Tải bản đầy đủ (.doc) (195 trang)

Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của trung quốc và gợi ý đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.23 KB, 195 trang )

Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy mạnh
mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 20 năm (1979-2003) thực hiện cải
cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu sắc.Về nhiều mặt,
Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng
đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong
lĩnh vực ngoại thương, trải qua gần một phần tư thế kỷ, ngoại thương Trung Quốc
đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất
nhập khẩu (năm 1978) đến nay Trung Quốc đã là cường quốc ngoại thương lớn thứ
5 trên thế giới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 620,8 tỷ USD năm 2002
(tăng gấp 30 lần so với năm 1978). Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung
Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại thương Trung
Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau
sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế
giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên,
dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như
Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến
hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những
1
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với
những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính
Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương
Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết.
Với lý do trên, em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Một số gợi ý đối
với hoạt động ngoại thương Việt Nam từ bài học kinh nghiệm của Trung
Quốc”. Bản khóa luận này chủ yếu đi sâu vào phân tích các bài học kinh nghiệm


thành công cũng như chưa thành công trong phát triển ngoại thương của Trung
Quốc trong tiến trình mở cửa và cải cách kinh tế từ năm 1979 đến nay, để trên cơ
sở đó tham khảo một cách có phê phán và chọn lọc những kinh nghiệm có tính khả
thi, phù hợp với thực tiễn ngoại thương Việt Nam, đưa ra những gợi ý nhằm thúc
đẩy sự phát triển của ngoại thương đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Khóa luận được xây dựng dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phân
tích, phương pháp thống kê và so sánh.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục bản khóa
luận gồm có 3 chương:
Chương I: Tình hình ngoại thương Trung Quốc từ năm 1979 đến nay
Chương II: Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương
của Trung Quốc
Chương III: Một số gợi ý đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam từ bài
học kinh nghiệm của Trung Quốc
2
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Lê Thái Thùy , người đã tận tình hướng
dẫn em trong việc hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em cũng xin được gửi lời
cảm ơn tới các thầy cô giáo, bạn bè, Thư viện trường Đại học Ngoại thương, Viện
kinh tế thế giới, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ, tạo điều kiện để
khóa luận được hoàn thành.
Hà Nội, tháng 12/2014
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Mai Anh
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG TRUNG QUỐC TỪ 1979 ĐẾN
NAY
I. VÀI NÉT VỀ ĐẤT NƯỚC TRUNG QUỐC
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Trung Quốc là một đất nước có diện tích rộng lớn nằm ở nửa phía Bắc của
Đông bán cầu, phía Đông Nam của đại lục Á-Âu, phía Đông của Châu Á và phía
Tây Thái Bình Dương, có đường biên giới đất liền dài khoảng 22.000 km tiếp giáp
với 15 quốc gia, có vùng biển rộng lớn với tuyến bờ biển dài và rất nhiều đảo,
3
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
đường biên giới trên biển dài khoảng 18.000 km. Diện tích Trung Quốc là 960 vạn
km
2
, là nước lớn nhất Châu Á, thứ 3 trên thế giới về diện tích lãnh thổ [22].
Với vị trí địa lý rất thuận lợi cùng với diện tích đất đai rộng lớn đã tạo ra cho
Trung Quốc những điều kiện dễ dàng phát triển mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là
quan hệ mậu dịch với các nước và khu vực lớn ở Châu Âu, Châu Mỹ cũng như
Đông Nam Á, Australia và Trung Á.
Địa hình Trung Quốc rất đa dạng bao gồm đồng bằng, gò đồi, cao nguyên,
bồn địa, sơn địa, hoang mạc, sa mạc xen kẽ nhau, chủ yếu là địa hình đồi núi,
chiếm 70% diện tích đất đai trong đó gần 1/3 ở độ cao trên 300m, diện tích đất
trồng trọt chỉ khoảng 100 triệu ha, độ phì nhiêu khá cao.
Điều kiện khí hậu rất ưu việt nhưng tương đối khác nhau giữa các vùng, trải
rộng từ Nam tới Bắc là các vùng khí hậu khác nhau: vượt nhiệt đới, nhiệt đới, á
nhiệt đới, noãn ôn đới, hàn nhiệt đới. Lượng mưa dồi dào, bình quân hàng năm ở
Trung Quốc là 629mm. Điều kiện nhiệt độ và lượng nước phân phối hợp lý tạo ra
điều kiện cho việc phát triển nông nghiệp, như nghề trồng lúa, trồng bông, các loại
hoa quả và nghề cá.
Trung Quốc là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú,
trong đó lượng tài nguyên nước đứng thứ nhất thế giới. Nguồn tài nguyên năng
lượng cũng rất lớn, trữ lượng than thăm dò được là 700 tỷ tấn, đứng thứ nhất thế
giới. Sản lượng dầu thô đứng thứ năm thế giới. Tài nguyên khoáng sản của Trung
Quốc tương đối toàn diện và đồng bộ, 150 loại khoáng sản được sử dụng trên thế
giới đều được phát hiện ở Trung Quốc, trong đó trữ lượng thăm dò được của hơn

