Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong xu thế hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 104 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
***







KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẢN
PHẨM TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP


Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Phƣơng
Lớp : A7
Khoá : K41C - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : CN. Lê Thị Thanh









HÀ NỘI - 11/2006
Đê tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm tại NH ĐT & PT Việt Nam”


Đỗ Thị Phương – A7 – K41C - KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

NH ĐT & PT VN: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV: Bank for Investment and Development of Vietnam
(Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam)
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
SPNH: Sản phẩm ngân hàng
SPDV: Sản phẩm dịch vụ












Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

1
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại. Để bắt nhịp với
xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Tham gia sân chơi kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc mở cửa hơn nữa thị
trường tài chính, dịch vụ ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào Việt Nam.
Đồng thời, sức ép đối với các NHTM Việt Nam tăng lên.
Thách thức lớn nhất trong hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng
của Việt Nam là xuất phát điểm còn thấp về trình độ phát triển thị trường,
tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ chức ngân hàng lạc hậu, và trình độ
quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Mặt
khác, về chất lượng hoạt động, hầu hết các NHTM Việt Nam hoạt động tín
dụng vẫn là chủ yếu, sản phẩm dịch vụ còn sơ sài, thiếu các tiêu chí quản lý
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo
trên. NH ĐT&PT VN là một trong các NHTM quốc doanh hàng đầu Việt
Nam, tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng còn khá đơn điệu, phổ
biến là các sản phẩm ngân hàng truyền thống. Vì vậy, để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập, NH ĐT&PT VN phải giải quyết đồng bộ các vấn đề
của hoạt động kinh doanh, mà trước hết là vấn đề phát triển sản phẩm.
Bởi vậy việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, qua đó tìm các giải
pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của NH ĐT&PT VN sẽ góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập quốc tế. Cùng với kết quả từ việc
nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thực tế hoạt động của NH ĐT&PT VN, em đã
chọn và hoàn thiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm của

Ngân Hàng Đầu Tư & Phát Triển Việt Nam trong xu thế hội nhập.”
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

2
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những lý luận cơ bản về
vấn đề phát triển sản phẩm của NHTM; phân tích thực trạng phát triển sản phẩm
tại NH ĐT&PT VN, những kết quả đã đạt được cũng như những khó khăn gặp
phải và những nguyên nhân trong phát triển sản phẩm để từ đó đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị việc phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu về
phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN trong thời gian từ năm
2003 đến 6 tháng đầu năm 2006.
Phương pháp nghiên cứu: khoá luận dựa trên lý luận cơ bản của triết
học, sử dụng phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, duy vật lịch
sử, đối chiếu so sánh. Khoá luận sử dụng phương pháp đi từ cái chung đến cái
riêng, phân tích kết hợp với tổng hợp đúc kết thành lý luận trên cơ sở thực
tiễn để nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận: ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về sản phẩm ngân hàng và phát triển
sản phẩm ngân hàng
Chương II: Thực trạng phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN
Chương III: Giải pháp phát triển sản phẩm tại NH ĐT&PT VN
Do kiến thức thực tế và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tổng
kết và thống kê chưa đầy đủ nên khóa luận không thể tránh khỏi nhiều thiếu
sót và hạn chế. Em rất mong có sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ
khoa học để khóa luận được hoàn chỉnh hơn và giúp em có nhận thức sâu sắc
hơn về đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn giảng viên Lê Thị Thanh- Giáo viên hướng
dẫn- đã tận tình chỉ bảo em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận

văn.

Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

3
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM NGÂN
HÀNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
I. TỔNG QUAN VỀ SẢN PHẨM NGÂN HÀNG
1. Khái niệm và vai trò của sản phẩm ngân hàng
1.1. Khái niệm sản phẩm ngân hàng
1.1.1. Định nghĩa sản phẩm ngân hàng
Về cơ bản, một sản phẩm do một tổ chức cung cấp nó phải có khả năng
thỏa mãn một nhu cầu nhất định nào đó của khách hàng. Khách hàng của
ngân hàng có những nhu cầu cơ bản sau:
- Tìm kiếm thu nhập
- Quản lý rủi ro (cất giữ an toàn tiền, tài sản quý giá)
- Bổ sung các nguồn tài chính thiếu hụt (tín dụng)
- Di chuyển tiền tệ
- Tư vấn chuyên môn
- Thông tin….
Trên thực tế, hoạt động của ngân hàng đang cung cấp các sản phẩm
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng trên thị trường như:
- Dịch vụ cho vay;
- Dịch vụ tiền gửi ký thác;
- Dịch vụ chuyển tiền;
- Dịch vụ tư vấn;
- Dịch vụ cho thuê két sắt, gửi tiền qua đêm;
- Dịch vụ thanh toán;

