là việc tuyển
dụng những công chức hoặc những công dân khi họ tróng tuyển trở thành
công chức, sau đó đưa họ vào cơ sở đào tạo để họ học và nhận những văn

bằng tương đương.
Bồi dưỡng hay tu nghiệp là quá trình hoạt động làm tăng thêm những
kiến thức và kỹ năng mới đối với những người đang giữ chức vụ, đang thực
thi công vụ của một ngạch bậc nhất định kết quả của các khoá bồi dưỡng là
người học nhận được những chứng chỉ ghi nhận kết quả.
Thông thường vì đào tạo là một quá trình trang bị kiến thức cơ bản mới
hoặc ở trình độ cao hơn, nên thời gian đào tạo thường dài hơn so với bồi
dưỡng. Khoá đào tạo Ýt nhất phải tương đương với một năm học (9 tháng) trở
lên.
Còn bồi dưỡng với mục đích chủ yếu là bổ sung kiến thức (cũng có thể
là trang bị kiến thức mới nhưng chỉ là một loại, nhóm kiến thức của các
chuyên môn như: Tin học, ngoại ngữ, dân số, môi trường ) hoặc chuyên sâu,
cập nhật những vấn đề liên quan đến chức vụ công chức đang đảm nhiệm. Vì
vậy, bồi dưỡng thường có thời gian ngắn hơn có thể là một, hai tuần hoặc
một, hai, ba tháng. Bồi dưỡng được xác nhận bởi các chứng chỉ.
Như vậy ta thấy đào tạo, bồi dưỡng có mối quan hệ mật thiết với nhau,
chúng hỗ trợ, củng cố cho nhau để người được đào tạo, bồi dưỡng có kiến
thức và kỹ năng cao hơn phù hợp với công việc được giao.
2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một công tác quan trọng
phải do một cơ quan nhà nước đảm nhận trực tiếp.
Đối với Việt Nam cơ quan chính phủ là cơ quan quản lý cao nhất và Ban
Tổ chức Chính phủ là cơ quan quản lý trực tiếp đảm nhận công việc này.
Ở các nước có nền hành chính phát triển đều thành lập các học viện hoặc
trường hành chính quốc gia trực thuộc thủ tướng chính phủ hay trực thuộc Bộ
trưởng Bộ công vụ. Ví dụ như ở Pháp có trường hành chính quốc gia (ENA)
rất danh tiếng, mỗi năm tuyển sinh 100 người, thời gian học 2 năm, các giáo
viên chủ yếu là giáo viên kiêm chức ở các bộ, ngành trung ương. Khi tốt
nghiệp được cấp bằng (ngang ngạch chuyên viên cao cấp ở nước ta) đốc sự là
ngạch công chức cấp cao nhất. Ngoài ra trên toàn nước Pháp có 5 trường đào
tạo công chức ngạch tham sù (ngang ngạch chuyên viên chính của chúng ta).

Nay ở Nhật Bản, trung tâm bồi dưỡng hành chính thuộc cơ quan nhân sự Nhật
Bản chủ yếu làm công tác bồi dưỡng.
3. Đào tạo, bồi dưỡng là một quá trình liên tục thường xuyên:
Có thể đào tạo, bồi dưỡng theo định kỳ hoặc theo nhu cầu công việc.
Nghĩa là người công chức trong suốt cuộc đời công vụ của mình không thể
chỉ học một lần (như tốt nghiệp đại học, được tuyển dụng và ngạch công chức
thì không cần họctập, bồi dưỡng gì thêm.)
Cần phải hiểu rằng, đào tạo công chức phải được diễn ra không chỉ trong
đội ngò công chức mà vai trò của giáo dục quốc dân rất quan trọng. Nó tác
động trực tiếp và sâu rộng đến hầu hết các chuyên ngành khác nhau trong hệ
thống công chức.
Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng công chức trên thực tế giữ vai trò trang bị,
cập nhật, pháp luật hoá những kiến thức có trước của công chức. Qua việc đào
tạo, bồi dưỡng thì các kiến thức chuyên ngành mà công chức có được sẽ thẩm
thấu, hoà quyện vào các quy định pháp luật nhà nước. Nó có vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình xây dựng một nền hành chính hiện đại đối với mọi
quốc gia.
4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thực hiện dưới nhiều
hình thức
- Nhà nước đào tạo: Nhà nước mở các líp các trường như đại học, học
viện chính trị, trung tâm chính trị để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trong cơ quan nhà nước của mình. Bắt buộc mọi cán bộ, công chức sau khi
được đào tạo, mỗi năm phải đi bồi dưỡng để củng cố kiến thức và kỹ năng
chuyên môn nghề nghiệp, cập nhật những kiến thức mới cho phù hợp với sự
phát triển của thế giới và khu vực.
- Cán bộ, công chức tự học để từ đó nâng cao năng lực và trình độ của
mình, theo kịp sự biến đổi của sự phát triển tránh sự hẫng hụt về mọi mặt để
từ đó có thể đề ra những chính sách mới, hoạch định chính sách có hiệu quả
và phù hợp với thời kỳ mới.
IV. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN

BỘ, CÔNG CHỨC:
Cải cách hành chính là công việc thường xuyên, liên tục của mọi quốc
gia nhằm khắc phục những khuyết tật của nền hành chính nhà nước, đáp ứng
yêu cầu phát triển liên tục, ổn định của nền hành chính và thường xuyên đáp
ứngn gày càng cao của xã hội. Ở Việt Nam, nội dung của công cuộc cải cách
hành chính được đại hội Đảng toànquốc lần thứ VIII chỉ rõ: "Cải cách nền
hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
trong những năm trước mắt, công cuộc cải cách hành chính phải dùa trên cơ
sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: Cải cách thể chế hành chính,
tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngò cán bộ, công chức nhà nước".
Trong đó, xây dựng, phát triển đội ngò cán bộ, công chức nhà nước được coi
là nội dung mang tính quyết định đối với công cuộc cải cách hành chính.
Song muốn cải cách thắng lợi phải có đội ngò cán bộ, công chức nhà nước
vừa có năng lực vừa có phẩm chất thích ứng với công việc nhiệm vụ và yêu
cầu mới. Từ đó cho thấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà
nước trở thành một đòi hỏi cấp bách, một yêu cầu tất yếu trong công cuộc cải
cách hành chính, một công việc phải được tiến hành lâu dài, liên tục.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã vạch ra con đường đổi mới toàn
diện cho đất nước, với tư tưởng, chủ trương của đại hội đã thổi một luồng
sinh khí mới vào cơ chế kế hoạch hoá tập trung cũ. Sự chuyển đổi cơ chế đã
tạo ra sự hẫng hụt, bất cập về kiến thức của đội ngò cán bộ và công chức nhà
nước. Để cải cách thắng lợi, xây dựng được đội ngò cán bộ, công chức nhà
nước vừa có năng lực, vừa có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng quản lý,
vận hành bộ máy hành chính, thực hiện hiệu quả các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, hết lòng phục vụ Nhà nước,
phục vụ nhân dân thì công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là khâu
trọng yếu trong quá trình thực hiện các mục tiêu đó.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức không chỉ xây dựng đội
ngò cán bộ, công chức giỏi chuyên môn nghiệp vụ mà công tác này còn là
nhân tố đảm bảo cho việc quản lý nhà nước theo pháp luật, bằng pháp luật và