4
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
20 loại như: than, vonfram, sitilium, đồng, chì, kẽm, vanađium, titan đứng hàng
đầu thế giới. Rừng của Trung Quốc cũng đứng đầu thế giới về chủng loại gỗ với
hơn 2500 loại trong đó có 500 loại cây quý hiếm và 50 loại cây đặc chủng cùng
nhiều loại động vật quý hiếm [22].
2. Dân cư
Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới, dân số Trung Quốc tính đến
cuối năm 2002 có 1.284.530.000 người [22]. Trung Quốc là một trong những quốc
gia có mật độ dân cư cao nhất và phân bố không đồng đều; mật độ trung bình là
125 người/km
2
; dao động từ 1,5 người ở vùng tự trị Tây Tạng đến 400-500
người/km
2
ở các vùng đồng bằng phía Đông, nhiều nơi lên đến 1000-1500
người/km
2
như ở vùng Bắc và Đông Bắc [7].
Tiềm năng về nguồn nhân lực của Trung Quốc là rất lớn và lâu dài. Số người
trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 61% tổng dân số, trong số này có 60% là lao
động nông nghiệp. Năm 1990, Trung Quốc có lực lượng lao động là 756, 6 triệu
người (từ 15-64 tuổi). Theo tính toán, trung bình mỗi năm Trung Quốc có thêm 21
triệu người bước vào độ tuổi lao động [7].Nguồn nhân lực dồi dào này cùng với
truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và công tác giáo dục ở đây rất được coi
trọng nên chất lượng lao động ngày càng tăng lên. Đó là tài sản vô giá và là nhân tố
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước này.
3. Đặc điểm chính trị - xã hội
Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày
01/10/1949. Sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập, Đảng cộng sản Trung Quốc

5
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
đã lãnh đạo Cách mạng Trung Quốc đi vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế
đất nước. Trong giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, Trung Quốc đã có nhiều va vấp, thất bại.
Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 Đảng cộng sản Trung Quốc (1978) đã đề ra
đường lối cải cách mở cửa “Một trung tâm, hai điểm cơ bản” (xây dựng kinh tế là
trung tâm, 2 điểm cơ bản là kiên trì cải cách mở cửa và kiên trì 4 nguyên tắc: Con
đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng, tư
tưởng Mao Trạch Đông). Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lý luận “Xây dựng xã hội chủ
nghĩa mang màu sắc Trung Quốc” với nội dung cơ bản là “Giải phóng tư tưởng,
thực sự cầu thị” tức là đi theo chủ nghĩa Mác nhưng phải xuất phát từ thực tế Trung
Quốc. Từ đó đến nay, Trung Quốc luôn luôn kiên trì công cuộc cải cách mở cửa,
xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, đưa đất nước chuyển sang
một thời đại mới.
Nhìn chung, tình hình chính trị-xã hội Trung Quốc trong những năm gần đây
ổn định, tuy trong nước và quốc tế có nhiều biến động nhưng Đảng cộng sản Trung
Quốc vẫn giữ vững được quyền lãnh đạo. Nội bộ ban lãnh đạo đã quán triệt quan
điểm xuất phát từ đại cục, tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Bên cạnh
đó, về chính trị-xã hội, Trung Quốc cũng còn nổi cộm 2 vấn đề lớn, đó là: 1- Tệ
tham nhũng, buôn lậu, vấn đề việc làm, chênh lệch giàu nghèo; 2- Trung Quốc
đang bước vào giai đoạn quyết định của cải cách, thời kỳ then chốt của phát triển ,
có những biến đổi sâu sắc, đan xen về thành phần kinh tế, lợi ích kinh tế, lối sống,
hình thức tổ chức xã hội đặc biệt là sự thay đổi về kết cấu giai tầng, tỷ lệ nòng
6
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
cốt (giai cấp công nhân và nông dân) trong Đảng cộng sản Trung Quốc cũng đã
thay đổi, đòi hỏi phải đổi mới công tác chính trị tư tưởng và công tác xây dựng
Đảng.
4. Kinh tế Trung Quốc sau hơn 20 năm cải cách mở cửa

* Về tăng trưởng kinh tế
Từ năm 1978, khi bắt đầu cải cách, Trung Quốc đi vào con đường hội nhập
với thế giới và khu vực và đã thu được thành công đáng kể.
Trước cải cách, từ 1952 đến 1978, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của
kinh tế Trung Quốc là 4,4%, thấp hơn bình quân hàng năm của thế giới (4,52%)
[15]. Từ năm 1978 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Trung
Quốc là 7,6%, cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới. Giai đoạn 1992-
1997, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng ngoạn mục hơn nữa với tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân đạt 11%/ năm. Trong đó, GDP Trung Quốc năm 1996 lớn hơn
GDP của ASEAN khoảng 15%, bằng 3% GDP của thế giới, 23% kinh tế Nhật,
12% kinh tế Mỹ [22]. Nhiều nhà quan sát xem sự tăng trưởng này là thần kỳ, đặc
biệt là khi so sánh với các nước xã hội chủ nghĩa cũ trong lúc các này trải qua sự
suy thoái kinh tế trầm trọng trong suốt giai đoạn từ đầu đến giữa thập niên 90.
Trong những năm 1997-1999, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực,
nền kinh tế Trung Quốc cũng chững lại, và có dấu hiệu suy giảm. Tuy nhiên, ngay
sau đó Trung Quốc đã lấy lại được xu thế tăng trưởng.
Năm 2000 là năm cuối của kế hoạch năm năm phát triển kinh tế xã hội lần thứ
chín ( 1996-2000), cũng là năm đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong
7
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
nền kinh tế Trung Quốc. Với những cố gắng gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO), tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung cải cách xí nghiệp quốc doanh, thúc đẩy
phát triển khoa học công nghệ, cải cách cơ bản về nông nghiệp và mở rộng nhu cầu
nội địa, Trung Quốc đã đảo ngược xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế
kéo dài liên tục trong 3 năm qua. Năm 2000, với GDP đạt 8.928 tỷ NDT - tương
đương 1.072 tỷ USD, với mức tăng GDP là 8,3% (theo Cục thống kê quốc gia)
[33], theo số liệu của IMF con số này là 7,5%, GDP bình quân đầu người đạt 850
USD, Trung Quốc đã hoàn thành vượt mức kế hoạch tăng gấp 4 lần GDP bình quân
đầu người của năm 1980 (200 USD). Với kết quả này, Trung Quốc đã lần đầu tiên
đặt chân vào hàng ngũ các quốc gia có GDP trên 1000 tỷ USD [34].