- Các dịch vụ về thẻ…
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

4
Như vậy, có thể hiểu sản phẩm ngân hàng là tập hợp tất cả những đặc
điểm, tính năng, công dụng mà ngân hàng cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng trên thị trường tài chính.
Ở đây, tính năng được hiểu là những tính chất, chức năng kỹ thuật của
sản phẩm mang lại tiện ích, công dụng cho khách hàng như chuyển tiền
nhanh, rút tiền tự động. Công dụng là những tiện ích mà sản phẩm mang lại
nhờ những tính năng của nó.
1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm ngân hàng
- Tính vô hình:
Đây là đặc điểm chủ yếu để phân biệt sản phẩm ngân hàng với các sản
phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc dân. SPNH
thường thực hiện theo một quy trình chứ không phải là các vật thể cụ thể có
thể quan sát, nắm giữ được. Vì vậy, khách hàng của ngân hàng thường gặp
khó khăn trong việc ra quyết định lựa chọn, sử dụng sản phẩm. Họ chỉ có thể
kiểm tra và xác định chất lượng sản phẩm trong và sau khi sử dụng.
- Tính không thể tách biệt:
Sản phẩm của ngân hàng là hình thức dịch vụ, mang hình thái phi vật
chất, quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tiến hành đồng thời với sự
tham gia của ba yếu tố:
+ Một là, khách hàng tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Khách hàng sẽ thể hiện nhu cầu của mình đối với sản phẩm, đồng thời
đánh giá chất lượng của sản phẩm.
+ Hai là, nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng, là hình ảnh của
ngân hàng.
+ Ba là, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại tạo điều kiện thuận lợi

trong việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

5
Quá trình cung ứng sản phẩm của ngân hàng thường được tiến hành
theo những quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành các loại sản phẩm
khác nhau như quy trình thẩm định, quy trình cho vay, quy trình chuyển tiền,
… Điều đó làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho
mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng khi và chỉ khi có
nhu cầu; quá trình cung ứng diễn ra đồng thời với quá trình sử dụng.
- Tính không ổn định và khó xác định:
SPNH được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như: trình độ đội ngũ
nhân viên, kỹ thuật công nghệ và khách hàng. Đồng thời, SPNH còn được
thực hiện ở không gian khác nhau nên đã tạo nên tính không đồng nhất về
thời gian, cách thức thực hiện và điều kiện thực hiện. Các yếu tố này đan xen
chi phối đến chất lượng sản phẩm, nhưng lại thường xuyên biến động; đặc
biệt là đội ngũ nhân viên giao dịch trực tiếp là yếu tố quyết định và tạo ra sự
không ổn định và khó xác định về chất lượng SPNH.
1.2. Vai trò của sản phẩm ngân hàng
SPNH có vai trò rất quan trọng trong kinh tế, đời sống và quá trình hội
nhập quốc tế.
SPNH thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào tăng trưởng GDP. Là
những định chế trung gian tài chính, hệ thống tổ chức tín dụng huy động các
khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để đầu tư, cho vay các chủ thể kinh doanh,
sản xuất và đời sống. Trong điều kiện kinh tế nước ta khi các kênh huy động vốn
khác còn chưa phát triển, hệ thống NHTM đã trở thành kênh cung cấp vốn chủ
lực cho nền kinh tế. Thông qua các dịch vụ cho vay, hệ thống NHTM giúp các
doanh nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất, dịch chuyển vốn đầu tư, đổi mới trang
thiết bị, công nghệ, nhằm hạ giá thành sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh, nhất là

trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

6
SPNH thúc đẩy nền kinh tế theo xu hướng nền kinh tế tri thức. SPNH
ngày càng sử dụng nhiều thành tựu của công nghệ thông tin. Các SPNH đang
phát triển như thẻ ATM, home banking, internet banking, … Công cụ hoạt
động hàng ngày được các NHTM trang bị như máy PC, mạng trực tuyến
trong hệ thống, website, …góp phần tạo thêm những dịch vụ mới. Mặt khác,
SPNH là loại dịch vụ chất lượng cao, đòi hỏi người cung cấp và khách hàng
phải có am hiểu nhất định mới có thể sử dụng và vận hành.
SPNH tạo điều kiện cho các ngành dịch vụ khác phát triển. Do đặc
điểm của SPNH liên quan sâu rộng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất
và đời sống, nên sự phát triển của SPNH như đầu tư, thanh toán, chuyển tiền
gắn với các dịch vụ bưu chính viễn thông, kế toán, kiểm toán, du lịch, giao
thông vận tải. Lĩnh vực xuất nhập khẩu dịch vụ sẽ bị hạn chế nếu dịch vụ
thanh toán không thông suốt.
2. Phân loại sản phẩm ngân hàng
2.1. Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng
Dựa vào nhu cầu của khách hàng, có thể phân thành sáu nhóm:
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về tiền như các khoản cho vay.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu thu nhập như tiền gửi tiết kiệm, dịch
vụ đầu tư.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về thanh toán và chuyển tiền như séc, thẻ…
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu quản lý như bảo hiểm, ký thác, bảo
quản tài sản.
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về thông tin như dịch vụ thông tin thị
trường, luật pháp, bảo lãnh…
- Nhóm SPDV thỏa mãn nhu cầu về chuyên môn sâu như tư vấn về

thuế, dự án và tư vấn đầu tư.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

