Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

lê hoàn người tổ chức, phát huy và khơi mở nhiều truyền thống quý báu của văn hóa dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.27 KB, 36 trang )

LÊ HOÀN - NGƯỜI TỔ CHỨC, PHÁT HUY VÀ KHƠI MỞ
NHIỀU TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA VĂN HÓA DÂN
TỘC

PGS. TSKH Nguyễn Hải Kế

1. Lê Hoàn – người chèo lái con thuyền quốc gia Đại
Cồ Việt khi vận nước lâm nguy.
Mùa đông – 979, tại kinh đô Hoa Lư của quốc
gia Đại Cồ Việt, chỉ một đêm cả hai cha con vua Đinh
Bộ Lĩnh bị sát hại.
Định Quốc công Nguyễn Bặc tổ chức truy lung,
bắt được kẻ ám sát, rồi cùng Ngoại giáp Đinh Điền,
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn –
con còn lại của Đinh Bộ Lĩnh mới 6 tuổi, lên ngôi
hoàng đế. Lê Hoàn làm Phó vương nhiếp chính.
Nhưng, Định Quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại
giáo Đinh Điền, Phạm Hạp “ngờ Hoàn sẽ làm điều bất
lợi cho vua nhỏ”[1] bèn cùng nhau dấy binh, muốn
tiến đến kinh đô, giết Lê Hoàn[2] “làm kinh động nước
nhà. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nổi nhiều nạn”.
Ngay thời gian đó, hay tin cha con Đinh Bộ Lĩnh
mất, rồi triều đình như vậy, từ phía nam, Ngô Nhật
Khánh, con rể “bất đắc dĩ” của cố hoàng đế dẫn hơn
ngàn chiếc thuyền quân Chiêm Thành theo cửa biển
Đại Ác và Tiểu Khang nhằm chọc thẳng vào kinh đô
Hoa Lư.
Phía Bắc, Hầu Nhân Bảo – Tri châu Ung báo về
vua Tống: “An Nam quận vương cùng với con là Liễn
bị giết chết, nước ấy sắp mất, có thể nhân lúc này đem
một cánh quân sang đánh lấy. Nếu bỏ lúc này không


mưu tính, sợ lỡ mất cơ hội”.
Chẳng chờ viên Tri châu này về triều, vua Tống,
theo lời bàn của Lư Đa Tốn cho rằng “An Nam rối loạn
bên trong. Đó là lúc trời làm mất” đã áp dụng chiến
lược bất ngờ đánh úp “sét đánh không kịp bịt tai”;
giao cho Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lục thủy bộ
chuyển vận sứ với cả một đoàn tướng tá Kinh Hồ như
Tôn Toàn Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi
Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn…họp quân
cả bốn hướng hẹn ngày sang xâm lược.
Hơn 40 năm sau Bạch Đằng 938, đất nước dẫu
vẫn còn không ít khó khăn, song chưa bao giờ vận
nước lại mong manh đến thế!
Trong thời điểm cực kỳ nghiêm trọng với sự tồn
vong của quốc gia dân tộc, trọng trách chèo lái con
thuyền quốc gia Đại Cồ Việt được trao vào tay Lê
Hoàn.
2.Lê Hoàn – người chuyển nguy thành an, đưa thế
nước đi lên
Trước áp lực của tập hợp Nguyễn Bặc, Đinh
Điền, lời khẳng định của Lê Hoàn trước Thái hậu:
“Thần ở chức Phó vương nhiếp chính, dù sống chết
biến họa thế nào đều phải đảm đương trách nhiệm!”
thể hiện rõ bản lĩnh, vượt qua những thói tục tầm
thường, dám chịu trách nhiệm của vị Tổng chỉ huy các
lực lượng võ trang trước đòi hỏi của vương triều,
mệnh nước.
Mối lo Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp được
loại trừ nhanh chóng.
Với nạn xâm lược của nhà Tống.