Bước sang thế kỷ 21, năm 2001 được đánh dấu bằng sự kiện lớn, việc Trung
Quốc chính thức trở thành thành viên thứ 143 của WTO (vào ngày 11 tháng 11)
sau 15 năm nỗ lực và cố gắng là một bước tiến lớn của nền kinh tế Trung Quốc
theo hướng nhất thể hoá kinh tế toàn cầu. Sự kiện này cũng đã mở ra những cơ hội
và thách thức mới đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trong bức tranh ảm đạm của
nền kinh tế thế giới 2001, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu chững lại do bị ảnh hưởng
của sự suy giảm kinh tế Mỹ, Nhật Bản và thế giới song Trung Quốc vẫn duy trì
được mục tiêu tăng trưởng. Theo đánh giá của IMF, năm 2001, GDP của Trung
Quốc đạt 9593,3 NDT tương đương khoảng 1100 tỷ USD, tăng 7,3%, thấp hơn so
với mức kế hoạch đề ra (7,5%).
Năm 2002, GDP của Trung Quốc lần đầu tiên phá mốc 10 nghìn tỷ NDT, đạt
10.239,8 tỷ NDT tương đương 1278 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng là 8% [36].
8
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Nhìn chung, trong nhiều năm gần đây Trung Quốc là nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất thế giới và trong vòng 10 năm tới Trung Quốc có thể vẫn
giữ được tốc độ tăng trưởng này.
Bảng 1: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc và thế giới
Năm Trung Quốc Thế giới
1999 7,1% 2,8%
2000 7,5% 4,7%
2001 7,3% 2,2%
2002 8,0% 2,8%
2003(dự
đoán)
8,6% 3,4%
Nguồn: Đánh giá của IMF và WB, Kinh tế Việt Nam & Thế giới các số 2000-
2001, 2001-2002,2002-2003 ( Chuyên san ra hằng năm của Thời báo Kinh tế Việt
Nam)
Tăng trưởng kinh tế nhanh kéo theo thu nhập bình quân đầu người dân Trung

Quốc tăng lên đáng kể. Từ năm 1978 đến năm 2000, thu nhập thực tế của dân cư
đô thị tăng bình quân 6%/ năm, và thu nhập thực tế của dân cư nông thôn tăng với
mức bình quân 8%/ năm. Năm 2001, con số này lần lượt là 8,5% và 4,2%. Năm
2002, con số tương ứng là 13,4% và 4,8%.Thu nhập của nông dân tăng đã làm số
dân nghèo theo thống kê chính thức giảm mạnh từ mức 33% vào năm 1978 xuống
còn 4% vào năm 1997 và 3% vào năm 2001 [22].
* Về công nghiệp
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 15, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã
đưa ra mục tiêu “biến Trung Quốc thành nước có tỷ lệ lớn dân phi nông nghiệp, có
nền công nghiệp hiện đại và dịch vụ hiện đại”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
9
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
thứ 16 vào tháng 11/2002, nội dung: “Thúc đẩy nâng cấp ưu hoá cơ cấu ngành
nghề, hình thành lên cơ cấu ngành nghề: lấy ngành nghề khoa học kỹ thuật cao,
mới đi đầu, ngành nghề cơ sở và chế tạo làm hỗ trợ…” cũng không nằm ngoài mục
tiêu xây dựng một nền kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp hiện đại. Trong mấy
thập kỷ tiến hành Công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cho tới nay, có thể thấy mục tiêu
của các kỳ đại hội đang từng bước được thực hiện. Trong vòng 20 năm từ 1978-
1997, tốc độ tăng trưởng bình quân của công nghiệp Trung Quốc là 12%, giá trị sản
lượng của các xí nghiệp công nghiệp từ cấp xã trở lên tăng gấp 14 lần [7]. Năm
2000, Trung Quốc đạt sản lượng 163 triệu tấn dầu thô, 131 triệu tấn quặng sắt,
1000 triệu tấn than, 128,5 triệu tấn thép thô, 1355,6 tỷ kwh điện [22]. Đến năm
2001, sản lượng các ngành công nghiệp này đều tăng lên mức 165 triệu tấn dầu thô,
145,4 triệu tấn quặng sắt, 1110 triệu tấn than, 152,66 triệu tấn thép thô và 1478 tỷ
kwh điện [37]. Năm 2002, giá trị gia tăng của công nghiệp cả năm đạt 4593,5 tỷ
NDT, tăng 10,2% so với 2001; giá trị sản phẩm mới cả năm tăng 24% so với 2001;
tổng lượng phát điện cả năm đạt 1654 tỷ Kwh, tăng 11,7% so với năm 2001; sản
lượng than đạt 1380 triệu tấn,tăng 18,9%; sản lượng dầu thô đạt 167 triệu tấn, tăng
1,8% [21].
Cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc cũng có nhiều thay đổi theo hướng tăng