7
2.2. Căn cứ vào bảng cân đối tài sản
Dựa vào bảng cân đối tài sản, có thể phân thành hai nhóm SPDV:
- Các SPDV nội bảng như nhận tiền gửi, cho vay và đầu tư chứng khoán.
- Các SPDV ngoại bảng như các dịch vụ tư vấn, mua bán ngoại hối,
quyền mua – quyền bán, bảo lãnh.
2.3. Căn cứ vào sự phát triển và ứng dụng công nghệ vào sản phẩm
ngân hàng
- SPNH truyền thống: là những sản phẩm gắn liền với những nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng (tiết kiệm, tiền gửi, cho vay, thanh toán, …).
Những sản phẩm này xuất phát từ nguồn gốc ra đời của ngân hàng, nó tồn tại
cùng với sự tồn tại của ngân hàng. Nó là những sản phẩm đặc trưng cho tất cả
các loại hình ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng. Do vậy, những sản
phẩm này thường ít thay đổi và phải chịu sự quản lý chặt chẽ, thống nhất bởi
các quy định, thể chế của Nhà Nước.
- SPNH hiện đại: kinh doanh ngân hàng hiện đại không chỉ là việc huy
động vốn và cho vay mà còn tham gia đầu tư và cung cấp các sản phẩm bổ
sung khác cho nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của khách hàng.
Có thể phân biệt giữa SPNH truyền thống và SPNH hiện đại qua một
số chỉ tiêu sau:
Tiêu chí
SPNH truyền thống
SPNH hiện đại
Nguồn gốc ra
đời
Ra đời cùng với sự hình thành

và phát triển của ngân hàng.
Là những sản phẩm ra đời
do sự phát triển của công
nghệ thông tin hiện đại.
Sự tham gia
của con người
Cần nhiều lao động, chủ yếu là
lao động thủ công, ít cần sự
tham gia của máy móc.
Cần hàm lượng công nghệ
cao, đặc biệt là công nghệ
thông tin. Sự tham gia của
máy móc thiệt bị hiện đại
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

8
là chủ yếu.
Địa điểm và
thời gian giao
dịch
Khách hàng phải rời bỏ nơi
làm việc, nhà ở của mình để
đến giao dịch trực tiếp tại trụ
sở ngân hàng. Thời gian kể từ
khi phát sinh đến khi thỏa mãn
nhu cầu là rất lâu.
Khách hàng có thể ở tại
nhà hoặc nơi làm việc
hoặc bất kỳ chỗ nào đều

có thể giao dịch được. Rút
ngắn thời gian giao dịch.
Tính rủi ro
Ngân hàng phụ thuộc nhiều
vào khách hàng, mang tính rủi
ro cao.
Sản phẩm đa dạng, phân
tán rủi ro, tăng khả năng
cạnh tranh cho ngân hàng.
3. Các cấp độ và chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng
3.1. Các cấp độ của sản phẩm ngân hàng
- Cấp độ thứ nhất: Phần sản phẩm cốt lõi
Phần cốt lõi của SPNH là phần chính đáp ứng nhu cầu cấp thiết của
khách hàng. Thực chất đây chính là những lợi ích chủ yếu mà khách hàng tìm
kiếm ở ngân hàng. Đó là giá trị cốt yếu mà ngân hàng cần bán cho khách
hàng. Mỗi SPNH khác nhau, phần cốt lõi sẽ khác nhau và đáp ứng được nhu
cầu cấp thiết khác nhau của khách hàng.
Vì vậy, nhiệm vụ chính của nhà thiết kế SPNH là phải xác định được
nhu cầu cần thiết của khách hàng đối với từng sản phẩm để từ đó thiết kế
phần cốt lõi của sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu chính yếu nhất của
khách hàng – cái mà khách hàng cần tìm kiếm từ ngân hàng.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

9
SƠ ĐỒ: BA CẤP ĐỘ SẢN PHẨM NGÂN HÀNG









- Cấp độ thứ hai: Phần sản phẩm hữu hình
Phần sản phẩm hữu hình là phần cụ thể của SPNH, là hình thức biểu
hiện như tên gọi, hình thức, biểu tượng, hình ảnh, điều kiện sử dụng. Đây là
căn cứ quan trọng để khách hàng nhận biết, phân biệt, so sánh và quyết định
lựa chọn SPNH.
Các NHTM thường hoàn thiện sản phẩm bằng cách tăng tính hữu hình
của sản phẩm nhằm tạo ra sự khác biệt, tính độc đáo để tăng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.
- Cấp độ thứ ba: Phần sản phẩm bổ sung
Phần sản phẩm bổ sung là phần tăng thêm vào sản phẩm hiện hành
những dịch vụ hay lợi ích khác, bổ sung những lợi ích căn bản cho khách
hàng như phục vụ sau khi mua, bán, nộp rút tiền tự động, thông báo số dư tài
khoản 24/24h/ngày, phụ vụ tại gia, thanh toán qua kênh viễn thông, thông báo
hết thời hạn trái phiếu cho từng khách hàng, chuyển tiền miễn phí,… Chúng
làm hoàn thiện hơn và thỏa mãn được nhiều hơn, tốt hơn nhu cầu, mong
muốn cho khách hàng, tạo sự khác biệt nổi bật so với đối thủ cạnh tranh.



Khuyến mãi
Hình
ảnh
Hình
thức
Điều
kiện

Biểu
tượng
Các dịch vụ bổ sung
Sản phẩm cốt lõi
Sản phẩm hữu hình
Sản phẩm bổ sung
Nhu cầu cấp
thiết của
khách hàng
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