Cuộc xâm lược quy mô, được nhà Tống chuẩn bị
gần nửa năm (từ cuối mùa hạ, tháng 6 năm Canh
Thìn – 980 đến mùa xuân năm Tân Tỵ - 981) huy động
3 vạn quân với một loạt các tướng lĩnh.
Chỉ trong thời gian ngắn (mùa xuân năm 981)
quân dân Đại Cồ Việt do Lê Hoàn “tự làm tướng” đã
ghi vào lịch sử dân tộc vũ công chói lọi “đánh dẹp
chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không
hơn được” (Lê Văn Hưu), “…đánh lui quân Triệu Tống
để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi
là anh hùng nhất đời vậy” (Ngô Sỹ Liên)[3].
Với vấn nạn từ phía nam, khí thiêng sông núi
Đại Cồ Việt đã trợ phù cho vận nước khi chỉ qua một
đêm trong năm 979, ngay trên cửa biển không xa kinh
đô Hoa Lư, gió bão giáng đòn “Đại Ác” đã làm lật đắm
thuyền khiến “Ngô Nhật Khánh cùng đám quân Chiêm
Thành đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm
thoát về nước”. Tuy nhiên, không phải vì thế mà mối
đe dọa từ phía nam vĩnh viễn được loại trừ.
Năm 982, hai viên sứ giả của Lê Hoàn là Từ
Mục và Ngô Từ Canh bị triều đình Chiêm giữ.
Lê Hoàn liền “sai đóng chiếm thuyền, sửa binh
khí, tự làm tướng đi đánh”. Cuộc nam chinh lần ấy của
Lê Hoàn kéo dài trọn một năm – lâu nhất trong các
vua thời phong kiến Việt.
Như vậy là chỉ trong vòng 3 năm, từ khi lên
ngôi, hai mối đe dọa trực tiếp đến độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Đại Cồ Việt từ phương
Bắc và phương Nam đã được Lê Hoàn giải quyết
nhanh, gọn.

Điều đặc biệt quan trọng là trước, trong và sau
quá trình giải quyết những vấn nạn thuộc về địa –
chính trị thường xuyên này của quốc gia, Lê Hoàn còn
tạo ra một thế mới, mẫu mực trong nguyên tắc bang
giao với triều đình phương Bắc, và mở đầu một quá
trình lãnh thổ - văn hóa xuống phương nam mà các
triều đại phong kiến Việt Nam về sau tiếp tục tuân thủ
và phát triển[4].
3.Lê Hoàn – người khơi mở nhiều điển lễ văn hóa.
Các nguồn sử liệu như Đại Việt sử ký toàn thư,
Lịch triều hiến chương loại chí khi biên chép về các sự
kiện từ kỷ nguyên độc lập tự chủ thời Ngô Quyền trở
đi, thường có những điển lễ, sự kiện, gắn với chữ
“thủy” (bắt đầu) “sơ” (đầu tiên):
Chẳng hạn:
“Kỷ Hợi – 939, mùa xuân, vua bắt đầu xưng
vương”.
“Năm Mậu Thìn – 968…vua lên ngôi, bắt đầu
dựng đô mới”[5].
Nếu hơn 40 năm của thời Ngô, Đinh (938 đến
980) chỉ có 2 lần như vậy, thì trong 24 năm của thời
Lê Hoàn, bên cạnh những điển lễ,…đi liền với chữ “bắt
đầu”, còn có những chữ “hậu dĩ vi thường” (về sau
làm thành lệ thường)[6].
Mùa xuân năm Đinh Hợi - 987, “vua lần đầu cày
ruộng tịch điền ở núi Đọ (Hà Nam), lại cày ở núi Bàn
Hải” (?).
Từ năm 989 đến 995, Lê Hoàn đã lần lượt
phong vương cho các con (gồm cả con nuôi):
STT

Các con
Danh hiệu
Đóng quân ở
Năm phong
1
Lê Thau[7]
Kình Thiên Đại vương

Năm 989
2
Lê Ngân Tích
Đông Thành vương

Nt
3
Lê Long Việt
Nam Phong vương

Nt
4
Lê Long Đinh
Ngự Man vương
Phong Châu
Năm 991
5
Lê Long Cân
Ngự Bắc vương
Phù Lan
Vùng Phù Vệ - Đường Hào
Năm 991

6
Lê Long Đĩnh
Khai Minh vương
Đằng Châu
Phần Kim Động
Năm 992
7
Lê Long Tung
Phiên Định vương
Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang
Năm 993
8
Lê Long Tương
Phó vương
Đỗ Động Giang
Nt
9
Lê Long Kính
Trung Quốc vương
Cần Đà, Mạt Liên
Nt
10
Lê Long Mang
Nam Quốc vương
Vũ Lung
Năm 994
11
Lê Long Đề
Hành Quân vương
Bắc Ngạn, Cổ Lãm