cường phát triển các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao như điện tử, vi tính, ô tô,
công nghệ viễn thông…
Vào giai đoạn chuyển giao thế kỷ, Trung Quốc đã trở thành trung tâm sản xuất
hàng công nghiệp của thế giới, từ các ngành có hàm lượng lao động cao như dệt
10
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
may, giày dép đến các ngành dùng nhiều tư bản và công nghệ cao. Thực tế, Trung
Quốc đã trở thành nước có sản lượng công nghiệp lớn thứ 4 trên thế giới, chỉ
sau có Mỹ, Nhật Bản và Đức.
Hiện nay, Trung Quốc đã chiếm trên 20% sản lượng thế giới trong các ngành
đồ điện gia dụng cao cấp như đầu máy video, DVD, máy điều hoà không khí, tivi
màu… Trong ngành điện thoại di động và máy tính cá nhân, Trung Quốc cũng sản
xuất trên 10% sản lượng thế giới [25].
* Về nông nghiệp
Với dân số 1,3 tỷ người - đông nhất trên thế giới - vấn đề lương thực luôn
luôn đứng ở vị trí được coi trọng hàng đầu đối với người dân Trung Quốc. Cuộc cải
cách do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo, bên cạnh chủ trương thúc đẩy phát triển công
nghiệp, dịch vụ, cũng hết sức quan tâm chú trọng tới phát triển nông nghiệp, từng
bước hiện đại hóa ngành nông nghiệp. Từ một đất nước nghèo đói, lượng lương
thực thực phẩm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, phải thường
xuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm với khối lượng lớn, sau hơn 20 năm, bộ
mặt nông nghiệp Trung Quốc đã có nhiều thay đổi đáng kể. Tổng giá trị sản lượng
nông lâm ngư nghiệp và chăn nuôi của Trung Quốc năm 1997, sau khi trừ đi nhân
tố giá cả, tăng 3,4 lần so với 1978, bình quân mỗi năm tăng 6,6%. Năm 1997,
Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu thế giới về sản lượng nhiều loại sản phẩm như
ngũ cốc (444 triệu tấn), bông (4,6 triệu tấn), hạt có dầu (9,6 triệu tấn), thịt (41,2
triệu tấn) [7]. Trong năm 2000, sản lượng lương thực Trung Quốc đạt 500 triệu tấn
[22]. Năm 2002, GDP nông nghiệp là 1488,3 tỷ NDT, tổng sản lượng lương thực
11
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam

cả năm đạt 457,11 triệu tấn, sản lượng thịt đạt 65,90 triệu tấn. Nền nông nghiệp
không chỉ đảm bảo nhu cầu trong nước mà còn đáp ứng cho xuất khẩu với khối
lượng khá lớn [21].
* Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Liên tục trong các năm gần đây, các nhà đầu tư coi Trung Quốc là một địa chỉ
đầu tư hấp dẫn nhất Châu Á và thực tế là từ năm 1993-2001, Trung Quốc luôn
đứng thứ 2 trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, là nước nhận vốn
đầu tư lớn nhất trong số các nước đang phát triển. Những cải cách môi trường đầu
tư đã đưa lại những kết quả tốt đẹp cho hoạt động đầu tư của Trung Quốc, biểu
hiện cụ thể trong số liệu đầu tư ngày càng tăng lên. Từ 1979-1997, Trung Quốc đã
thu hút đầu tư nước ngoài đạt 348,35 tỷ USD, trong đó 63% là đầu tư trực tiếp, đạt
trên 220 tỷ USD từ hơn 100 nước và đầu tư vào trên 20 ngành nghề. Trong giai
đoạn 1997-2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh, trong 5 năm đạt 226 tỷ
USD, hơn cả giai đoạn 1979-1997 [29]. Đặc biệt, năm 2002, một năm sau khi gia
nhập WTO với ảnh hưởng tích cực của sự kiện này, Trung Quốc lần đầu tiên vượt
Mỹ trở thành quốc gia thu hút được FDI lớn nhất thế giới, với tổng vốn FDI thực
tế là 52,7 tỷ USD [21]. Nguồn vốn FDI đang ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc phát triển kinh tế ở đất nước này.
* Về du lịch
Nói đến kinh tế Trung Quốc, không thể bỏ qua du lịch - “ngành công nghiệp
không khói” của đất nước này. Mỗi năm, Trung Quốc thu hàng tỷ USD với hàng
chục triệu lượt người đến tham quan. Năm 1995, số khách du lịch là 46,39 triệu
12
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
lượt người, doanh thu đạt 8,7 tỷ USD. Năm 2000, con số này là 698 triệu lượt
người, tăng 50 triệu lượt người so với năm 1999. Riêng năm 2001, tổng doanh thu
ngành du lịch đạt khoảng 59 tỷ USD (496 tỷ NDT), tăng 9,76% so với năm 2000
[22]. Năm 2002, số người du lịch trong nước cả năm đạt 877,82 triệu lượt người,
thu nhập du lịch trong nước đạt 387,8 tỷ NDT, tăng 10,1%; thu nhập ngoại tệ du
lịch quốc tế đạt 20,4 tỷ USD, tăng 14,6% [21].

Qua hơn 20 năm cải cách, đất nước Trung Quốc đã trải qua nhiều thăng trầm,
chuyển biến, nền kinh tế Trung Quốc vừa phải đối mặt với những khó khăn, thách
thức nhưng cũng gặt hái được rất nhiều thành tựu. Sự phát triển kỳ diệu của Trung
Quốc là nhờ đâu nếu không phải từ sự nỗ lực hết mình của người dân Trung Quốc
trong công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu đưa Trung Quốc từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, từng bước trở thành một cường quốc kinh tế lớn mạnh.
Chắc chắn rằng trong những năm tới đây, Trung Quốc sẽ vẫn còn tiếp tục phát
triển, nền kinh tế sẽ ngày càng hội nhập, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh
tế thế giới.
Nền kinh tế Trung Quốc trong hơn 20 năm qua phát triển rất sôi động, nhưng
đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương thì những chuyển biến lại càng diễn ra
nhanh hơn, mạnh hơn. Có thể nói ngoại thương là “đầu tàu” trong phát triển kinh
tế Trung Quốc trong giai đoạn cải cách mở cửa hiện nay. Trong lĩnh vực này,
Trung Quốc đã có những bước tiến thành công, gặt hái nhiều thành tựu. Tuy nhiên
để làm được điều đó thì ngoại thương Trung Quốc đã phải trải qua nhiều giai
13
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
đoạn phát triển, vừa làm vừa rút kinh nghiệm mới dần dần đi vào đúng quỹ đạo
phát triển.
II. CẢI CÁCH HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG TRUNG QUỐC QUA CÁC
GIAI ĐOẠN
* Sự cần thiết phải cải cách mở cửa ngoại thương Trung Quốc
Trước khi thực hiện cải cách mở cửa nền kinh tế vào cuối năm 1978, Trung
Quốc đã có những quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới nhưng quy mô nhỏ,
phạm vi hẹp. Các quan hệ đã chỉ dừng lại ở một nền ngoại thương kém phát triển
và một ít viện trợ nhằm mục tiêu chính trị. Những hoạt động thông thường như vay
nợ, nhận đầu tư từ nước ngoài, tổ chức du lịch đều không đáng kể. Chính sách bế
quan tỏa cảng vốn có trong lịch sử vẫn là xu thế cơ bản trong các quan hệ kinh tế
đối ngoại của Trung Quốc. Điều này khiến cho Trung Quốc không tận dụng được
những thành quả khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Nó cũng khiến cho mọi