10
Phần sản phẩm bổ sung cũng là yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ của các
ngân hàng vì tính linh hoạt và khả năng phát triển của nó.
3.2. Chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng
Chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ ngân hàng được chia làm bốn giai đoạn:
3.2.1. Thâm nhập thị trường
Thâm nhập là giai đoạn bắt đầu đưa SPDV vào thị trường. Khách hàng chưa
hiểu biết nhiều về SPDV, dẫn đến số khách hàng sử dụng ít, tốc độ bán chậm,
doanh thu thấp trong khi đó chi phí lại cao, đặc biệt là chi phí cho hoạt động
Marketing; nên lợi nhuận thu được ở giai đoạn này thấp, thậm chí không có.
Mặt khác, do số lượng khách hàng sử dụng SPDV ít nên ngân hàng
không khai thác hết hiệu quả của quy mô. Tuy nhiên, trong giai đoạn thâm
nhập thị trường, ngân hàng có lợi thế trong cạnh tranh, thuận lợi trong việc
thu hút và phát triển khách hàng mới.
3.2.2. Tăng trưởng - phát triển
Trong giai đoạn này, khách hàng đã quen sử dụng SPDV của ngân hàng
và cũng nhận thấy được tính ưu việt của SPDV mới, nên số lượng khách hàng
tăng; nhu cầu về SPDV tăng nhanh. Ngân hàng mở rộng thị trường tới các

nhóm khách hàng tiềm năng, tốc độ tiêu thụ nhanh, lợi nhuận thu được tăng
và có thể đạt mức cực đại. Chi phí Marketing cao nhưng tỷ trọng trong tổng
chi phí giảm.
Trên thị trường xuất hiện những đối thủ mới, tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ. Trong giai đoạn này, các ngân hàng thường tập trung vào việc hoàn thiện
tạo thêm những nét mới của SPDV. Bởi ngân hàng đang đứng trước nguy cơ
những ngân hàng đi sau sẽ khắc phục được những hạn chế của SPDV để đưa
ra những sản phẩm mới, hoàn thiện hơn, có sức cạnh tranh cao hơn.
3.2.3. Chín muồi - Bão hòa
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

11
Đây là giai đoạn khách hàng không còn ưa thích sử dụng các SPDV
ngân hàng bởi những hạn chế của nó. Mặt khác, các nhóm khách hàng tiềm
năng đã được khai thác mà nhu cầu hiện tại của họ lại rất cao. Do vậy, doanh
thu của ngân hàng về SPDV chững lại, có xu hướng giảm, lợi nhuận ngân
hàng không ổn định và bắt đầu giảm sút.
Trong giai đoạn này, ngân hàng thường tập trung vào việc duy trì vị thế của
SPDV trên thị trường và cố gắng làm chậm tốc độ suy giảm bằng việc giảm phí,
lãi, cải tiến sản phẩm dịch vụ bằng cách phát triển sản phẩm bổ sung, đẩy mạnh
các hoạt động khuyến mãi nhằm tạo ra sự khác biệt của SPDV.
3.2.4. Suy thoái
Đây là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ sống sản phẩm, khi nhu cầu của
khách hàng về SPDV giảm mạnh. Khách hàng không còn ưa chuộng SPDV
nữa, bởi sản phẩm không còn đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của họ.
Vị thế của SPDV trên thị trường và số lượng khách hàng sử dụng
SPDV giảm nhanh nên dẫn đến doanh thu và lợi nhuận cũng giảm theo. Ngân
hàng thường phải cân nhắc kỹ lưỡng về khả năng duy trì SPDV đó trên thị
trường. Đồng thời, ngân hàng phải chuẩn bị đưa ra những SPDV mới với tư

cách dự trữ, thay thế nhưng có sức mạnh hơn để giữ vững thị trường hiện tại
và mở rộng thị trường mới.
Có thể tóm tắt chu kỳ sống của sản phẩm ngân hàng qua bảng sau đây:
Giai đoạn
Đặc điểm
Triển khai
Tăng
trƣởng
Chín muồi
Suy thoái
Khối lƣợng tiêu thụ
Chậm
Tăng mạnh
Tăng chậm
Suy giảm
Lợi nhuận
Yếu
Tối đa
Giảm dần
Yếu
Chi phí
Cao
Trung bình
Cao
Giảm
Khách hàng
Tiên phong
Quen – biết
Quen – biết
Cổ truyền

Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

12
Cạnh tranh
Giới hạn
Tăng lên
Mạnh
Giảm
II. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM NGÂN HÀNG – XU HƢỚNG TẤT YẾU CỦA NGÂN
HÀNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
1. Tính tất yếu của phát triển SPNH đối với các NHTM
Phát triển SPNH xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng gia tăng.
Những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, quá trình tự do hóa,
toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, đã làm cho sự phát triển của các ngân hàng
tùy thuộc vào việc giành giật thị trường giữa các đối thủ. Mặt khác, hệ thống
ngân hàng đa quốc gia đang mở rộng đến các thị trường mới một cách mạnh
mẽ, làm tăng tốc độ hội nhập vào thị trường tài chính, ngân hàng quốc tế.
Đồng thời, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt
về cả mức độ, phạm vi và cả về SPDV cung ứng trên thị trường.
Thứ hai: sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường hoạt động kinh doanh.
Môi trường kinh doanh của ngân hàng bao gồm nhiều yếu tố, trong đó
các yếu tố cơ bản như môi trường địa lý, dân số, kinh tế, văn hóa – xã hội, kỹ
thuật – công nghệ và chính trị – pháp luật. Trong đó, chỉ có môi trường địa lý
là yếu tố tương đối ổn định, những yếu tố còn lại luôn biến động, được coi là
những “biến tố”. Đặc biệt, khi các nền kinh tế xích lại gần hơn, việc gia nhập
các tổ chức kinh tế quốc tế như: WTO, AFTA,… đã làm biến động mạnh mẽ
môi trường kinh doanh. Sự thay đổi của môi trường kinh doanh đã tạo ra “cơ
hội” và những “thách thức” đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng nói

chung và chính sách phát triển SPNH nói riêng.
Thứ ba: do nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao trong sử
dụng SPNH.
Có thể thấy rằng, nhu cầu của khách hàng hiện nay hết sức đa dạng,
phức tạp và yêu cầu, đòi hỏi của họ ngày càng cao trong việc lựa chọn sử
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