sẽ là điều kiện để thực hiện khoa học công nghệ quản lý. Công tác này là một
đòi hỏi cấp bách một công việc lâu dài, nhất là đối với nước ta khi đang bước
vào thời kỳ mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do đó,
việc chuẩn bị hành trang cho đội ngò cán bộ công chức nhà nước, tạo những
tiền đề cần thiết bước vào thế kỷ XXI, tiền đề cho sự phát triển bền vững ổn
định không thể tách rời công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà
nước.
Như vậy, yêu cầu bồi dưỡng, đào tạo đội ngò cán bộ, công chức hành
chính nhà nước luôn được đặt ra đối với mọi quốc gia và đối với quốc gia thì
yêu cầu cũng đặt ra cho từng địa phương cơ sở (như tỉnh, thành phố, huyện,
xã ). Khi xã hội càng phát triển thì những mối quan hệ chỉ huy, phối hợp liên
kết ngày càng phức tạp, thì người quản lý, điều hành phải có trình độ ngày
càng cao. Do đó phải luôn luôn bồi dưỡng đào tạo lại những cán bộ lãnh đạo,
nhà chức trách điều hành bộ máy hành chính nhà nước, để bổ sung kiến thức
cho họ, đào tạo mới những công chức tương lai có năng lực và tri thức một
cách có hệ thống, chính quy để bổ sung vào bộ máy đó.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay rất
quan trọng bởi vì:
1. Quá trình xây dựng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN
Quá trình trên đòi hỏi phải có một đội ngò cán bộ, công chức đủ trình độ,
đủ năng lực và phẩm chất để có thể quản lý nền kinh tế vận hàng theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây do điều kiện
đất nước có chiến tranh nên cán bộ công chức của ta Ýt được đào tạo một
cách có hệ thống hoặc đào tạo theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung bao
cấp chuyển sang kinh tế thị trường, họ cần phải được đào tạo lại, được bồi
dưỡng để bổ sung và cập nhật kiến thức mới.
Việc đào tạo mới cũng phải theo hướng xây dựng và quản lý nền kinh tế
thị trường. Cán bộ, công chức phải được đào tạo, bồi dưỡng để có thể nâng

cao hiểu biết về mọi mặt như pháp luật, làm luật, đề ra luật phù hợp điều kiện
tình hình của chúng ta hiện nay.
Cán bộ, công chức có đủ năng lực và trình độ hoạch định và thực hiện
chính sách kinh tế: hoạch định được những chính sách đưa ra những chính
sách tốt phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và đất nước từ đó thực
hiện chính sách kinh tế có hiệu quả, hiệu lực.
Cán bộ, công chức phải xây dựng được các chiến lược phát triển: chiến
lược phát triển dài hạn, ngắn hạn, 5 năm, 10 năm để cho đất nước phát triển
đến tầm cao mới.
2. Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá:
Trong sự nghiệp này đòi hỏi phải có cán bộ, công chức nói riêng, nhân
lực của đất nước nói chung đáp ứng được nhiệm vụ của tiến trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá vì vậy đòi hỏi con người của thời đại mới, cán bộ, công
chức trong thời kỳ mới phải có kiến thức hiện đại, tác phong công nghiệp hiện
đại mới có thể công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công. Việt Nam ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Muốn có được những kiến thức trên con người phải được đào tạo, bồi
dưỡng thường xuyên tự học hỏi và trau dồi kiến thức để có kiến thức mới,
nâng cao được trình độ và năng lực chuyên môn cho chính mình để phục vụ
cho đất nước, tổ quốc và nhất là sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
3. Quá trình mở cửa, hội nhập:
Quá trình này đòi hỏi cán bộ, công chức phải ngang tầm với khu vực và
thế giới.
Để có thể làm ăn, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên
thế giới, đòi hỏi đội ngò nhân lực mà đặc biệt là những cán bộ, công chức
quản lý nhà nước phải được trang bị kiến thức mới như phải học và hiểu biết
luật pháp trong nước và quốc tế, phải biết ngoại ngữ, thành thạo vi tính, biết
quản lý kinh tế hiện đại.
Cán bộ, công chức cũng phải có giác quan sắc bén, nhạy cảm để có thể
xử lý được những tình huống bất ngờ xày ra, giúp cho đất nước phát triển

nhanh chóng trên mọi lĩnh vực.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước có năng lực,
phẩm chất, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn là một vấn đề một
nhiệm vụ mang tính then chốt, một bộ phận không thể tách rời của công cuộc
cải cách nền hành chính nhà nước, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và của quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và
công chức nhà nước, trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ngày càng
quan tâm hơn đến công tác này. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (Khoá VIII) đã ra nghị quyết về chiến lược cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tiếp đến, quyết định
874/TTg ngày 20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ một lần nữa khẳng định
rõ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà
nước.
Chương II
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở huyện Văn
Yên hiện nay
I. Tình hình phát triển chung của huyện Văn Yên
1. Tình hình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội
a. Đặc điểm chung
Huyện Văn Yên là một huyện vùng núi thấp nằm ở phía bắc của tỉnh
Yên Bái, tổng diện tích 1.338,84 km?2, gồm 26 xã và 1 thị trấn, có 13 xã
vùng cao dân téc, với 264 thôn bản, 17 tổ khu phố. Dân số: 107.271 khẩu =
21.240 hộ, có 11 dân téc cùng chung sống. Dân téc Kinh chiếm 59,8%, dân
téc Dao chiếm 21,1%, dân téc Tày chiếm 13,8%, các dân téc khác chiếm
5,3%. Tôn giáo: Thiên chóa giáo chiếm 15,6%, dân sè = 16.366 người chiếm
40%. Số giáo dân toàn tỉnh, có 11 họ đạo và 11 nhà thờ họ 111 xã. Đạo Tin
lành phát triển 2 xã với 68 hé = 408 khẩu, 100% là dân téc Mông.
Năng lực kinh tế huyện: Phát triển theo cơ cấu nông lâm nghiệp kết hợp