Năm 995
12
Con nuôi?
Phù Đái vương
Phù Đái
Nt
Về việc phong vương cho các hoàng tử, Ngô Thì
Sĩ đánh giá:
“Các hoàng tử đời Lý Trần đều được phong
tước vương. Người nào công đức to hơn thì thêm chữ
Đại, có lẽ phong theo lệ này”.
“Lê Đại Hành tránh cái loạn của nhà Đinh
phong khắp cho con gồm 13 tước vương, chia nhau ở
các châu quận. Có lẽ là theo lối ngày xưa. Muốn nơi
lớn nhỏ ràng buộc lẫn nhau, lúc nguy cấp thì cứu
nhau, chống kẻ khinh rẻ mà giữ sự bền lâu, không thể
thừa cơ dòm ngó như mình đối xử với nhà Đinh. Lo
nghĩ cũng chu đáo đấy, phương pháp cũng chặt chẽ
đấy”[8].
Lưu ý là:
-8/9 vị hoàng tử đều được phân công phía bắc Hoa
Lư, ở hai bên bờ bắc – nam sông Hồng hiện nay.
-Chỉ có 1 hoàng tử đóng quân ở Vũng Lung (thuộc
Thanh Hóa ngày nay) phía nam Hoa Lư.
Mặt khác qua danh hiệu tước vương của các hoàng
tử, nhất là các hoàng tử phụ trách ở vùng trung tâm
châu thổ, khu vực hai bên bở nam, bắc sông Hồng:
Hành Quân vương, Ngự Man vương, Ngự Bắc vương,
Phiên Định vương, Trung Quốc vương…đã gợi ý
những nhiệm vụ, sứ mạng mà Lê Hoàn đang đặt ra,

đòi hỏi các hoàng tử phải đảm trách ở vùng châu thổ
này, vừa cho thấy rõ Lê Hoàn bằng hành động thực tế
đã rất coi trọng vùng trung tâm châu thổ sông Hồng.
Vùng này vào những năm cuối của thiên niên kỷ thứ
nhất vẫn còn những hoạt động lẻ tẻ chống đối lại triều
đình mà sử cũ gọi là “giặc”.
Năm Đinh Dậu – 997, Lê Hoàn “thân đi đánh giặc ở Đỗ
Động Giang (vùng Thanh Oai – Hà Tây ngày nay), bắt
được đồ đảng đem về kinh sư”.
Năm Canh Tý – 1000 “xuống chiếu đi đánh giặc ở
châu Phong (vùng Sơn Tây, Phú Thọ) là bọn Trịnh
Hàng, Đan Trường Ôn”…
Như vậy, chính việc tập trung đến 8/9 con trai – lực
lượng thân tín của mình vào khu vực này và với
những sứ mạng hành quân, ngự man, phiên định…và
bản thần dẫn quân đi đánh dẹp lực lượng chống đối ở
Đỗ Động Giang, cho thấy Lê Hoàn đánh giá cao vai trò
của vùng châu thổ, mong ổn định tình hình ở trung
tâm châu thổ. Quá trình đó, rõ ràng đã chuẩn bị địa
bàn trực tiếp, để hơn 10 năm sau đó Lý Công Uẩn có
thể ung dung quyết định rời đô từ Hoa Lư về Đại La.
Nhận xét thế nước Đại Cồ Việt cũng như công việc
phát triển kinh tế văn hóa, xã hội đất nước của vua Lê
Hoàn, Ngô Thì Sĩ rồi Phan Huy Chú đều thống nhất
cách đánh giá:
Nhận xét về thế nước Đại Cồ Việt cũng như công việc
phát triển kinh tế văn hóa, xã hội đất nước của vua Lê
Hoàn, Ngô Thì Sĩ rồi Phan Huy Chú đều thống nhất
cách đánh giá:
“Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn

động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh
hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến
chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm
ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa
quân ngũ…có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo
lắng”[9].
Với 24 năm ở cương vị cao nhất của quốc gia, Lê Hoàn
đã hoạt động không mệt mỏi vì sự phát triển của quốc
gia Đại Cồ Việt. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 700
năm trước, có người hỏi Lê Văn Hưu (1230 – 1322):
“Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Lê Văn Hưu đáp: “Kể
về mặt trừ gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh
nước Việt Nam, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ
không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ
hơn”[10].
4.Lê Hoàn – người tập hợp, quy tụ, tổ chức, phát huy,
nhân lên có hiệu quả nhân tài, sức mạnh quốc gia, dân
tộc.
Mùa thu năm canh thin – 980, khi có tin quân
Tống sắp sang, cùng với việc chọn dũng sĩ đi đánh
giặc, Lê Hoàn quyết định “lấy người ở Nam Sách
Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân”[11].
Vị tướng người huyện Chí Linh (Hải Dương) ấy
chẳng phải ai xa lạ. Chính là em trai Phạm Hạp – Vệ
úy đời vua Đinh Bộ Lĩnh, một trong ba người cầm đầu
phái tổ chức cuộc tấn công Lê Hoàn, đã bị chính Lê
Hoàn truy kích lên tận Cát Lợi (Bắc Giang) và bắt
sống đem về Hoa Lư!
Và, trong giờ phút khi triều đình đang bàn kế
hoạch xuất quân, thì Cự Lạng, người đang mang mối

thù về anh trai bị bắt, lại cùng với các tướng khác
dưới quyền của Lạng, “đều mặc áo trận, đi thẳng vào
Nội phủ”…!
Nhưng, chính Phạm Cự Lạng[12], chứ không
phải là ai khác, xướng xuất với mọi người: “Thưởng
người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi
hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng
ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có
chút công lao, thì có ai biết cho. Chi bằng trước hãy
tôn lập ông Thâp đạo làm thiên tử, sau đó sẽ xuất
quân thì hơn”.
Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế”.
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn
sai lấy áo long cổn, khoác lên người Lê Hoàn, mời lên
ngôi hoàng đế.[13]
Như vậy là sau hơn nửa năm làm Phó vương
nhiếp chính, cho đến lúc này, khi lực lượng chống đối
(hay hiểu nhầm?) như Nguyễn Bặc, Đinh Điền…đã
không còn nữa, đất nước đang đứng bên bờ vực mất
còn của họa ngoại xâm, và chỉ khi “mọi người vui lòng
quy phục”[14], Lê Hoàn mới chính thức lên ngôi. Cuộc
chuyển giao ngôi vua từ triều Đinh sang Lê – đến thời
điểm này diễn ra như có bàn tay của đạo diễn bậc
thầy!
Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, cựu hoàng đế - cậu bé
Đinh Toàn 6 tuổi được giáng phong mà thực chất là
trở về vị trí cũ làm Vệ vương.
Hai mươi mốt năm sau, năm 1001, khi cùng Lê
Hoàn tấn công lực lượng chống đối ở miền Cử Long
(vùng Lạc Thủy – Thanh Hóa), Vệ vương Đinh Toàn đã

hy sinh tại trận khi 28 tuổi.
Tiếp tục tinh thần từ triều Đinh, những trí thức
hàng đầu của quốc gia như thiền sư Pháp Thuận, Ngô
Chân Lưu (933 – 1011)…càng được Lê Hoàn trọng
dụng.
Thiền sư Pháp Thuận (915 – 990) “trong buổi
đầu khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công bàn
hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình sư không
nhận chức tước của triều đình phong thưởng, vua lại
càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, mà gọi
là Đỗ Pháp sư, thường ủy thác cho sư các công việc
văn hàn…Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài”[15].
“Trong văn kiện bang giao lúc bấy giờ, như bức
thư xin nối ngôi của Vệ vương Toàn thấy được bút
pháp uyển chuyển khúc chiết, đúng thể cách. Cho đến
câu thơ nối vần thiên nha, khúc ca tiễn sứ giả, tình tứ
sắc bén đầy đủ, dù văn nhân, từ khách ngày nay cũng
không hơn được”[16].
Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011)
– người đã được vua Đinh Bộ Lĩnh phong chức Tăng
thống, ban hiệu Khuông Việt đại sư từ năm 971, tiếp
tục được sự kính trọng đặc biệt của Lê Hoàn “phàm
các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự”.
Thời đại Lê Hoàn ngoại giao Việt – Hán không
chỉ trước, trong và sau chiến tranh xâm lược của nhà
Tống (981) đã được phát triển đến một tầm cao mới.
Một trong những nguyên nhân quan trọng của thành
công này, vì Lê Hoàn đã tin cậy, trao phó cho các đại
trí thức như Khuông Việt Ngô Chân Lưu, Pháp
Thuận…

Chính thiền sư Vạn Hạnh (? – 1018) – người
thiết kế, tổ chức tài giỏi – trụ cột của Lý Công Uẩn, của

×