nhân tố tiềm tàng nội tại của đất nước không được đánh thức dậy. Nền kinh tế bị
kìm hãm làm cho khoảng cách kinh tế của Trung Quốc với các nước phát triển trên
thế giới ngày càng xa. Tình hình kinh tế trong nước những năm 70 đòi hỏi các nhà
lãnh đạo Trung Quốc phải tiến hành thay đổi chính sách này. Đặng Tiểu Bình khi
tổng kết bài học kinh nghiệm trong lịch sử Trung Quốc đã cho rằng: “Một nhân tố
quan trọng khiến Trung Quốc chìm đắm trong tình trạng lạc hậu và trì trệ là đóng
cửa tự bao vây. Kinh nghiệm cho thấy, đóng cửa tự bao vây, đóng cửa để tự xây
dựng thì không thể thành công được, sự phát triển của Trung Quốc không thể tách
rời với thế giới được” [13].
14
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Người Trung Quốc cũng đã thấm thía cái giá quá đắt của chính sách “tự lực
cánh sinh, độc lập tự chủ” cực đoan và phiến diện, thấy rõ tính tất yếu của xu thế
hội nhập và phân công lao động mới trong nền kinh tế thế giới và khu vực mà
Trung Quốc không thể dứng ngoài.
Không chỉ thực trạng kinh tế yếu kém của đất nước đòi hỏi phải cải cách mở
cửa mà tình hình thế giới vào cuối thập kỷ 70 cũng tạo điều kiện cho sự thay đổi
sâu sắc và toàn diện diễn ra ở Trung Quốc. Đặc biệt vào cuối thập kỷ 70, xu thế đa
phương hóa và chuyên môn hóa, quốc gia hóa trong nền kinh tế thế giới trở nên vô
cùng sôi động, làm cho mối quan hệ giao lưu trao đổi và mậu dịch quốc tế ngày
càng được mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Đứng trước tình hình này, hoạt động
ngoại thương chủ yếu dựa vào quyền lực của thể chế kinh tế truyền thống tập trung,
tự cấp tự túc, bế quan tự thủ của Trung Quốc đã trở nên lạc hậu và kém hiệu quả,
không thể phù hợp với xu thế mở rộng quan hệ đối ngoại, hòa nhập kinh tế, tăng
cường mậu dịch và hợp tác trên đà phát triển sôi động trong các nước trên thế giới.
Bên cạnh đó, những thách thức của những tiến bộ khoa học kỹ thuật như vũ
bão và cuộc cách mạng ngành nghề mới trên phạm vi toàn cầu, của phát triển giao
lưu và quốc tế hóa kinh tế cao độ cũng buộc Trung Quốc phải tự xét lại mình, tự
đổi mới, tiếp thu thành quả khoa học kỹ thuật hiện đại, tạo ra sự phát triển mạnh
mẽ. Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là khoa học kỹ thuật trở thành

sức sản xuất trực tiếp, trí tuệ đóng vai trò trọng tâm tạo ra những hiệu quả kinh tế
gấp nhiều lần trước kia. Con người không những tác động đến đối tượng sản xuất
mà còn có khả năng tạo ra cả đối tượng sản xuất, những năng lượng mới, những vật
15
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
liệu mới. Công nghệ mới, lao động chất xám đã làm cho năng suất lao động phát
triển lên đến mức vô cùng to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa sản xuất.
Nền kinh tế quốc gia đã vượt ra ngoài phạm vi một nước để tham gia vào sự phân
công lao động quốc tế. Đó là xu thế phát triển của thế giới.
Sự phát triển với tốc độ cao của một số nước Châu Á-Thái Bình Dương cũng
là một sức ép góp phần thúc đẩy Trung Quốc mở cửa. Tất cả các nước NICs và các
nước ASEAN do nhận thấy xu thế toàn cầu hóa của nền sản xuất, cho nên đã điều
hướng sản xuất của mình chuyển từ chỗ thay thế nhập khẩu sang chỗ hướng về
xuất khẩu, tham gia mạnh mẽ vào nền thương mại thế giới. Rõ ràng là họ đã trước
sau thoát khỏi tình trạng đóng cửa, vươn mạnh ra bên ngoài, khắc phục tư tưởng sợ
phụ thuộc vào nước ngoài, Chính điều này đã làm cho các nước này có tốc độ tăng
trưởng đáng ngạc nhiên, đặc biệt là Nam Triều Tiên có tốc độ tăng trưởng về xuất
khẩu trong những năm 60 và 70 là 35% và 27%, trong khi đó thì thương mại thế
giới chỉ tăng tương ứng có 9% và 7%. Vào những năm 70 tỷ lệ xuất nhập khẩu đối
với GDP của Nam Triều Tiên và Đài Loan là 34% và 50% [15].
Tình hình này buộc Trung Quốc phải xem lại mình và buộc Trung Quốc phải
cải cách ngoại thương nếu không muốn tụt hậu hơn nữa so với các nước trong khu
vực. Do đó vấn đề cấp thiết và tiên quyết của Trung Quốc trong chiến lược phát
triển ngoại thương là phải tăng cường khôi phục và thúc đẩy toàn bộ hệ thống mậu
dịch đối ngoại phát triển sống động, tạo điều kiện cho sản xuất, xuất khẩu hàng hóa
và nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật tiên tiến của thế giới, góp phần đưa nền kinh tế
quốc dân phát triển nhanh chóng.
16
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Trung Quốc đã tiến hành cải cách ngoại thương nhằm tiến tới thiết lập một hệ