13
dụng SPNH. Khách hàng đòi hỏi từ phía ngân hàng những sản phẩm chất
lượng cao với nhiều tiện ích và lợi ích. Như vậy, nhu cầu cao của khách hàng
vừa là thách thức vừa là những căn cứ quan trọng đối với các ngân hàng trong
việc hoàn thiện, phát triển sản phẩm mới.
2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến việc phát triển SPNH
2.1. Các nhân tố chủ quan
- Chiến lược và quan điểm kinh doanh của NHTM
Trong mỗi giai đoạn, các ngân hàng đều xây dựng chiến lược kinh
doanh, kế hoạch hành động tổng thể của mình. Từ chiến lược tổng thể mà đề
ra các chiến lược cụ thể. Phát triển sản phẩm là một trong các chiến lược cụ
thể của ngân hàng được hình thành và triển khai từ chiến lược tổng thể kinh
doanh của ngân hàng.
Từ chiến lược kinh doanh, ngân hàng sẽ đề ra định hướng và mục tiêu
hoạt động của mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, khi ngân hàng xác định chiến lược
tổng thể là trở thành một ngân hàng đa năng tổng hợp thì ngân hàng sẽ đề ra
kế hoạch chi tiết cho việc phát triển từng loại SPNH. Nếu ngân hàng xác định
chiến lược trong giai đoạn này là tập trung vào việc mở rộng mạng lưới và đa
dạng hóa sản phẩm thì để đạt được mục tiêu này, các mục tiêu khác như đạt
lợi nhuận, hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm có thể không đạt
được.
Quan điểm kinh doanh của NHTM cũng ảnh hưởng đến việc phát triển

sản phẩm của ngân hàng. Nếu NHTM đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết thì
các chính sách như hoàn thiện sản phẩm sẽ được khuyến khích và tạo điều
kiện. Ngược lại, nếu quan điểm kinh doanh lấy an toàn là chính thì việc phát
triển sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm lại không được coi trọng.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

14
Như vậy, có thể thấy rằng, chiến lược và quan điểm kinh doanh của
NHTM là yếu tố quyết định đến hoạt động kinh doanh của NHTM trong từng
thời kỳ và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển SPNH.
- Năng lực tài chính của NHTM
Năng lực tài chính của NHTM ảnh hưởng đến việc chi phối giới hạn tối
đa về cho vay, dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán, đầu tư đổi mới công nghệ
ngân hàng, mở rộng mạng lưới, … Nếu năng lực tài chính của NHTM lớn thì
rất thuận lợi cho việc mở rộng địa bàn hoạt động, tạo điều kiện làm việc, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Như vậy, năng lực tài
chính của NHTM là yếu tố tiền đề, điều kiện cơ sở để phát triển SPNH.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên của ngân hàng
Do quá trình cung ứng SPNH có sự tham gia trực tiếp của nhân viên
ngân hàng, bởi vậy nhân viên ngân hàng quyết định đến chất lượng của SPNH
cung cấp. Nhân viên ngân hàng quyết định đến uy tín, hình ảnh của ngân
hàng. Sự tự tin, tính chuyên nghiệp, thái độ cư xử tốt đối với khách hàng
chính là sức hút đối với khách hàng, đồng thời cũng là một phần trong quy
trình hoàn thiện SPNH. Cũng chính đội ngũ nhân viên ngân hàng là nguồn ý
tưởng phát triển sản phẩm mới cho ngân hàng. Có thể nói rằng, đội ngũ cán
bộ nhân viên ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng nói
chung và của quá trình phát triển SPNH nói riêng.
- Trình độ công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh

doanh và việc phát triển sản phẩm của ngân hàng. Ngày nay, với sự hỗ trợ
hiệu quả của công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng thể hiện ở mức độ tập
trung thông tin, khả năng phân tích, xử lý thông tin, khả năng chi phối, kiểm
soát đối với hoạt động của các bộ phận tác nghiệp….Như vậy, trình độ công
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

15
nghệ ngân hàng quyết định đến chất lượng sản phẩm, đến việc phát triển
những sản phẩm mới.
2.2. Các nhân tố khách quan
- Nhân tố khách hàng
Khách hàng là người quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
NHTM. Khách hàng của NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển
SPNH. Là yếu tố tham gia vào quá trình cung ứng SPNH, do đó trình độ, sự
am hiểu nghiệp vụ ngân hàng quyết định đến chất lượng SPNH. Sự thay đổi
đòi hỏi về nhu cầu các SPNH cũng chính là căn cứ, cơ sở để các ngân hàng
tập trung hoàn thiện sản phẩm đã có và phát triển sản phẩm mới.
Mặt khác, thói quen, niềm tin và tâm lý của khách hàng ảnh hưởng
mạnh mẽ đến phát triển các SPNH. Hiện nay, người dân Việt Nam có xu
hướng thích sử dụng tiền mặt; niềm tin vào độ ổn định, an toàn của ngân hàng
rất hạn chế. Đây là nhân tố tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển sản phẩm của
các NHTM Việt Nam.
- Môi trường kinh tế
Tình hình và sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế có tác
động to lớn đến sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói riêng. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái thì nhu cầu đối với sản
phẩm tài chính cũng suy giảm. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ là cơ
hội tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tình hình kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân

hàng của từng quốc gia. Xu hướng toàn cầu hóa thúc đẩy các bộ phận nghiệp
vụ ngân hàng quốc tế phát triển. Do vậy, sự thành công hay thất bại của chiến
lược kinh doanh ngân hàng nói chung và việc phát triển SPNH nói riêng phụ
thuộc rất nhiều vào tình hình kinh tế trong nước, khu vực và toàn cầu.
- Môi trường văn hóa xã hội
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