- nông nghiệp là chủ yếu. Cây quế, cây lúa, cây mía là mòi nhọn chính trong
phát triển kinh tế của huyện.
Đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao, cơ sở hạ tầng, điện -
đường - trường, trạm ngày càng được mở rộng. Là huyện hoàn thành chương
trình phổ cập giáo dục tiểu học, 100% các em đến tuổi cắp sách đến trường.
Nền văn hoá có bước phát triển, công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân
được quan tâm, chính sách xã hội được chăm lo thường xuyên nhất là công
tác chính sách hậu phương quân đội - chính sách dân téc của Đảng. An ninh
quốc phòng được củng cố, chính trị ổn định và được giữ vững về tổ chức
Đảng: Có 1 cấp uỷ Đảng của huyện gồm 4 ban xây dựng đảng và 1 văn
phòng, có 51 chi Đảng bộ cơ sở và 214 chi bộ thôn bản với tổng số 3.182
Đảng viên Đảng bộ liên tục đạt Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên, Văn Yên vẫn còn không Ýt khó
khăn: địa hình rừng núi, giao thông không thuận tiện, đời sống một bộ phận
nhân dân còn nghèo, tệ nạn xã hội, phong tục tập quán, các hủ tục mê tín dị
đoan tuy đã giảm song vẫn còn rải rác ở một số vùng có trình độ dân trí thấp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn đẩy mạnh chống phá ta với
chiến lược "diễn biến hoà bình". Và nhiều thủ đoạn thâm hiểm vẫn đang tiềm
Èn nhằm vào mặt trận văn hoá - tư tưởng tác động của những mặt trái của cơ
chế thị trường làm ảnh hưởng đến nhận thức của nhân dân.
Với tình hình trên, đặc biệt sau khi có chỉ thị 58, Nghị định 19/CP của
Chính phủ. Huyện uỷ - HĐND - UBND đã ý thức đầy đủ tình hình của địa
phương, triển khai tích cực hiệu quả nội dung chỉ thị, nghị định. Tăng cường
hiệu lực quản lý Nhà nước về quốc phòng an ninh, nhằm xây dựng cơ sở xã -
thị trấn - cơ quan vững mạnh toàn diện. Vừa phát triển kinh tế, vừa củng cố
quốc phòng an ninh tạo thế và lực xây dựng cuộc sống bình an - Êm no cho
nhân dân. Được sự quan tâm lãnh đạo - chỉ đạo của cấp uỷ - chính quyền, các
ban ngành của tỉnh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ, chính quyền địa
phương, những năm qua UBND cùng các cấp, các ngành, các địa phương đã
đồng bộ triển khai tích cực hiệu quả, đẩy mạnh phát triển kinh tế, kết hợp với

củng cố quốc phòng an ninh, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong
xây dựng cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, chính quyền hoàn
thành các mục tiêu kinh tế - văn hoá xã hội - giáo dục - y tế - quốc phòng an
ninh. Tạo niềm tin của nhân dân với Đảng, lực lượng vũ trang trưởng thành
thực sự là lực lượng nòng cốt, lực lượng chính trị hùng hậu cùng toàn Đảng
bộ và nhân dân làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù
địch, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu trong giai cấp
cách mạng mới.
b) Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện:
Trong những năm vừa qua huyện giữ vững được sự tăng trưởng kinh tế
nhất là lĩnh vực sản xuất lương thực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,2%

×