thống thương mại tự do phù hợp với nền kinh tế mở cửa và hòa nhập vào xu thế
chung của nền kinh tế thế giới. Quá trình cải cách này có thể chia làm các giai đoạn
chính như sau:
1. Giai đoạn 1979-1987 (giai đoạn tìm tòi thử nghiệm)
Là chặng đường đầu tiên của mở cửa cải cách nên cách thức thực hiện còn
nhiều bỡ ngỡ, tuy nhiên có thể tập trung vào các chính sách chính sau:
- Mở rộng quyền giao dịch của các chính quyền địa phương, các bộ và các
doanh nghiệp. Cải cách trong giai đoạn này bao gồm việc thực hiện chế độ khoán
ngoại thương theo khu vực và phân bổ thẩm quyền phê chuẩn đăng ký kinh doanh
của các doanh nghiệp cho các tỉnh, thành phố và các khu tự trị.
- Cải cách chế độ kế hoạch hóa trong xuất nhập khẩu, bao gồm từng bước
giảm đáng kể số lượng hàng hóa theo kế hoạch mệnh lệnh, và giảm đáng kể số
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu do Chính phủ trực tiếp quản lý. Năm 1985, các Bộ
trực thuộc Chính phủ trung ương đã bắt đầu ngừng ra các mệnh lệnh đối với mua
và phân phối hàng hóa xuất khẩu.
- Điều chỉnh chế độ tài chính trong ngoại thương. Các khoản tài chính của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất kiêm xuất nhập khẩu
trực thuộc các Bộ được tổng hợp lại trong tài chính của Chính phủ trung ương. Các
doanh nghiệp lớn có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu được kiểm toán một cách
độc lập. Các chính quyền địa phương về mặt nguyên tắc có trách nhiệm với mọi
khoản lỗ lãi trong các hoạt động xuất nhập khẩu mà họ tham gia.
17
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
- Cải cách chế độ hoạt động ngoại thương, bao gồm chuyển từ chế độ kinh
doanh một kênh sang chế độ kinh doanh nhiều kênh, chuyển từ chế độ kinh doanh
một chức năng sang chế độ sản xuất kiêm kinh doanh xuất nhập khẩu, cho phép các
doanh nghiệp tham gia vào ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu một cách độc
lập và áp dụng chế độ đại lý đối với một số loại hàng hóa.
- Thực hiện chế độ giữ lại ngoại hối. Để khuyến khích các chính quyền địa
phương, các bộ và các doanh nghiệp tham gia vào xuất nhập khẩu một cách tích

cực, chế độ giữ lại ngoại hối được áp dụng năm 1979. Nói cách khác, trên cơ sở
Nhà nước thống nhất quản lý ngoại hối và đảm bảo cho những nhu cầu quan trọng
của các dự án quan trọng, các doanh nghiệp có quyền giữ lại một phần ngoại tệ mà
họ kiếm được và có quyền tự quyết đối với việc sử dụng số ngoại tệ này. Họ có thể
tham gia vào thị trường ngoại hối và có thể bán số ngoại hối không sử dụng cho
các doanh nghiệp cần mua.
Với những cải cách bước đầu trong hoạt động ngoại thương, từ sau năm 1978,
hoạt động ngoại thương của Trung Quốc diễn ra khá sôi động. Kim ngạch ngoại
thương năm 1979 mới chỉ đạt 29,33 tỷ USD thì đến năm 1987 đã đạt 82,652 tỷ
USD nghĩa là tăng 2,8 lần so với năm 1979. Trong thời gian này, ngoại thương
Trung Quốc phát triển với tốc độ trung bình là 14,2% một năm, đưa Trung Quốc từ
chỗ xếp thứ 28 trên thế giới về tổng khối lượng buôn bán lên vị trí thứ 12, về xuất
khẩu từ thứ 32 lên thứ 14, về nhập khẩu từ thứ 27 lên thứ 11. Số mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD từ 20 chủng loại tăng lên tới 48 chủng loại.
Thị trường ngoại thương quốc tế cũng được mở mang mọi mặt từ chỗ có quan hệ
18
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
ngoại thương với trên 140 nước trong năm 1979 lên 180 nước và khu vực vào năm
1987 [23].
2. Giai đoạn 1988-1990 (giai đoạn quá độ chuyển sang cải cách chiều sâu)
- Trọng tâm của giai đoạn này là tăng cường chế độ khoán ngoại thương.
Chính phủ đã bắt đầu áp dụng chế độ này vào năm 1988. Trong phạm vi chế độ
này, các chính quyền địa phương ký kết hợp đồng với Chính phủ về số lượng ngoại
hối mà họ cam kết sẽ thu được, số lượng ngoại hối họ sẽ giao nộp cho Chính phủ
và những lợi ích kinh tế mà họ cố gắng đảm bảo. Những hợp đồng này vẫn không
thay đổi từ năm 1988- 1990. Sau đó, các chính quyền địa phương lại ký hợp đồng
với các doanh nghiệp kinh doanh địa phương và thực hiện các mục tiêu ngoại
thương của mình theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chế độ này, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tự chịu trách
nhiệm về các khoản lỗ lãi của chính mình. Trách nhiệm này trước hết được áp dụng

tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong ngành công nghiệp nhẹ, mỹ nghệ và
may mặc. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất và các
chính quyền địa phương giữ lại một phần lớn các khoản thu ngoại tệ, còn một phần
nhỏ được giao nộp cho Chính phủ. Tuy nhiên, để đổi lấy tỷ lệ giữ lại lớn, họ phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về các khoản lỗ lãi của mình. Với chế độ khoán ngoại
thương, chế độ kế hoạch hóa ngoại thương cũng được cải thiện thêm một bước. Trừ
21 loại hàng hóa xuất khẩu vẫn nằm dưới chế độ quản lý thống nhất và vẫn theo
chế độ xuất khẩu hai kênh, tất cả các loại hàng hóa đã được chuyển từ chế độ hai
kênh sang chế độ một kênh duy nhất. Điều này có nghĩa là các chính quyền địa
19
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
phương sẽ ký hợp đồng trực tiếp với Chính phủ. Một khi chế độ này được thực
hiện thì chế độ tài chính trong ngoại thương cũng được cải cách theo. Các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu ký hợp đồng trực tiếp với Nhà nước về các chỉ tiêu lợi ích
kinh tế nhất định, và theo thông lệ quốc tế, Nhà nước đã thực hiện đầy đủ các ưu
đãi về thuế xuất khẩu. Ngân sách của các chi nhánh địa phương của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu được gắn với các ngân sách của các chính quyền địa
phương và tách ra khỏi ngân sách của Chính phủ trung ương.
- Chế độ quản lý ngoại thương đã được tiếp tục cải cách dưới hệ thống mới
này nhằm xác định lại quyền quản lý các hoạt động thương mại. Từ tháng 10/1988,
chức năng của Bộ ngoại thương cũng đã được đổi mới: ngoài việc nghiên cứu xác
định chiến lược phát triển ngoại thương, quản lý giấy phép, hạn ngạch xuất nhập
khẩu, còn chịu trách nhiệm kế toán ngoại hối, tăng cường giám sát quản lý công tác
thống kê, chỉ đạo công tác kinh doanh và kế toán tài vụ của các xí nghiệp ngoại
thương, tham gia điều tiết mức thuế và cân đối công tác ngoại thương giữa các khu
vực.
- Việc thi hành hệ thống hợp đồng trách nhiệm theo hướng cân đối trách
nhiệm, quyền hạn và lợi nhuận của các công ty ngoại thương có tác dụng giải quyết
các vấn đề khác nhau của địa phương, các ngành, các công ty ngoại thương và các
xí nghiệp sản xuất, đồng thời còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phương thức

hoạt động bên trong của các xí nghiệp, đó là nguyên nhân tạo ra được lợi nhuận và
mở rộng ngoại thương.
20
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Giai đoạn này chỉ kéo dài có 3 năm nhưng ngoại thương Trung Quốc đã có
những bước tiến lớn. Vào năm 1990 kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc đạt
115,4 tỷ USD so với 102,784 tỷ USD năm 1988 tăng lên 12%. Điểm đặc biệt là sau
một thời gian dài nhập siêu đến năm 1990 Trung Quốc đã xuất siêu với thặng dư là
8,746 tỷ USD. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng năm hơn 100 triệu USD
từ 48 loại vào năm 1987 đã lên đến 83 loại vào năm 1990. Tỷ trọng hàng công
nghiệp xuất khẩu trong kim ngạch xuất khẩu chiếm 74,5%. Đối với hoạt động nhập
khẩu, vào năm 1989, những thiết bị đồng bộ và kỹ thuật tiên tiến được nhập vào
khoảng 4,39 tỷ USD, đổi mới 400 xí nghiệp trọng điểm và đã sản xuất ra hơn 6000
loại sản phẩm mới, trong đó một số lượng khá lớn đạt được tiêu chuẩn tiên tiến trên
thế giới có sức cạnh tranh mạnh mẽ. Đến năm 1990, Trung Quốc đã thiết lập được
quan hệ thương mại với 200 nước và khu vực [23].
3. Giai đoạn 1991-2001
Mục tiêu của giai đoạn này là thiết lập một chế độ quản lý và một cơ chế hoạt
động với đặc điểm "chính sách thống nhất, cạnh tranh lành mạnh, quản lý tự chủ,
trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp đối với các khoản lỗ lãi, kết hợp sản xuất với
thương mại, áp dụng chế độ đại lý và thẩm quyền duy nhất trong việc giải quyết
các vấn đề thương mại". Mục tiêu của chế độ mới là nhằm chấm dứt một lịch sử
lâu đời của nền ngoại thương trợ cấp và buộc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các biện pháp cải cách bao gồm:
- Xoá bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
đồng thời tăng tỷ lệ giữ lại ngoại hối để thực hiện chế độ khoán ngoại thương đối
21
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
với các khoản lỗ và lãi. Cụ thể: Tổng công ty ngoại thương trung ương giao khoán
xuất khẩu trực tiếp cho các địa phương, các địa phương chịu trách nhiệm tổ chức