16
Hành vi của khách hàng và đối thủ cạnh tranh của ngân hàng bị chi
phối khá nhiều bởi các yếu tố văn hóa. Trình độ học vấn, tâm lý và thói quen
của người dân sẽ ảnh hưởng tới hành vi và nhu cầu sản phẩm của ngân hàng.
Ngân hàng phải nắm bắt được tâm lý tiêu dùng của xã hội nói chung, của khu
vực dân cư và nhóm khách hàng.
- Môi trường pháp luật
Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào đều phải thực hiện trên cơ sở một môi
trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ. Kinh doanh ngân hàng là ngành phải chịu sự
giám sát chặt chẽ bởi quy định của pháp luật. Việc phát triển SPNH chịu ảnh
hưởng rất mạnh mẽ của môi trường pháp luật. Chẳng hạn, việc đưa vào kinh
doanh một sản phẩm của một NHTM nào đó phải có sự cho phép của Ngân
Hàng Nhà Nước.
- Môi trường công nghệ – kỹ thuật
Sự thay đổi về công nghệ có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và xã
hội. Nó làm thay đổi phương thức sản xuất, cách thức tiêu dùng và cả phương
thức trao đổi của xã hội nói chung cũng như của ngân hàng nói riêng. Phương
thức trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng trên thị trường rất nhạy cảm với
các tiến bộ về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trên thực tế, những
thay đổi của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Công nghệ mới cho phép ngân hàng đổi mới không chỉ
quy trình nghiệp vụ mà còn đổi mới cả cách thức phân phối, đặc biệt là phát

triển sản phẩm mới.
3. Nội dung về phát triển SPNH
3.1. Hoàn thiện SPNH
Mặc dù các thuộc tính cơ bản của một SPNH đã được xác định ngay từ
đầu, nhưng trong quá trình sử dụng, các ngân hàng luôn tìm cách bổ sung các
thuộc tính mới nhằm ngày càng hoàn thiện nó. Quá trình cung ứng SPNH có
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

17
sự tham gia trực tiếp của khách hàng. Do vậy, quan niệm về một SPNH hoàn
thiện phải được xem cả ở góc độ khách hàng và ngân hàng.
Thứ nhất, theo quan niệm của khách hàng, một SPNH hoàn thiện là sản
phẩm đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng.
SPNH hoàn thiện phải đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích.
Do vậy, khi đánh giá một SPNH hoàn thiện, khách hàng thường dựa vào các
tiêu chí sau:
- Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm ít
và đơn giản.
- Tốc độ xử lý nhanh.
- Mức độ chính xác cao.
- Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn.
- Thái độ phục vụ tốt.
- Trình độ công nghệ hiện đại.
Thứ hai, theo quan niệm của ngân hàng, một SPNH hoàn thiện phải có
hai điều kiện:
- Trước hết, phải là những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
hơn đối thủ cạnh tranh.
- Tiếp đó, sản phẩm hoàn thiện phải là sản phẩm đem lại lợi nhuận cho
ngân hàng.

Điều này đặt ra cho các ngân hàng khi hoàn thiện sản phẩm thường tập
trung vào các hướng sau:
- Làm cho việc sử dụng SPNH ngày càng trở nên dễ dàng, thuận tiện, hấp
dẫn hơn và đem lại cho khách hàng những giá trị và tiện ích mới bằng cách hoàn
thiện quy trình nghiệp vụ, đơn giản thủ tục và điều kiện sử dụng sản phẩm.
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

18
- Tăng cường việc hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm và thông
tin kịp thời cho khách hàng về những đổi mới có lợi cho khách hàng.
- Bổ sung những tính năng mới. Thực chất là tăng giá trị sử dụng của
sản phẩm. Thay vì một sản phẩm chỉ đáp ứng được một nhu cầu, nay một sản
phẩm có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu cho khách hàng. Đây là cách thức
hoàn thiện sản phẩm được các ngân hàng sử dụng phổ biến hiện nay.
3.2. Phát triển SPNH mới
Sản phẩm mới của ngân hàng được hiểu là những sản phẩm lần đầu tiên
được đưa vào danh mục sản phẩm kinh doanh của ngân hàng. Theo cách hiểu
này, sản phẩm mới trong lĩnh vực ngân hàng gồm hai loại:
- Sản phẩm mới hoàn toàn
Đây là những sản phẩm mới đối với cả ngân hàng và thị trường. Đưa ra
thị trường loại sản phẩm này, thời gian đầu ngân hàng sẽ không phải đối mặt
với cạnh tranh và có thể tạo vị thế hình ảnh trên thị trường. Tuy nhiên, ngân
hàng phải chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro trong đầu tư, vì số
lượng vốn đầu tư lớn, thiếu kinh nghiệm, khách hàng chưa quen sử dụng sản
phẩm mới, trong khi đó đối thủ dễ dàng sao chép vì SPNH không được bảo
hộ bản quyền.
- Sản phẩm chỉ mới đối với ngân hàng, không mới đối với thị trường
Đây là loại sản phẩm sao chép lại của các ngân hàng khác nên đã có sự
cạnh tranh trên thị trường, thu nhập tiềm năng của sản phẩm bị hạn chế. Tuy

nhiên, phát triển sản phẩm mới loại này, ngân hàng có thể tận dụng lợi thế của
người đi sau. Vì vậy, phát triển loại sản phẩm mới này được coi là xu thế phát
triển của sản phẩm mới trong các NHTM hiện nay.
Việc phát triển sản phẩm mới trong các ngân hàng thường được thực
hiện theo quy trình 5 bước:
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

19
Bước 1: Xây dựng chiến lược sản phẩm mới, bao gồm 3 vấn đề
chính:
- Xác định các mục tiêu của phát triển sản phẩm mới.
- Định hướng cho việc hình thành các ý tưởng phát triển sản
phẩm mới.
- Xác định các nội dung của sản phẩm mới.
Bước 2: Tập hợp các ý tưởng hình thành sản phẩm mới. Các ý tưởng
này có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:
- Xuất phát từ đội ngũ nhân viên nghiệp vụ có trình độ, kinh nghiệm.
- Từ nghiên cứu thị trường và thông tin thu nhập từ khách hàng.
- Sao chép từ các ngân hàng khác.
Bước 3: Lựa chọn ý tưởng:
Các ý tưởng sản phẩm mới của ngân hàng được đánh giá dựa
trên mức độ đạt được của các tiêu thức sau:
- Góp phần thực hiện các mục tiêu của ngân hàng, đặc biệt là
tăng hình ảnh, vị thế của ngân hàng.
- Tăng khả năng cạnh tranh.
- Tạo được sự khác biệt của sản phẩm so với đối thủ.
- Đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Dựa trên các tiêu chí trên, ngân hàng đánh giá xếp hạng ý tưởng, từ đó
quyết định lựa chọn các ý tưởng sản phẩm mới tối ưu, phù hợp với nhu cầu

của khách hàng và khả năng thực tế của ngân hàng.
Bước 4: Thử nghiệm và kiểm định
Để đảm bảo sự thành công của sản phẩm mới, các ngân hàng thường
tiến hành thử nghiệm và kiểm định sản phẩm mới trên một nhóm khách hàng
để xem xét phản ứng của họ. Đây là bước rất quan trọng vì trên cơ sở phản
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

20
ứng của khách hàng, ngân hàng có thể điều chỉnh kịp thời, đảm bảo sự phù
hợp của sản phẩm trước khi tung nó vào thị trường.
Thực tế, việc thử nghiệm sản phẩm của các ngân hàng thường được
tiến hành một cách bí mật và trong khoảng thời gian ngắn, bởi vì thử nghiệm
dễ báo động cho các đối thủ và ý tưởng về sản phẩm mới dễ bị sao chép, bắt
chước nhanh chóng.
Bước 5: Tung sản phẩm mới ra thị trường
Sau khi thử nghiệm, các ngân hàng thường đánh giá khả năng thành công
của sản phẩm mới. Trên cơ sở đó mới quyết định tung sản phẩm vào thị trường.
Đây là giai đoạn cuối cùng và quan trọng nhất vì nó là giai đoạn kiểm định thực
sự phản ứng của thị trường và khách hàng về kết quả của sản phẩm mới.
Do vậy, ở giai đoạn này, các nhà ngân hàng thường tập trung các điều
kiện đảm bảo sức sống cho sản phẩm mới như: lựa chọn vùng, khu vực thị
trường, thậm chí chi nhánh đầu tiên cung ứng sản phẩm mới. Đồng thời, tạo
môi trường thuận lợi tiếp nhận sản phẩm thông qua các hoạt động như một
chiến dịch khuyếch trương sản phẩm mới trên nhiều phương diện, họp báo
giới thiệu sản phẩm, khuyến mãi, kích thích khách hàng sử dụng sản phẩm
ngân hàng đầu tiên, …

III. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình chung về phát triển SPNH tại các NHTM Việt Nam hiện nay

- Sản phẩm ngân hàng hầu hết là các sản phẩm truyền thống, tính tiện
lợi chưa cao, chất lượng dịch vụ kém, trong đó tín dụng là hoạt động kinh
doanh chủ yếu của các tổ chức tín dụng.
+ Về hoạt động huy động nguồn vốn:
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

21
Cho đến nay, trên thị trường dịch vụ ngân hàng có khoảng 100 định chế
tài chính huy động vốn, nhưng thị phần huy động hàng năm của khối NHTM
Nhà nước vẫn chiếm gần 80%, NHTM cổ phần khoảng 10%, với gần 900 quỹ
tín dụng nhân dân trung ương và cơ sở nhưng thị phần chỉ chiếm 0,8% đến
1%, còn công ty cho thuê tài chính chỉ chiếm 0,2% đến 0,3%.
+ Về hoạt động cho vay:
Các ngân hàng hiện nay bắt đầu hướng sang những phân đoạn thị
trường mới, đặc biệt là thị trường cho vay tiêu dùng như thị trường cho vay
mua ô tô trả góp với sự tham gia của những ngân hàng như NHTM cổ phần
Quân Đội (MB), Vietcombank, VIB, Techcombank, ACB, VPBank,
Sacombank,…
Khách hàng chủ yếu của các NHTM trong nước là các doanh nghiệp
Nhà nước. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này còn yếu, do vậy nguy cơ
thua lỗ, phá sản và giải thể là rất lớn. Chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tồn tại của các tổ chức tín dụng.
Mặt khác, thách thức lớn nhất với các NHTM Việt Nam về lĩnh vực
cho vay là tình trạng dư nợ quá nhanh so với năng lực tài chính của mình,
trong khi đó khả năng trích phòng ngừa rủi ro là rất hạn chế.
+ Về hoạt động thanh toán:
Dịch vụ thanh toán của các tổ chức tín dụng ngày càng phát triển theo
sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Dịch vụ thanh toán được thực hiện
thông qua các NHTM chủ yếu bao gồm: mở tài khoản thanh toán; phát hành,