xuất khẩu, thu ngoại tệ về và giao nộp 70%, được giữ lại 30% ở địa phương, chỉ
tiêu khoán được giao cho các xí nghiệp và cơ sở ngoại thương. Nếu thu nhập vượt
quá mức chỉ tiêu khoán thì phần vượt này địa phương được giữ lại 80%. Việc cải
cách hệ thống quản lý ngoại tệ đã giúp các công ty có được nhiều ngoại tệ hơn cho
các nhu cầu mở rộng tái đầu tư của họ. Nhiều xí nghiệp và các viện nghiên cứu
khoa học đã được phép tham gia các hoạt động ngoại thương. Đồng thời với việc
thu hẹp, giới hạn các mặt hàng xuất nhập khẩu cần xin giấy phép, Trung Quốc đã
giảm thuế nhập khẩu nhằm mở rộng tự do thương mại.
- Tự do hơn nữa thị trường ngoại hối. Trước hết hủy bỏ chế độ hai tỷ giá,
thống nhất tỷ giá của đồng Nhân dân tệ với các ngoại tệ khác, chủ yếu dựa vào thị
trường cung và cầu ngoại tệ. Chính sách này được đưa ra nhằm mang lại đầy đủ vai
trò quan trọng của tỷ giá hối đoái, như là một biện pháp điều chỉnh ngoại thương.
Thị trường giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng đã được thành lập, nhằm trợ giúp
cho cơ chế xây dựng tỷ giá hối đoái và nhận ra những tác động có thể làm thay đổi
đồng Nhân dân tệ đối với tài khoản hiện hành. Cuộc cải cách về tỷ giá hối đoái đã
thúc đẩy cải cách trong hệ thống quản lý nhập khẩu. Một số quy định hạn chế phi
thuế quan bị hủy bỏ hoặc là bị giảm bớt, đã mở rộng thêm "tự do" cho hoạt động
nhập khẩu.
- Chính phủ ký hợp đồng với các tỉnh, khu tự trị, thành phố hạch toán tài chính
độc lập, công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất kiêm xuất
22
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
nhập khẩu các loại hàng hóa chuyên ngành nhất định cũng như với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu khác. Các hợp đồng đó quy định hạn ngạch xuất khẩu, hạn
ngạch thu ngoại hối và hạn ngạch ngoại hối phải nộp cho Chính phủ. Các hạn
ngạch trong mỗi hợp đồng được đánh giá và điều chỉnh theo từng năm.
Nhìn chung, những cải cách trong giai đoạn này đẩy mạnh hơn nữa việc mở
rộng quyền hạn, chủ động sản xuất kinh doanh ngoại thương; khơi dậy tính tích
cực, năng động sáng tạo cho các xí nghiệp sản xuất và các công ty xuất nhập khẩu;
đẩy mạnh việc mở rộng kênh lưu thông, tiêu thụ hàng hóa ra thị trường thế giới;

tăng cường sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
4. Năm 2001 Trung Quốc trở thành thành viên của WTO - một dấu mốc quan trọng
trong phát triển ngoại thương nói riêng và kinh tế nói chung
4.1. Sự cần thiết gia nhập WTO của Trung Quốc
Xét từ góc độ tiềm lực phát triển của kinh tế Trung Quốc cũng như từ cơ chế
hoạt động toàn cầu của WTO, việc Trung Quốc gia nhập WTO là phù hợp với nhu
cầu của cả hai bên.
* Về phía Trung Quốc:
Trong hơn hai thập kỷ qua, công cuộc cải cách và mở của của Trung Quốc
được tiến hành trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Toàn
cầu hoá đã mang lại cho Trung Quốc cả những cơ hội lẫn những thách thức. Cho
đến nay, sự phát triển và thịnh vượng của Trung Quốc phụ thuộc khá nhiều vào các
mối liên kết của Trung Quốc với thế giới bên ngoài. Chính vì vậy, gia nhập WTO
là nhu cầu thiết thực để Trung Quốc:
23
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
- Tiếp tục đi sâu cải cách và mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa
- Hoà nhập vào xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
- Tận dụng triệt để hơn nữa kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, công nghệ, thị
trường và nguồn vốn quốc tế
- Tăng cường xây dựng niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài về triển vọng
phát triển và môi trường đầu tư của Trung Quốc
- Thúc đẩy sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, xúc tiến việc mở rộng các ngành
sản xuất và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
- Tham gia WTO, Trung Quốc sẽ được hoà nhập vào một "Liên hợp quốc về
kinh tế và thương mại" với hơn 140 thành viên, kim ngạch buôn bán hàng năm
chiếm trên 90% kim ngạch buôn bán toàn cầu [14]. Lợi ích mà Trung Quốc nhận
được là vô cùng to lớn khi Trung Quốc được hưởng Quy chế Tối huệ quốc (MFN)

vô điều kiện, điều đó chắc chắn sẽ thúc đẩy quá trình giao lưu buôn bán, xuất nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ của Trung Quốc với các nước và khu vực trên thế giới
không ngừng tăng lên.
- Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, Trung Quốc sẽ tránh
được những rào cản không đáng có của “chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch”, bảo vệ tối đa
quyền lợi hợp pháp của Trung Quốc trong thương mại quốc tế.
* Về phía WTO
24
Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam
Xét từ góc độ tiềm lực phát triển và quy mô to lớn của nền kinh tế–thương
mại Trung Quốc, từ mối quan hệ tương hỗ đôi bên cùng có lợi giữa nền kinh tế
Trung Quốc với các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới, từ thị trường to
lớn cho tới tư thế và phương thức ứng xử của Trung Quốc trong vai trò một nước
lớn có tiếng nói trên trường quốc tế, tất cả đều chứng minh rằng WTO sẽ không thể
được coi là hoàn chỉnh khi chưa có sự tham gia của Trung Quốc-nước đang phát
triển lớn nhất trên thế giới:
- Không có sự tham gia của Trung Quốc trong việc xây dựng những nguyên
tắc của WTO, phạm vi ứng dụng của những nguyên tắc ấy chắc chắn sẽ hạn chế.
- Không có sự tham gia của một thị trường rộng lớn như Trung Quốc, thị
trường quốc tế khó có thể là thống nhất.
Có thể thấy, Trung Quốc cần WTO và WTO cần Trung Quốc, việc Trung
Quốc gia nhập WTO là phù hợp với lợi ích của cả Trung Quốc và các nước trên thế
giới. Điều đó đã được chứng minh một cách thuyết phục thông qua sự hợp tác
thành công và những thành tựu to lớn mà các bên đạt được trong nhiều năm qua.
4.2. Tóm tắt quá trình đàm phán và gia nhập WTO của Trung Quốc
4.2.1. Tiến trình gia nhập
1948 - Trung Hoa Dân Quốc là một trong số 23 thành viên sáng lập của Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại GATT (tiền thân của WTO)
25

×