đại lý thanh toán thẻ và thanh toán quốc tế.
 Về mở tài khoản thanh toán:
Cùng với việc đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đi vào
hoạt động từ tháng 5/2002, ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào hệ
thống và mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Các ngân hàng
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

22
cũng đang cố gắng mở rộng hệ thống tài khoản giao dịch, đặc biệt là tài khoản
giao dịch cá nhân. Những hình thức khuyến mại, giảm giá thậm chí miễn phí
mở tài khoản của các ngân hàng đã được đưa ra chào mời. Tính đến nay đã có
1,3 triệu tài khoản cá nhân được mở, tăng 69% so với năm 2003. Do việc mở
rộng dịch vụ mở tài khoản, đã nâng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt
lên 81% năm 2005.
 Phát hành, đại lý thanh toán thẻ:
Dịch vụ thẻ du nhập vào nước ta từ những năm 90 của thế kỷ 20, Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) thực hiện đại lý thanh toán các loại thẻ
quốc tế như: Visa, MasterCard, JCB, AMEX, sau đó phát hành thẻ tín dụng
quốc tế (1996). Các NHTM Nhà nước khác và NHTM cổ phần từng bước
tham gia vào thị trường này nhưng thị phần thẻ của VCB vẫn chiếm tới 44%
(năm 2004).
Các ngân hàng liên tục đưa ra những sản phẩm thẻ mới của mình như:
Techcombank với thẻ F@st Access, F@st Advance, F@st Saving; ICB với
thẻ Incombank Cashcard, thẻ ATM Gold Card và ATM S-Card; ACB với sản
phẩm ACB Visa Electron, ACB – Mastercard Electronic, ACB e-card bên
cạnh các thẻ tín dụng nội địa như Mai Linh, Phước Lộc Thọ, Sài Gòn Coop,
ACB cùng với phối hợp với HSBC cho ra đời “Thẻ Tín Dụng Quốc Tế
Vàng”; Eximbank với Eximbank-Visa; VCB với thẻ Connect 24, các loại thẻ
tín dụng quốc tế của Mastercard và của American Express được giao dịch trên

hệ thống ATM, v.v…
Thị trường dịch vụ thẻ đã có sự đã có sự liên kết giữa các nhà cung
ứng dịch vụ thẻ qua hệ thống liên kết Banknet, qua đó đã giải quyết một phần
yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật và tiết kiệm vốn đầu tư.
 Hoạt động thanh toán quốc tế:
Đề tài: "Thực trạng và giải pháp phát triển sản phẩm ngân hàng tại NH ĐT&PT VN"
Đỗ Thị Phương – A7 – K41C- KTNT Khóa Luận Tốt Nghiệp

23
Trong hoạt động này có sự sụt giảm thị phần thanh toán quốc tế của
những ngân hàng vốn có ưu thế lớn trong lĩnh vực này như VCB, ICB và sự
vươn dậy mạnh mẽ của các ngân hàng khác như BIDV, Agribank và đặc biệt
là khối các NHTM cổ phần cũng như ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng
cũng không ngừng nâng chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế với việc ngày
càng có nhiều ngân hàng nhận được giải thưởng ngân hàng hoạt động xuất sắc
trong lĩnh vực thanh toán quốc tế của các ngân hàng lớn trên thế giới như Citi
Bank, Bank of New York, Standard Chartered Bank. Ngoài các ngân hàng có
truyền thống về thanh toán quốc tế như VCB, ICB đã xuất hiện nhiều gương
mặt mới được nhận các giải thưởng này như Agribank, Techcombank,
Sacombank, EAB và VIB.
+ Bên cạnh việc mở rộng thị trường thẻ, thị trường kiều hối, các
NHTM Việt Nam cũng đang nghiên cứu, mở rộng hoạt động sang những dịch
vụ, sản phẩm khác: như dịch vụ lưu ký chứng khoán, dịch vụ cho thuê vân
hành, dịch vụ môi giới chứng khoán (thông qua việc thành lập các công ty
chứng khoán), dịch vụ quản lý nợ tài sản…. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại
cũng đang được tích cực triển khai như dịch vụ Telebank của Techcombank;
dịch vụ bán lẻ điện tử của Agribank; dịch vụ VCB-online, dịch vụ thương mại
điện tử Vietcombank Cyber Bill Payment của VCB Một số ngân hàng đang
bắt đầu thực hiện những nghiệp vụ mới như nghiệp vụ quyền chọn, kinh
doanh địa ốc.

- Giá cả dịch vụ ngân hàng:
Giá cả của SPNH chính là lãi và phí. Ở Việt Nam trong thời gian qua,
lãi suất tiền gửi đã được tự do hóa theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Lãi suất cho vay thương mại bằng VND chuyển từ việc áp dụng lãi suất cơ
bản cộng biên độ (từ 5/8/2000) sang việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận

×